A20 Nguyễn-Đại-Thuật
Mùa hè năm 2017, trong một bữa cơm tối, Thiery, con trai đầu của tôi mở
đài truyền hình ARTe, một đài hợp-tác Pháp-Đức để xem một
chương-trình phóng-sự ghi lại về câu chuyện của một gia-đình sắc tộc
thiểu-số sống ở Nam Lào mà đài đã báo cho khán thính giả biết
từ mấy ngày trước. Tôi cũng tò mò nhìn xem, vì sau kỳ nghỉ
hè, tôi cùng hai bác sĩ đồng nghiệp sẽ được bộ Y-Tế Pháp gởi qua
Lào hợp-tác trao đổi về việc phòng chống ung-thư trong một năm. Lời
người dẫn câu chuyện cho biết: Chuyện bắt đầu sau khi cuộc chiến tranh
Việt-Nam chấm dứt năm 1975. Chương-trình được phát không ngoài
mục-đích tiếp nối vòng tay yêu thương giữa người và người !
Trên màn hình, một gia-đình có một người đàn bà trẻ, hai thanh niên, một thiếu nữ, một bà lão tóc bạc cùng một đàn ông trung-niên, và người đàn ông bắt đầu câu chuyện:
“Tôi là Hiêng Nen, người sắc-tộc Katu,
hiện đang sống ở Sékong, nước Lào, nơi đây là vùng đất nghèo nhất
đất nước, người dân sống về canh tác bắp, khoai, sắn, làm rừng
và săn bắn. Ngày trước đây, gia-đình tôi gốc sắc-tộc Katu sống ở
Bến-Giàng Việt-Nam. Thời còn chiến tranh, cha tôi lấy mật ong rừng, săn
gấu lấy mật, hái nấm phơi khô đem về bán các vùng lân-cận như Trà-My,
Đại-Lộc, Thường-Đúc.... Rồi cha tôi bị mấy ông Bộ-đội Trường-Sơn bắt
trong một chuyến săn mật ong, mấy ông ấy nói cha tôi làm gián-điệp cho
chính-quyền Thiệu Kỳ. Cha tôi bị đưa qua biên giới, giam-giữ vùng
lãnh-thổ Saravan, vùng đất quân-đội cọng-sản Pathèk Lào kiểm-soát.
Không chịu được gian khổ trong những lần đi dân công tải đạn dược và
thực phẩm dưới bom đạn của chính-phủ quốc-gia Lào và Việt-Nam, cha
tôi trốn về lại Bến-Giàng.
Cuối năm 1974, mấy ông Bộ-đội Trường-Sơn
chiếm đóng Trà-My, Thường-đúc, Đại-Lộc.... cha tôi bị bắt lại và bị
giam tại Thường-đức. Năm đó tôi mười tuổi. Mùa xuân năm 1975, mấy ông
Bộ-đội Trường-Sơn đánh chiếm Sài-Gòn. Quân Pathèk Lào được nhờ giúp
kiểm soát Bến-Giàng, Trà-my, Đại-lộc, Thường-Đức. Nhờ biết nói
tiếng Khmer Môn, ngôn ngữ Katu Đông thuộc Việt-Nam và Katu Tây thuộc
Lào, nên mấy ông bộ-đội Pathèk Lào giúp tôi đi thăm cha.
Tôi đi thăm cha bằng xe đạp. Từ nhà ở
Bến-Giàng đến nơi cha bị giam mất hơn nửa ngày. Thức ăn tiếp tế nuôi
cha chỉ có bột bắp, đường muối và mật ong. Mỗi tháng tôi đi thăm cha
một lần. Sau hơn một năm thì bộ-đội Pathék Lào rút về bên kia biên giới
Saravan, bộ đội Trường-Sơn trở lại quản-lý chính quyền.
Giữa tháng chín năm đó, cha nhắn tin về
ngày cuối tháng cha sẽ được cho về địa phương vì cha biết cải tạo
tốt. Ngày hôm đó, tôi dùng xe đạp đi thật sớm đến trại giam đón cha về.
Người ta cho cha ra khỏi trại giam khi trời đã gần tối. Tôi chở cha sau
xe đạp được một đoạn đường ngắn thì trời đổ mưa. Cha bảo tôi tìm
một nơi nào tránh mưa và ở lại đêm, vì chính-quyền mới cấm người
dân ra đường từ sáu giờ tối đến bảy giờ sáng. Dường như cha rành
đường đi ở đây, cha chỉ đường cho tôi đi. Cách trại giam chừng hai cây
số, cha bảo tôi ngừng xe lại.
Xung quanh toàn là núi rừng, không một
thôn bản hay quán ven đường. Cha trầm ngâm một lúc như gợi nhớ điều
gì, rồi cha tiến vào sâu bên sau những hàng cây cao, to. Một khoảng
trống hiện ra lác đác có những bụi cây nhỏ.Trong một góc, có một
túp lều tranh vách đất. Cha vào trước rồi gọi tôi vào sau. Căn lều
không có cửa nhưng sạch sẽ,chứa vài cái xẻng và vài cái cuốc. Cha
không nói gì. Tôi nghĩ chắc đây là nơi cất dấu dụng cụ của dân làm
rẩy. Quần áo của hai cha con ướt hết, phải vắt ráo rồi mặc lại. Hai
cha con ăn khoai mì luộc với đường tôi đã mang theo rồi tựa lưng vào
nhau cho ấm.
Cha hỏi tôi về chuyện nhà, tôi kể lại
công việc nương rẫy mà tôi đã làm để có cái ăn với tuổi đời đang có.
