27.3.21

Ranh Con (2)

A20 Nguyễn-Đại-Thuật

    Mùa hè năm 2017, trong một bữa cơm tối, Thiery, con trai đầu của tôi mở đài truyền hình ARTe, một đài hợp-tác Pháp-Đức để xem một chương-trình phóng-sự ghi lại về câu chuyện của một gia-đình sắc tộc thiểu-số sống ở Nam Lào mà đài đã báo cho khán thính giả biết từ mấy ngày trước.  Tôi cũng tò mò nhìn xem, vì sau kỳ nghỉ hè, tôi cùng hai bác sĩ đồng nghiệp sẽ được bộ Y-Tế Pháp gởi qua Lào hợp-tác trao đổi về việc phòng chống ung-thư trong một năm. Lời người dẫn câu chuyện cho biết: Chuyện bắt đầu sau khi cuộc chiến tranh Việt-Nam chấm dứt năm 1975. Chương-trình được phát không ngoài mục-đích tiếp nối vòng tay yêu thương giữa người và người !

    Trên màn hình, một gia-đình có một người đàn bà trẻ, hai thanh niên, một thiếu nữ, một bà lão tóc bạc cùng một đàn ông trung-niên, và người đàn ông bắt đầu câu chuyện:

24.3.21

Ranh Con (1)

        A20 Nguyễn-Đại-Thuật.

       Tôi được lớn lên tại làng Phước-Ninh, thành phố Đà-nẵng. Tên làng Phước-Ninh là nơi chôn nhau cắt rốn của bên ngoại. Khi tôi được sinh ra thì làng cũng đã được đổi tên thành khu phố. Nhà cha mẹ tôi ở trong một kiệt mà sau nầy người ta đổi tên gọi là hẻm. Từ nhỏ, tôi sống gần gũi với cha nhiều hơn với mẹ.

Cha tôi chỉ có một tay và một chân. Chân phải cha tôi, từ gối trở xuống không còn. Tay phải bàn tay cũng không còn. Những buổi trưa nằm ngủ trên ngực cha và cha đưa võng bằng cây nạng gỗ chống xuống đất và khe khẻ hát ru tôi vào giấc ngủ:

 “...  Nhưng than ôi, có một chiều thu lá thu rơi... có một chiều thu lá thu rơi...ôm súng nhìn quê tôi... mơ trong bóng ngày về..... mơ trong bóng  ngày về...”

Thỉnh thoảng mấy dì và cậu của tôi nói chuyện với nhau, tôi nghe được: “Ba con Hóa lúc nào dỗ nó ngủ cũng hát bài nầy, buồn muốn chết.... mà đúng rồi, anh ấy bỏ làng bỏ xứ ngoài Bắc xa xôi trôi giạt vào đây... nhớ về làng cũ quê xưa cũng nên thương cảm anh ấy”.