Chương Mười Lăm
Trại cải tạo có nhiều tù
các nơi chuyển đến thì những hoạt động của các tổ chức chính trị ồn ào nhộn nhịp
và hậu quả không tránh khỏi sự khám phá của an ninh qua sự báo cáo của hệ thống
tù nhân làm tay sai vẫn lén lút cung cấp tin tức. An ninh biên chế những tù
nhân bị liệt vào thành phần cứng đầu vào phân trại B, để thi hành chế độ cải tạo
nặng nề và đồng thời chuyển một số người chúng nghi là có ảnh hưởng đến đám
đông vào phân trại C để giam vào xà lim và cách ly. Tôi theo toán người vào
phân trại B, ở vài ngày chưa yên chỗ thì được lệnh chuyển trại vào C. Phân trại
C nằm trong một thung lũng hẹp cách phân trại B khoảng 3 km, theo đường núi ngoằn
ngoèo vào xã Xuân Định, đa số là đồng bào sắc dân H’Roi, một sắc dân thiểu số
chưa được khai hóa vì từ chiến tranh chống Pháp đến nay vùng rừng núi này thuộc
Việt Cộng kiểm soát. Cán bộ chế độ Cộng Hòa chỉ hoạt động từ năm 1956 đến đầu
năm 1958 rồi rút từ khi Việt Cộng bắt đầu có những hoạt động ám sát.
Qua một con suối cạn, một
cánh rừng nhỏ, đến trảng tranh đầu thung lũng, nhìn lại tứ bề vách núi dựng đứng.
Thung lũng trở thành như cái giếng cạn khổng lồ. Bề mặt thung lũng được san bằng
phẳng, khu trại được xây hai bên con đường băng ngang, bên tay phải là trại tù,
bốn bề có dây kẽm gai, hào sâu trồng cây xương rồng dầy đặc, bên tay trái cách
cái ao nuôi cá là dãy nhà chỉ huy và nhà ở của cán bộ. Bấy nhiêu đó đã nói lên
bao công trình của tù đã để lại, bao nhiêu mồ hôi đã đổ ra, và bao nhiêu tuổi
trẻ đã nằm xuống, còn ghi lại bởi những nấm mồ nằm chi chít trên một ngọn đồi đầy
cỏ tranh đất khô cằn không trồng được cả loại khoai mì H-34. Sau tù tàu Việt
Nam Thương Tín xây dựng trại A, tù hình sự đến Xuân Phước xây dựng trại B, trại
C và trại D. Họ phải chống lại nước độc và sương lam chướng khí và phải đẵn
cây, san đất, xẻ đường với dụng cụ thật thô sơ và sức con người còm cõi vì thiếu
ăn.