Khi nghe tôi kể đến chuyện dân trong buôn làng lần lượt bỏ đi về bên
kia biên giới lập buôn làng mới vì không chịu được sự khắc nghiệt đối
xử của chính quyền mới, tôi phải ở lại một mình chờ ngày ra tù
của cha. Cha ôm tôi khóc. Tôi ôm cha khóc. Lâu lắm tôi mới có dịp ôm lại
cha. Tìm lại được cái mùi quen thuộc bị đánh mất từ lâu. Cha nói
giọng buồn thảm:
- Tội cho con tôi quá ! Chiến tranh ác
nghiệt đem mẹ con đi quá sớm.
Tôi nhớ lại một ngày theo cha mẹ lên rẫy,
đang cuốc đất tỉa bắp thì có tiếng súng, mấy ông bộ đội
Trường-Sơn xuất hiện, tiếng súng nổ nhiều hơn và mẹ tôi đã chết vì
đạn, cha cũng bị thương không nặng lắm... năm đó tôi vừa lên sáu.
Không lâu lắm, trời bắt đầu tạnh mưa
nhưng còn gió mạnh. Cha bảo chờ gió yếu bớt sẽ về nhà. Tôi đang đi
vào giấc ngủ thì có tiếng khò khò bên ngoài... như tiếng của một con
vật bị thương. Tiếng khò khò càng lúc càng gần, nghe như quá mệt
mỏi và kiệt sức. Cha bước ra ngoài và tiếng cha:
- Con ra giúp cha một tay "
Tôi vùng dậy chạy ra ngoài. Một người
nằm bất động trong vũng nước mưa còn đọng lại. Hai cha con tôi kéo
người nầy vào lều.. tôi kêu lên:
- Một người đàn bà !
Bà thở khò khò, hai mắt nhắm, toàn thân
run rẩy. Cha lấy trong túi xách từ nhà tù mang ra một cái áo còn ẩm
nước thấm hết nước trên cơ thể của bà rồi bóp tay chân của bà. Cha
bảo tôi lấy đường cho bà uống. Tôi hái lá cây làm thành cái phểu pha
đường vào đó rồi cạy miệng bà ra cho nước đường vào. Bà uông được
năm phểu thì hết đường. Cha bảo tôi phụ bóp hai chân của bà. Tiếng
khò khò giảm dần và bà mở mắt. Từ hai mắt của bà những giọt nước
trào ra. Cha thở phào, đứng lên đi đi, lại lại như suy nghĩ điều gì.
Cha tựa lưng vào tường đất, nhìn người đàn bà rồi gục gục đầu.
Người đàn bà bắt đầu ngồi dậy, rảo mắt nhìn hai cha con tôi rồi
khóc.
Cha lại bảo tôi nếu còn gì ăn được thì
cho bà ăn. Tôi lấy khoai lang đưa cho bà.
Trời mờ sáng. Cha nói chuẩn bị lên
đường về nhà. Tôi nhìn cha rồi nhìn người đàn bà. Như hiểu ý, cha
nói:
- Bà nầy đang đói, hãy cứu bà, bà ở lại đây sẽ chết.
Cha hỏi bà:
- Có cùng muốn đi với tôi không ?
Bà chỉ gật đầu, không nói lời nào. Tôi
nghĩ chắc bà nầy câm !
Tôi cầm tay lái xe đạp. Cha dìu người
đàn bà ngồi sau xe. Cha đi theo sau hai tay đỡ hai vai của bà. Cha chỉ
cho tôi theo những con đường lạ, tránh qua những trạm kiểm soát vì
còn đang trong giờ giới nghiêm.
Người trong buôn di dời hết qua biên giới
vào nội địa Lào, nhà tôi chỉ còn lại chơ vơ một mình. Cha tôi cũng
hơi hụt hẫng một thời gian vì xóm làng không còn ai. Người đàn bà ở
trong nhà được vài ngày thì cha tôi đi đâu đó mang về cho bà mấy bộ
quần áo của sắc tộc Katu, và ông căn dặn tôi ai hỏi người đàn bà
nầy là ai thì nói là cô Hieng Ly, em gái họ của cha từ bên Saravan qua
chơi.
Cô Hieng Ly đã khỏe lại và ở nhà lo cơm
nước tới giờ đem ra rẫy cho hai cha con tôi. Tánh tò mò, có lần tôi
hỏi cha:
- Cô Hieng Ly là ai mà cha cứu về nhà.
Cha nghiêm sắc mặt:
- Con còn nhỏ, biết cũng không ích-lợi
gì, không nên biết.
Sau đó cha còn căn dặn tôi không kể cho
một ai việc xẩy ra trong căn lều tranh trước đây.
Mấy tháng sau, cha tôi xa nhà mấy ngày
rồi lúc trở về tôi thấy cô Hieng Ly khóc sướt mướt. Cô không ăn uống
mấy ngày liên tiếp. Rồi mùa thu hoạch bắp xong, cha săn được mấy tổ ong
mật, cha chuẩn bị đem ong mật và ít bắp đem qua Saravan tìm thăm và
làm quà tặng cho những người thân và quen biết đã bỏ buôn làng từ
Bến-Giàng qua lập nghiệp bên đó. Cha đi cùng cô Hieng Ly. Cha nói cô
Hieng Ly giúp cha chia bớt quà tặng mang theo vì phải mang nhiều, nhiều
người để tặng.
Hơn nửa tháng sau ngày cha đi, công-an xã
đến tìm cha. Họ hỏi tôi:
- Người đàn bà đang ở trong nhà là ai ?
Tôi trả lời như cha bảo:
- Cô ấy là em họ của cha đến chơi.
Trước khi ra về người công-an căn
dặn tôi:
- Khi cha về phải bảo ông trình diện
công-an ngay.
Mấy ngày sau, buổi trưa cha về gặp tôi
ngoài rẫy. Tôi nhắc lại lời công-an xã, cha trầm-ngâm lúc lâu rồi thở
ra, rồi cha bỏ đi. Đến tối, cha bước vô nhà, mặt cha rất buồn. Cha đi
quanh nhà, nhìn khắp nơi trong nhà, tưởng như cha đang tìm kiếm cái gì
đă mất. Cha gom hết áo quần cho vào gùi. Vài lít mật ong còn lại cha
cũng cho vào gùi, thêm ít bắp cho đầy. Cơm tối xong, trăng đã lên. Cha
khoanh tay đi lại trước sân, miệng rì rầm như nói chuyện với ai, rồi
cha mang gùi mật ong và bắp, bảo tôi mang gùi áo quần theo cha.
Đến bìa rừng, cha dừng lại bảo tôi chờ.
Cha đi trở lại nhà... và tôi thấy ánh sáng bùng lên từ căn nhà sàn
của tôi… Cha chạy nhanh về nơi tôi chờ... nắm tay tôi kéo đi. Cha nói
trong hơi thở dồn dập:
- Chạy nhanh, chạy nhanh đi con ".
Tôi vừa chạy vừa quay nhìn lại nơi ánh
sáng phát ra, tôi hỏi cha trong nước mắt:
- Tại sao cha đốt nhà ? Tại sao cha đốt
nhà ?
Trong nhiều ngày liên tiếp, hai cha con tôi
ngày đi đêm ngủ nhờ những bản làng của người sắc tộc Co, Giê, Triêng,
M'nông, trên lãnh thổ Lào và về đến bản làng mới của sắc-tộc Katu.
Nhờ cha là con cháu của tộc trưởng nên
được mọi người chào đón và kính trọng. Không biết cha tôi đã có nói
gì với dân bảng làng về cô Hieng Ly mà cô cũng được kính trọng. Lúc
nầy tôi mới biết cha đưa cô Hiêng Ly đi trước là cha đã chuẩn bị từ
trước cho chuyện từ bỏ Bến-Giàng để qua định-cư hẳn nơi mới nầy. Bản
được hình thành trong huyện Dakleung, nằm dọc dòng sông Sékong. Dân bản
xứ, ngoài việc canh-tác lúa nếp, khoai, bắp, họ còn trồng cà-phê và
đánh cá ven sông.
Lần lượt cô Hieng Ly đem đến cho cha ba
đứa con, hai trai, một gái. Tôi theo ba đứa em gọi cô Hieng Ly là mẹ
Hieng. Những lần mẹ Hieng sinh con, mẹ sinh một mình với sự phụ giúp
của một bà trong buôn. Trong buôn không có một nhà y-tế nào và cũng
không một ai biết làm cô mụ đỡ đẻ. Có nhà y-tế nhưng rất xa, ngoài
huyện, những bà muốn sinh con, đi đến đó thì đã sinh con trên đường
đi.
Chuyện mẹ Hieng tự sinh con tự lo, mẹ con
an-toàn được mấy bà truyền tai nhau, chẳng bao lâu mẹ Hieng nổi tiếng
là cô mụ giỏi. Buôn gần, buôn xa có ai sinh nở đều gọi mẹ. Có ai đau
đầu sổ mũi cũng đến hỏi mẹ. Có người đánh nhau bể đầu, vẹo tay
cũng chạy đến nhờ mẹ. Nhiều lần tôi hỏi mẹ có học y-tế ở đâu không
mà mẹ làm giỏi như vậy, mẹ chỉ cười rồi nói do đọc sách mà biết.
Những người được mẹ giúp thường hay cho tiền mẹ, mẹ từ chối không
nhận. Mẹ chỉ yêu cầu họ nếu có dịp đi ra huyện thì mua thuốc nầy
thuốc nọ và mẹ mở một tủ thuốc tại nhà, lưu giữ, có ai cần thì mẹ
phát để dùng.
Công việc mẹ Hiêng làm có tiếng lên đến
huyện, đến tỉnh Sékong. Hai nơi nầy gởi cán bộ y-tế đến thăm mẹ và
trao bằng khen.Từ đó, một vài tháng, huyện hay tỉnh đều gởi thuốc
thông dụng cho mẹ để mẹ phát cho dân trong các buôn khi họ có nhu cầu.
Một hình-thức như công nhận mẹ có trình độ về y-học. Năm người em
thứ ba được tám tuổi thì cha qua đời, bị rơi từ một cây cao khi bắt
tổ ong. Cha được điều trị ở trạm y-tế huyện. Trước khi cha chết, tôi
đang ngồi săn-sóc cha. Cha nắm tay tôi nói trong lúc những giọt nước
mắt từ từ lăn xuống má. Cha nói:
- Nếu cha không còn sống nữa, con hãy
kính trọng mẹ Hieng Ly, săn sóc mẹ Hieng và các em. Con đã nhìn thấy,
mẹ Hiêng thương con, lo cho con không khác gì ba đứa em của con. Gia-đình
cha mẹ của mẹ Hieng là ân-nhân của đại gia-đình mình. Từ bao lâu nay
cha chưa bao giờ kể cho con biết, tuổi của con chưa cần phải biết. Nay
con là một thanh niên, con trưởng thành, con biết cũng không quá trễ và
cũng để cho con biết trách-nhiệm của mình ở đâu !
Cha là đứa con duy nhất trong gia-đình. Ông
nội con ngày ấy thường đem mật ong, mật gấu và những thổ sản khác
trong buông ở Bến-Giàng đem về Đà-Nẵng bán hoặc trao đổi với người
dân ở đó. Những tháng nghỉ học, cha thường phụ mang hàng giúp ông nội
trong những chuyến đi như vậy. Lúc ấy cha còn nhỏ, chỉ mời mười hai
tuổi. Nơi bỏ mối hàng duy nhất của ông con là nhà ông Tư Xuân, ông có
một sạp bán hàng tạp-hóa trong chợ Mới, cách nhà ông không xa. Nhà
ông Tư Xuân rộng rãi, khang-trang. Thường cho ông con ở lại nhiều ngày
để mua những thứ cần thiết cho chuyến về lại buôn. Quan hệ buôn bán
và trao-đổi trở nên thân tình. Thời buổi đó rất an-bình. Ông con cho
cha xuống học ở thành phố, ông Tư-Xuân cho cha ở trọ, học trường
trung-học bán-công. Con gái ông Tư-Xuân học đệ-thất, cùng lớp với cha.
Năm cha chuẩn bị lên lớp đệ ngũ thì ông con bị tai nạn trong một
chuyến đi xem núi Ngũ-Hành-Sơn do ông Tư Xuân mời. Ông con bị một khối
thạch-nhũ trong một hang động rơi làm nứt sọ. Việc chữa trị tại
bịnh-viện nhiều ngày nhưng ông con không qua khỏi. Việc đám tang đưa ông
con về chôn cất theo tập quán sắc tộc Katu được ông Tư Xuân lo hết.
Gia-đình ta không làm sao có tiền để hoàn lại chi phí của ông. Cha
nghĩ học, về lại buôn làm tiếp công việc của ông con. Cha gùi hàng
đem xuống trao đổi với ông Tư Xuân. Cha nói hàng trao đổi cha chỉ tính
một nửa, phần còn lại tính vào chi phí của đám tang ông con cho đến
khi nào hết nợ. Ông Tư Xuân đồng ý, chỉ nhận hai chuyến và sau đó từ
chối nhận tiếp. Chừng hơn một năm sau, ông Tư Xuân đổi nghề qua làm
nhà thầu xây dựng nhà cửa. Từ đó, cha không còn trao đổi hàng hóa với
một ai trong thành-phố Đà-Nẵng.
Con còn nhớ ngày con đón cha ra tù ? Khi
hai cha con mình kéo người đàn bà rên rĩ ngoài mưa giữa rừng sâu với
thân hình rũ rượi, đói khát vào trong lều tranh ? Sau khi làm những động-tác
giúp bà ấy hồi tỉnh, cha đã nhận ra bà, đứa con gái ông Tư Xuân của
ngày nào ! Cha không biết bà có nhận ra cha không, đứa con trai của
một sắc tộc miền núí ăn ở trọ nhà bà, cùng học chung lớp chung
trường với bà ngày trước ? Và cha cũng đã suy-đoán được tại sao bà
ở đấy, trong lúc nầy ! Bên cạnh trại giam tù cha, đàn ông, có một
trại giam tù đàn bà. Cha không biết lý do bà bị giam ở đó . Những
người tù bị bịnh, bị đói sắp chết, người ta cho khiêng ra để ngoài
nghĩa địa đợi đến khi không còn hơi thở mới chôn. Đêm đến thú hoang
đánh hơi người chết thường tìm đến ăn thịt, có khi tha xác đi nơi
khác. Có lẽ bà sắp chết nên bị đưa ra bỏ ngoài nghĩa-địa ! Căn lều
mà cha con mình trú mưa đêm hôm đó là căn lều cạnh nghĩa địa được dựng
lên cất giữ dụng cụ chôn người chết. Có thể cơn mưa làm bà tỉnh
lại, bò vào lều. Cha không biết bà có nhận ra cha không... cha nghĩ
đến mối thâm tình của ông Tư Xuân đối với ông con, cha nghĩ tình như
anh em của cha với con gái ông Tư Xuân khi ở trọ, học chung trường, cha
phải cứu bà, nếu không bà sẽ bị bắt đưa lại vào tù. Bà phải được
ra khỏi nơi đó. Nếu ngày hôm sau người ta không thấy xác bà ngoài
nghĩa địa, người ta tưởng bà đã chết và thú rừng đã mang xác đi .
Về đến nhà, bà đã nhận ra cha. Bà kể
bà đang bị tù, bà còn sống, bà vẫn còn là người tù. Bà không
biết về đâu trong đất nước đã đổi chủ khi trong người không có giấy
tờ tùy thân... và đề nghị của cha đưa bà rời khỏi nơi đó, bà không
thể chối từ, nếu không, người ta phát hiện ra bà còn sống, bà bị
bắt giam trở lại. Cha đã trở lại thành-phố Đà-Nẵng trong nhiều ngày
theo yêu cầu của bà, đến nhà ông Tư Xuân, cha của bà, nhà chồng con
của bà để hỏi, tìm tin-tức, không một ai biết. Câu trả lời là người
ta đã di tản vào Nam trong thời kỳ hai bên còn đánh nhau. Người ta đi
kinh-tế mới sau khi hòa bình trở lại. Cha đã chia sẻ nỗi đau buồn của
bà, thông cảm đã đến với nhau, rồi cha và bà đồng ý sống đời vợ
chồng.
Mãn tang cha, mẹ Hieng cưới vợ cho tôi.
Vợ chồng tôi vẫn sống chung với mẹ Hieng, mẹ bảo, khi nào mẹ chưa
chết, vợ chồng con không được rời mẹ. Người trong buôn, bản các tộc
xung quanh nhờ mẹ giúp sinh đẻ ngày càng nhiều, người ta biếu nông
phẩm theo mùa nên nhà không thiếu cái ăn. Các em đều được đi học, đứa
nào cũng đọc và viết được tiếng Lào. Mẹ dạy tiếng Việt nhưng không
đứa em nào chịu học, vì ở đây người ta chỉ còn nói tiếng Khmer Mom
trong các bộ tộc và tiếng Lào, tiếng chính thức của dân-tộc Lào.
Các em đã khôn lớn, chúng rời bản làng đi làm xa. lâu lâu mới về
nhà.
Một ngày nọ, lễ khánh thành thác
nước Tat May Hear trên dòng sông Sékong, mở cửa cho ngành du-lịch.
Nghe nói dòng chảy của sông Sékong, một phần có được từ dòng
chảy phát xuất từ sông Thanh thượng nguồn sông Vu-Gia Bến-Giàng. Vì
có chút liên hệ địa lý nầy, báo chí và những người làm du lịch
Việt-Nam cũng như sứ quán Việt-Nam cũng được mời tham dự. Mẹ
Hieng được chủ tịch huyện Dakleung mời tham dự lễ. Ông chủ tịch nói
với mẹ dây là dip ông giới thiệu mẹ với báo chí Việt-Nam, trong
huyện có một người Việt-Nam như mẹ là ân-nhân của nhiều thai nhi và
sản phụ của nhiều tộc trong huyện. Mẹ từ chối. Mẹ có nói với tôi lý
do từ chối là vì mẹ sợ, báo chí
Việt sẽ phỏng vấn mẹ và họ sẽ phát hiện mẹ là người tù chưa
chết, trốn khỏi nơi giam giữ, đối với nhà nước Việt-Nam, và sự dẫn
độ mẹ về nước có thể diễn ra khi nhà nước Lào như là một thuộc
địa của Việt-Nam. Từ chối lời mời của Huyện là mẹ có nhiều
sản phụ cần mẹ trong ngày hôm đó.
Một buổi trưa, đang giờ cóm, người ta
khiêng võng đến nhà một người thân thể to lớn, râu nhiều, mặt mày
tái nhợt, hơi thở yếu... theo sau còn có một vài người khác đeo
nhiều máy chụp hình, người giống như người đàn ông đang nằm trên
võng. Họ là người Tây phương. Một người khiêng võng gọi mẹ Hieng một
cách vội vã trong hơi thở. Người ta nói người đàn ông nầy là phóng
viên báo chí Pháp-Đức đến Sékong dự lễ khai trương thác nước Tat may
Hear, thời gian còn lại họ đi khám phá rừng núi địa phương. Không may
một người bị rắn cắn nên cần cấp cứu, không biết bà Hieng có cách nào
giúp không, trong khi chờ phương tiện tỉnh đến đón về bịnh-viện. Mẹ
rất bình tĩnh. Mẹ rút chiếc yếm của mẹ, sắc phục của đàn bà Katu
đang phơi trước sân nhà, mẹ bứt ra thật mạnh, lấy sợi dây yếm cột
lại phần đùi trên gối của bệnh nhân, chân bị rắn cắn. Mẹ bảo tôi
lấy con dao đi rừng đốt vào bếp than lửa đỏ, chờ mẹ. Mẹ dùng kéo
cắt một phần ống quần chân bịnh nhân. Hai chấm đen, dấu răng của rắn
hiện ra bầm tím, rỉ máu. Với con dao nhỏ dùng cắt nhau rốn cho thai
nhi, mẹ rạch hai dường rất ngọt trên hai dấu răng của rắn, máu chảy
ra và mẹ dùng hai tay bóp và nặn mạnh phần bên trên vết cắt cho đến
khi không còn thấy máu chảy ra. Mẹ lấy cái yếm vừa bứt lấy
giây xếp lại đắp lên vết thương rồi lấy con dao đi rừng vừa lấy ra
khỏi lủa áp lên trên... người bị rắn cắn kêu lên một tiếng... mẹ lấy
một tép sả rửa sạch bảo ông nhai và nuốt nước. Mẹ nói bằng tiếng
Pháp:
- Ông uống nhiều nước vào để lọc hết
nọc độc trong máu chỉ sau vài lần đi tiểu.
Người Tây phương chỉ uống có một ngụm nhỏ nước. Có lẽ ông không hiểu. Mẹ lặp lại bằng tiêng Anh. Ông nhận bát nước từ tay mẹ uống cạn. Một người trong bản đưa cho mẹ một nhúm lá cây giã nhuyễn để đắp vào vết rắn cắn. Không lâu sau đó, ông ta muốn đi tiểu. Sau lần tiểu, mặt mày ông tươi tỉnh trở lại. Người bị rắn cắn là phóng-viên người Đức của đài truyền-hình ARTe một đài hợp tác Pháp-Đức. Khoảng hơn một giờ sau, xe đến chở đoàn phóng-viên rời bản.
Ngày hôm sau, đoàn phóng viên trở lại,
họ đến từ bịnh-viện ở Sékong, sau khi được tiếp tục chữa thương rắn
cắn. Người ta tặng quà cám ơn mẹ. Hôm đó mẹ nói chuyện với họ bằng
tiếng Pháp chen lẫn tiếng Anh. Mẹ từ chối để họ chụp hình, quay phim
hoặc ghi âm. Khi người ta rời đi, tôi hỏi mẹ lý do từ chối, mẹ nói:
- Mẹ là người Việt-Nam nhưng không có
giấy tờ xác thực là người Việt-Nam, mẹ còn đang là người tù của
Việt-Nam, mẹ vẫn trên con đường trốn chạy nhà tù hà khắc ấy. Ở đây,
chính quyền địa phương đã bao dung cho sự sống của mẹ, của cha con,
của con, của các em con. Chưa có một công nhận hợp pháp nơi mảnh đất
mình đang cư-trú. Gia-đình chúng ta, gia-đình của toàn buôn, bản,
những sắc tộc thiểu số quanh đây đều là những thân phận vô tổ-quốc !
Con có nghĩ, một ngày nào, nhà nước nhân-dân Lào với một lý-do nào
đó trục-xuất chúng ta trở về lại bên kia biên-giới... và mẹ sẽ bị
bắt giam lại trong cái nhà tù khốn-khổ trước đây và tất cả chúng ta
sẽ ra sao ? Mẹ hứa với những nhà báo, mẹ sẽ nói những gì về mẹ
nếu họ muốn, khi mẹ không còn là người vô tổ quốc. Hiện tại, giữ im
lặng về thân phận của mẹ là bảo-vệ an-toàn cho các con và cho mẹ.
Quốc-hội nhà nước nhân-dân Lào thông qua
đạo-luật quốc-tịch dành cho những dân-tộc ít người đang định cư
không hợp pháp trên lãnh-thổ Lào. Mới đầu là tin đồn đãi, nhưng
không lâu sau huyện Dakcheung ra thông-tư kêu gọi người dân trong huyện
đến khai báo làm hồ-sơ nhập quốc-tịch Lào. Lần đầu tiên trong đời,
tôi nhận thấy mẹ Hieng rất vui, mẹ nói gia-đình chúng ta không còn
người vô tổ-quốc, mẹ nói, mẹ cười trong nước mắt. Nhưng đến ngày mẹ
và gia-đình nhận được chứng nhận công-dân Lào, mẹ gục đầu xuống bàn
khóc nức nở, tờ giấy công-nhận là công-dân Lào run rẩy trong tay mẹ,
tôi phải cầm lấy vì sợ nó rơi xuống đất. Rồi mẹ đột nhiên hỏi vợ chồng
tôi cùng ba đứa em:
- Các con còn thấy nơi mẹ còn sót lại
những gì là người Việt-Nam không ?
Đứa em
gái út của tôi trả lời:
- Còn chứ mẹ, mẹ còn nói tiếng Việt với anh hai Hieng Nen, mẹ dạy dỗ, nuôi dưỡng chúng con không là cách của người Lào, mẹ còn hát: “chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”...và các con của mẹ không quên được chuyện bà Trưng, bà Triệu mẹ đã kể cho nghe trong những tháng ngày chúng con còn bé nhỏ, nằm ngủ yên lành bên mẹ. Và nhất là món Mì Quảng thơm ngon, sợi mì vàng ánh, trên đất Lào nầy con không tìm thấy được và trong những ngày chung vui cùng bạn bè ở đây, món mì Quảng các con học được của mẹ là phần chính trên bàn ăn.”
******************
Người dẫn giải chương trình giới thiệu người đàn bà tóc bạc đang xuất hiện trong chương trình:
"Đây là bà
Hieng Ly, người di-dân bất hợp pháp, đã trốn khỏi đất nước của bà,
trở thành người vô tổ-quốc. Người tưởng như đã chết nhưng đã sống
lại sau khi nhà tù ném thân xác ra nghĩa-địa chờ chết. Trong cuộc
sống lẫn trốn, một phần con trai Hieng Nen của bà đã kể. Trước đây,
khi bà giúp cứu một thành viên của chúng tôi thoát chết vì bị rắn
cắn, chúng tôi muốn làm một phóng sự về bà, bà từ chối vì bà lo
sợ người ta biết gốc tích của bà, người của đất nước bà sẽ vượt
biên giới bắt bà trở lại.
Đất nước nơi bà
được sinh ra và đất nước của bà đang sống làm người vô tổ quốc là
hai nước xã-hội chủ nghĩa anh em ( ! ) có cùng chung một biên giới và
an-ninh giữa hai bên biên giới không được kiểm soát hoàn-hảo. Nay
bà không còn là người vô tổ quốc, bà là công-dân nước dân chủ
nhân-dân Lào, bà chấp nhận gặp chúng tôi để nói về bà trong
niềm hy-vọng tìm lại được thân nhân của bà không thấy nhau qua bốn
mươi hai năm. Với đôi mắt sáng, nụ cười hóm hỉnh, bà Hieng Ly từ-tốn
kể, mỗi khi bà nói, vết sẹo trên mặt bà lay động, căng ra, khép lại,
tạo cho mặt bà thiếu tự nhiên:
- Thời kỳ chiến-tranh ở Việt-nam, tôi là
trung-úy, sĩ-quan quan trợ y trong quân-đội Miền-Nam. Khi Miền-Nam
Việt-Nam bị người cộng-sản xâm-chiếm, thống nhất đất nước, tôi bị
chính-quyền địa phương bắt tôi từ nhà ở thành-phố Đà-Nẵng đưa
lên giam giữ ở trại giam Thường-Đức.
Người ta kết tội tôi là chiến-sĩ gái
sĩ-quan Ngụy. Một hôm, những người tù nữ chúng tôi đang lao-động cuốc
đất trồng khoai mì thì tên lính gác yêu cầu tôi theo nó đi xuống suối
lấy nước cho mọi người uống. Tôi gánh theo đôi thùng, theo nó ra bờ
suối. Khi tôi cuối xuống lấy nước thì tên nầy ôm vật tôi muốn cưỡng
hiếp. Tôi la cầu cứu, có lẽ những bạn tù không ai nghe vì nước từ
trên thác cao chảy xuống, âm thanh của nước át hẳn tiếng kêu cứu của
tôi. Nó vật tôi xuống, tôi vùng vẫy chống cự. Nó dí đầu lưởi lê
súng vào mặt tôi, nó nói nó sẽ bóp cò súng nếu tôi chống cự. Trong
bản năng tự vệ, tôi nhớ đến những thế võ phòng thân khi còn học ở
quân trường, tôi dùng chân đạp vào bụng nó, nó ngã xuống, cây súng
rời ra khỏi tay, không may cho tôi, đầu lưỡi lê đã cắt vào mặt tôi quá
sâu, và đây là chứng tích của ngày hôm đó. Bà Hieng Ly chỉ tay vào
vết sẹo trên mặt của mình. Bà có vẻ xúc động... im lặng một chút
rồi tiếp-tục. Tôi bị đưa về trại giam. Tên bộ đội toan tính hiếp dâm
tôi chỉ vết thương trên mặt tôi nói với đồng bọn đó là kết quả sự
chạy trốn của tôi và nó đã đánh nhau với tôi trước khi tôi bị bắt
lại. Tôi bị biệt giam dưới hầm sâu ba tháng, rồi được giải ra xử
trước tòa án nhân dân Thường-Đức, tôi bị buộc tội cướp chính quyền
để trốn trại, bị tuyên án mười năm tù. Người ta lại biệt giam tôi
đợi ngày chuyển đi trại dành cho những người có án. Tôi bị bỏ đói
vì cho tôi ngoan cố vu khống cho cho cán bộ trại giam và không nhận
tội. Mỗi ngày đều có người của trại giam đến cửa hầm yêu cầu tôi
nhận tội thì sẽ được cho ăn uống. Lời yêu cầu được tôi trả lời bằng
im lặng....và cái đói, cái khát đã hành hạ thân xác tôi đau đớn, rã
rượi, chỉ có những cơn mơ đưa tôi về với ngày thơ ấu, với đầm ấm
của gia-đình cha mẹ anh chị em, với hạnh phúc bên chồng con... Cái
đói khát dường như đi lạc một nơi nào đó trong vài giây phút
ngắn ngủi....rồi giấc mơ không còn đến nữa...thay vào bằng những
khoảng không gian sâu thẳm hun hút toàn một màu đen....và trong cái đen
tối ấy, thân thể tôi bị trôi đi trong những va chạm đau đớn... có âm
thanh gì như tiếng gió rít thổi vào cơ thể tôi.
- “Ném nó ra ngoài đó, chờ cho nó không
còn thở nửa , chôn sẽ không muộn!”
Dường như có ai ném cát, sỏi vào cơ thể
tôi tê buốt. Dường như tôi đang trôi trong một dòng nước.
Dường như có ai đang đổ nước vào miệng tôi... và tôi nhìn thấy ánh
sáng mờ ảo. Tôi đang nằm ngoài trời mênh mông dưới cơn mưa. Tôi không
biết tôi đang ở đâu và tại sao tôi đang ở nơi nầy. Tôi như là con cá
luồn lách trong đám bùn đầy cỏ. Tôi nhìn thấy một khối đen từ xa,
có thể là một tàng cây, tôi lách tới. Sự hoang vắng làm tôi sợ hãi.
Tôi muốn nghe một tiếng động của con người. Tiếng kêu cứu của tôi là
lời rên mỏi mệt. Rồi tôi cảm thấy người tôi ấm lại. Tôi bắt đầu nhớ
lại... người ta đã bỏ tôi ngoài nghĩa địa ...Tôi đã nhiều lần khiêng
những người tù sắp chết bỏ ra nghĩa địa chờ cho chết rồi mới chôn.
Tôi là người tù bị bỏ đói sắp chết... Hai mắt của tôi quen dần với
đêm tối.
Cứu tôi là hai người đàn ông. Khi người
đàn ông lớn tuổi hỏi tôi muốn theo ông để rời khỏi nơi đó không, bản
năng của sự sống, tôi chỉ biết gật đầu, muốn không còn bị bắt lại
vào tù.
Tôi nhận ra được người cứu tôi là Hieng
Thi, đã có hai năm học trung học cùng lớp với tôi và đã từng được
gia-đình cha mẹ tôi cho ở trọ để đi học. Thời đó cha của Hieng Thi hay
đem sản phẩm có được từ rừng bỏ mối cho cha tôi bán. Sau đó cha của
Hieng Thi bị tai nạn chết, Hieng Thi nghĩ học về lại bản làng Katu ở
miền núi tiếp tục công việc của cha mình. Một thời gian sau đó cha
tôi đổi nghề, không còn buôn bán, và tôi không có cơ hội gặp lại Hieng
Thi cho đến ngày tôi được cứu khỏi chết đói, chết lạnh và có thể
chết trở lại trong tù.
Hieng Thi đã đi Đà-Nẵng tìm kiếm
gia-đình tôi. Không có một tin-tức nào. Cha mẹ tôi, anh chị em tôi,
chồng tôi, con gái tôi đã biến mất. Tôi đã đau đớn biết bao, đất nước
người, sau cuộc chiến người ta sum họp, đoàn tụ. Đất nước tôi thì
ngược lại, phân ly, tù tội và lưu đày. Trước mắt tôi là một vực thẳm
chứa đầy những người tù của chế độ. Tôi sợ, đêm nằm nghe tiếng chó
sủa trăng cũng tưởng có người đến bắt tôi đi. Thương nhớ chồng con,
chỉ ước mơ có đôi cánh bay thật cao, vượt qua những rào ngăn cách tìm
về với chồng con, dù chỉ một lần để rồi được chết trong ngôi nhà
của mình, trong nắm tay của chồng, trong vòng tay ôm đứa con thân yêu
trên ngực mình. Nhưng thực-tế, an-toàn cho bản thân đang bị tai mắt
rình rập khắp nơi... Sự cô-đơn trong sợ hãi tưởng chừng như cơ-thể đang
lơ-lửng rơi xuống dòng sông cuồn cuộn sóng trôi về nơi vô định. Chia sẻ
nỗi lóng của người đàn bà hoạn-nạn, cùng lúc bản làng bị dời đuổi
về đất nước anh em Lào để chính quyền chiếm lại đất đai mà họ cho
rằng xâm nhập trái phép thời còn chiến tranh, sự thật không phải là
vậy, lịch sử đã chứng minh người Katu đã tạo dựng vùng đất đó từ
khi còn thuộc vương quốc Chiêm-Thành, nhưng dưới sức mạnh của nòng
súng, người ta dành được phần thắng bằng những lời ngược ngạo, Hieng
Thi lần lượt đưa tôi, con trai Hieng Nen rời bỏ Bến-Giàng.
Đời của con người vô tổ-quốc như tôi, như
của gia đình tôi nói riêng và của bản làng các sắc tộc nói chung ở
nơi chốn nầy, Hiêng Nen đã nói đến. Có một mãnh đời của tôi mà Hieng
Nen chưa biết là tôi đã có gia-đình. Chồng tôi là một thương binh. Khi
cưới nhau, anh ấy đã là một thương binh. Chúng tôi có một con gái, năm
tôi bị bắt đi tù cháu mời có tám tuổi. Tính cho đến giờ phút nầy,
con gái tôi bốn mươi chín tuổi. Tôi đã xa chồng con tôi bốn mươi hai
năm. Tôi vẫn nghĩ chồng và con tôi còn sống một nơi nào đó. Anh ấy
đã làm tất cả công việc của một người mẹ, là tôi để chăm lo cho con
tôi từ lúc nó mới lọt lòng, trong thời chiến, công việc của tôi buộc
lòng phải vắng nhà. Tôi đã cầu mong ơn trên che chở cho chồng con tôi
được mọi an-toàn trong từng hơi thở của tôi.
Bà Hieng Ly bật khóc, nước mắt chảy dài
trên mặt, giọng bà nghẹn lại:
- Nếu anh nhận ra em ở đây, anh hãy liên lạc với em... Nếu con gái của mẹ... Hòa, nhận ra mẹ... Hãy liên lạc với mẹ.
Bà Hieng Ly tiếp
tục khóc như không còn gì để nói ....
Trên màn hình, người
ta thấy Hieng Nen nắm tay vợ, người đàn bà trẻ, cùng ba người em đến
vây quanh mẹ Hieng, trên mắt mọi người đều cùng có những giọt nước
mắt lăn dài hai bên má.
Kết thúc, người hướng
dẫn chương trình nói:
- Tên ngày trước
của bà Hieng Ly là Cao-thị-Vân... Thân nhân của bà nếu có những ai
còn hiện-hữu thì hãy liên lạc với đài truyền hình ARTe của chúng
tôi....
Thiery đang chăm-chú
theo giỏi chương trình đến đây thì nghe mẹ mình hét lên rồi chạy đến
xử dụng máy điện thoại một cách vội vã. Hai tay mẹ rung rung,
mất bình tỉnh lúc bấm số liên hợp. Rồi giọng mẹ nói như reo vui:
- Tôi vừa xem xong
chương trình “Tiếp nối vòng tay yêu thương giữa người và người” của
quý đài. Tôi là con gái của bà Hieng Ly Cao thị Vân.... Tôi xin được
đến gặp phóng viên quý đài của chương trình vừa mới phát xong...”
Rồi mẹ khóc. Thiery nhìn thấy mẹ
khóc trong đôi mắt reo vui và nụ cười rạng rỡ. Thiery đến ngồi cạnh
mẹ và cha. Cha nói:
- Mẹ con đã tìm
lại được bà ngoại của con.
Mẹ quàng tay lên cổ cha và Thiery rồi tự
nhiên buông thả. Mẹ thẩn thờ nói, như nói với ai trong cõi xa xăm:
- Không biết có phải con ranh con đã làm hại, tang thương cuộc đời mẹ ? Nghiệt ngã nào đã đưa đứa con bé bỏng của mẹ lạc bước vào bên kia cánh cửa mở của phòng chị con Út... bà cán bộ an ninh phường nằm vùng. Lưu thị Yến, người đã đưa cha và mẹ vào tù tội khi một trang sử của đất nước vừa mới sang trang ?
A20 Nguyễn-Đại-Thuật
Fort de Stains; Garges-lès-Gonesse
Ile de France.
Le 03 Mars 2021
*Ranh con phần 2 ghi
lại để nhớ đến Mai-Ngọc,
người em nhỏ tuổi, một thời làm thông dịch cho
quân-đội Mỹ, có thân phụ là bác Mai-Đề, sống
ở chợ Túy-Loan quận Hiếu-Đúc/Quảng-Nam.
Bác Mai-Đề thời đó có quan-hệ với nhiều sắc tộc
thiểu-số miền núi.
Ng-đ-Th.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét