30.5.10

Về cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”



Vũ Ánh/Việt Herald

(05/07/2010)

Kỳ 1

Ðây là một cuốn sách thứ ba của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu.” Hai cuốn trước đó là “Hồ sơ mật Dinh Ðộc Lập” và “Khi đồng minh tháo chạy.” Tất cả những tác phẩm của ông đều rất đồ sộ với phần tổng hợp những chứng liệu đã được giải mật của Hoa Kỳ và bộ sưu tập của riêng ông.


Từng là Tổng Trưởng Kế Hoạch và Cố Vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cho nên những điều mà tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết ra trong tác phẩm của ông phải là những điều cần đọc và nên đọc. Ðiểm cần nhấn mạnh ở đây rằng lần này, có phần tâm tư của Tổng Thống Thiệu, một cựu lãnh đạo VNCH mà cho đến lúc qua đời, không có cuốn hồi ký nào hay để lại những bút tích về một giai đoạn chiến tranh nghiêm trọng liên hệ đến sự mất còn của miền Nam Việt Nam.


Tất cả sự nghiệp của ông đều trông chờ vào kho dữ kiện bí mật trong chiến tranh Việt Nam của văn khố quốc gia Hoa Kỳ được giải mật nhiều năm trước đây và công trình đọc, chọn lựa, sưu tầm, phân tích và tổng hợp của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng. Vì thế ít nhiều cũng không thể tránh được cách nhìn chủ quan. Ông đã từng nhấn mạnh đến khía cạnh đặc biệt về con người ông Thiệu mà trong tác phẩm tác giả mô tả là một người rất khép kín và tác giả đã cho rằng vì tình cờ của lịch sử, có may mắn làm việc gần Tổng Thống Thiệu trong gần 3 năm và sau này còn gặp ông rất nhiều lần tại London và Boston nên được biết một phần nào con người ông.



27.5.10

Đưa em về thăm A 20







Em đừng hỏi nơi nầy xưa rất vắng
Chỉ là rừng theo núi tuốt ngoài xa
Trường Sơn chia đôi ở giữa giang hà
Về trại cũ phải lần theo vách đá

Anh không kể những ngày quân tan rã
Làm anh đau phải bẻ nạng chống trời
Mấy năm dư mỏi mòn trên biên giới
Một lần về anh lỡ bỏ cuộc chơi

Chỗ nầy La-Hai khô cằn oan nghiệt
Kia, đường về Xuân Phước chỗ không vui
Bạn bè anh bao xác đã dập vùi
Nơi chí cả không tính vào may rủi

Mưa miền Trung rét căm căm gió núi
Trên tay tù ba bữa chỉ là khoai
Nước muối chan cơm đâu có tính ngày
Năm nầy, năm khác tuổi tù lớn mãi

Có những khi nắng Lào như nung cháy
Vạn thân tù còm cõi vác oằn vai
Gánh sơn hà mới đó chẳng nghỉ tay
Giờ thêm nặng một đời tù oan trái

Em đừng hỏi nơi nầy là quán tạm
Chỉ là nơi người sống ghé nghỉ chân
Dãy đồi xa xa ở dọc ven rừng
Đứng như thể bạn bè anh chôn đứng

Người chết đứng nhìn núi sông buồn thảm
Người sống còn chui xuống tận hang sâu
Đời lất lây như nước chảy qua cầu
Cánh chim mỏi tìm không ra cành đậu

Anh đưa em tới nơi cùng của đất
Như một lần sờ vết cắt trên da
Anh yêu em như giọt máu sơn hà
Mà chưa chắc cuối đời anh rửa được.

nguyễn thanh-khiết
11/09








Kỹ thuật “nhuộm đen” của Cộng Sản



Vũ Ánh/Việt Herald

Mới đây, tin tức từ Việt Nam cho thấy nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, tác giả cuốn “Viết từ hang đá, nhỏ lệ cùng dân” và người chồng bị đưa ra xử trước tòa án không phải vì cái tội “chống đảng” mà là do một tội hình sự, kết quả của một phản ứng mạnh tay đối với đám côn đồ do công an Hà Nội gài trước nhà riêng của hai vợ chồng nhà văn này. Nhưng mưu mô  được xếp đặt rất lộ liễu và theo luật pháp của chính quyền Cộng Sản, với một tội “đả thương” như thế không thể nhốt hai vợ chồng nhà văn này lâu như vậy được. Do vậy, dư luận dân chúng cho rằng đây là trò “nhuộm đen” thường được sử dụng tại những quốc gia độc tài, những chế độ “mafia” và đặc biệt là trong chế độ Cộng Sản nhằm hủy diệt uy tín của những nhà đối lập, bất đồng chính kiến.
Bị kết án hình sự thì sẽ bị nhốt chung với các thường phạm từ tội trộm cắp, xì ke, ma túy đến cướp của giết người. Sau 30 tháng 4, 1975, những tù cải tạo nào đã từng bị nhốt chung trại với những tù thường phạm hẳn đã thấy mình bị quấy nhiễu và bị phiền hà như thế nào. Bị nhốt chung với tù hình sự, tính mạng thường không có gì bảo đảm với những “đại ca,” một loại “trời con” được bọn cai tù che chở để thủ lợi. Đó là chưa kể đến mưu toan do công an tổ chức từ bên ngoài để bọn “đại ca” gây sự đánh chết người là mục tiêu diệt trừ của chúng.
Nhưng ai cũng hiểu, những người như Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị Công Nhân là những đối tượng can thiệp của những tổ chức nhân quyền và báo chí quốc tế. Bây giờ nếu nhà văn Trần Khải Thanh Thủy ra tòa mà bị kết án hình sự, dù nhẹ, cũng khó ăn khó nói cho những tổ chức nhân quyền hay báo giới quốc tế vì những người Cộng Sản sẽ viện dẫn: “Chúng tôi bắt bà Trần Khải Thanh Thủy vì tội ẩu đả.”
Ngoài trò bẩn thỉu nói trên, một ngón đòn thứ hai cũng thường được đám cầm quyền Cộng Sản áp dụng: Vu oan giá họa với những bằng chứng ngụy tạo. Khoảng thập niên 1980, 1990, trại Xuân Phước A-20 có khoảng trên 100 nhà lãnh đạo tinh thần gồm Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi Giáo Ninh Thuận và Châu Đốc bị bắt giữ. Những vị tuyên úy trong quân đội hay những vị tham gia vụ Vinh Sơn thì còn có lý do (“lý” của Cộng Sản) để bị bắt giữ và đẩy vào trại cải tạo, nhưng các nhà lãnh đạo tinh thần của chùa, nhà thờ hay thánh thất thì làm cách nào để bắt họ? Thông thường, bọn công an cài người vào trong số những người thân tín của các nhà lãnh đạo tinh thần để bỏ vũ khí hay truyền đơn “phản động” vào chùa, nhà thờ hay thánh thất để bắt giam các tu sĩ. Một trong những trường hợp điển hình nhất là trường hợp linh mục Phan Văn Trọng, nhà lãnh đạo rất gần gũi với Tổng Thống Ngô Đình Diệm thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chỉ vài tháng sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản, ngài về ở ẩn trong một nhà thờ nhỏ ở Sa Đéc. Chính quyền Cộng Sản tại đây muốn bắt ngài mà không có lý do chính đáng nên cài người vào giữ vai trò nội dịch trong nhà thờ và theo lệnh ông ta đã lén bỏ một khẩu súng lục và truyền đơn vào rương đựng quần áo của ngài. Hòa Thượng Thích Huệ Đăng trụ trì một ngôi chùa nhỏ ở Nha Trang cũng bị bắt vì chúng bỏ một tài liệu ngụy tạo nói ngài liên lạc với CIA vào chùa để bắt và đẩy ngài vào trại cải tạo. Còn một số trường hợp các nhà lãnh đạo Phật Giáo bị công an dùng người giả Phật tử thực hiện âm mưu bỉ ổi hơn nữa là đứng ra tố cáo chùa tổ chức đồng bóng, mê tín dị đoan để lấy cớ bắt sư trụ trì và tịch thu chùa.
Những mưu toan vu oan giá họa của Cộng Sản trong những chiến dịch đàn áp tôn giáo sau ngày 30 tháng 4, 1975 thì muôn hình vạn trạng. Nhưng nếu ai hiểu chuyện, sẽ thắc mắc. Một chế độ độc tài như Cộng Sản thì cần gì phải nhiêu khê bày trò pháp lý như trên. Chúng cứ bắt bừa bãi thì đã sao đâu, việc gì phải “vòng vo tam quốc” như vậy? Tôi hoàn toàn đồng ý. Tuy nhiên, sở dĩ Cộng Sản phải bày trò như vậy là để tránh dư luận quốc tế và tránh các tổ chức nhân quyền có thể can thiệp vào, chứ đối với dân chúng trong nước vào giai đoạn ấy, chính quyền Cộng Sản đâu có coi ra gì. Chúng muốn bắt ai, muốn thả ai rất tùy tiện. Cứ gán cho tội “phản động,” “âm mưu lật đổ chính quyền” là xong, là tù mọt gông rồi.
Cho đến nay, khi nhà cầm quyền Cộng Sản muốn mở cửa ra thế giới bên ngoài để làm ăn kinh tế, Hà Nội cần phải thay đổi bộ mặt nên mới cần phải đặt ra luật này, luật kia để lòe thiên hạ. Chứ trên thực tế, khi cần bắt những người mà Hà Nội coi thực sự là nguy hiểm cho chế độ như Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, họ chỉ cần chụp cho cái mũ “vi phạm an ninh quốc gia qui định trong Điều 88 Bộ Luật Hình Sự” là những người này nằm tù ngay. Khi muốn cho nằm tù lâu hơn và khi cần cho án tử hình thì chuyển tội danh qui định trong Điều 88 sang Điều 79, có thể bị đến án tử hình, chẳng cần chứng cớ gì cả, ngoài những lời nói chỏi lại với đường lối của đảng và chính phủ Cộng Sản.
Kể từ khi Hà Nội mở chiến dịch bịt miệng những người bất đồng chính kiến, đã có bao nhiêu vụ bắt bớ diễn ra với những lý do rất ngớ ngẩn? Và dư luận thế giới từ những chính phủ, các tổ chức nhân quyền, thậm chí Liên Hiệp Quốc, đều lên tiếng phản đối nhiều khi rất gay gắt, nhưng chúng vẫn cứ nhắm mắt làm ngơ. Tại sao? Điều này dễ hiểu thôi. Hà Nội biết chắc rằng dư luận quốc tế, các tổ chức nhân quyền, và thậm chí các chính phủ Hoa Kỳ cũng như Liên Âu, chỉ ào ào phản đối cho có lệ thôi chứ họ vẫn tiếp tục buôn bán, ký hợp đồng làm ăn với Việt Nam rất vui vẻ chứ không thấy một nước nào chỉ tay vào mặt Hà Nội nói: “Nếu các ông còn tiếp tục bắt người trái phép và ngược ngạo như vậy, chúng tôi sẽ phải xét lại các hợp đồng…”
Không nhuộm đỏ được thì nhuộm đen các đối thủ. Bắt bớ với các lý do ngụy tạo, gài bẫy, dàn xếp mưu mô… cuối cùng chỉ là một trong những kỹ thuật “nhuộm đen” các đối thủ mà Hà Nội hiện nay đang chủ trương mà thôi. Cộng Sản áp dụng kỹ thuật ấy không những ở trong nước mà còn ở hải ngoại nữa. Chụp mũ, mặc áo, đội nón Cộng Sản cho bất cứ người nào chúng thấy cần loại trừ, thậm chí “hề hóa” một số tổ chức hay các nhân vật chống Cộng “dởm,” mượn danh chống Cộng để đánh bóng tên tuổi mình đều là kỹ thuật nhuộm đen của Cộng Sản để làm tan vỡ niềm tin của cộng đồng. Nhưng thực tế cho thấy, trò nhuộm đen hay “hề hóa” những người quốc gia của Cộng Sản chỉ có tác dụng tại cộng đồng Việt Nam nào còn nhiều người cả tin, hoài nghi vô căn cứ, giáo điều và không bao giờ đặt ra câu hỏi: “Ông hay bà tố cáo người ta Cộng Sản, làm ăn buôn bán với Việt Nam, nhưng liệu ông bà có bằng chứng cụ thể nào không.”
Cho nên, muốn chống Cộng, điều cần là tránh những việc làm giống Cộng Sản. Bởi vì những ai bắt chước những trò Cộng Sản làm đối với đồng hương của mình thì họ còn cần gì phải phân biệt quốc gia và Cộng Sản nữa. Tuy nhiên, tránh mình hành động giống Cộng Sản cũng khó lắm đấy! Phải đủ bản lãnh, tỉnh táo mới làm được. (V.A.)

(02/25/2010)

(Source: http://www.vietherald.com)

 

25.5.10

Tháng tư những ngày ta nhớ


Một
Tháng tư ta ngồi trong phòng vắng
nghe mưa đầu mùa rớt ngoài hiên
ba mươi lăm năm một trận địa im lìm
mà lắm máu xương và nước mắt
trong gió ta nghe có ai về gọi
tiếng bạn bè với tiếng cùm khua
nhớ A 20 gió Lào trở mùa
biết bao đứa xác còn ở đó


Hai
Mùa hạ như vầy chiều nào nóng đỏ
Phạm Đức Nhì vừa ra khỏi biệt giam
là sống sót sau trận chiến kinh hoàng
là đơn độc, kiên cường
là dằng dai, là bất tử
Mùa hạ đau Bùi Đạt Trung gần xỉu
mới tháo cùm còn lở loét ống chân
bao lần uống nước tiểu Nguyễn Tú Cường
để sống sót, ngẩng cao đầu bất khuất
những trận đánh không bao giờ có trong sách sử
không bài học nào từ cổ chí kim
oanh liệt hơn trước họng súng kẻ thù
cao cả hơn những anh hùng tự tử


Ba
A 20 , mùa đông nứt môi rét cóng
ngồi co ro chia nhau bi thuốc lào
ở tận cùng chẳng kể thấp cao
dựa lưng lặng lẽ dìu nhau qua địa ngục
A 20, Trường Sơn đông, tây trốn mất
dưới lũng nầy một mặt trận suốt nhiều năm
nước mắt khô chảy trong cổ âm thầm
dưới màu cờ và những hy sinh sau ngày tan trận
bạn bè ta, bao thằng nuốt hận
còn ngoi lên, dù không giành lại cơ đồ
mà nó là vinh dự của thằng cầm súng
trước kẻ thù, trước sông núi tan hoang


Bốn
Trời tháng tư ta già nua bất lực
nhớ một thời tù ngục, của ngày xưa
ôi ! Ánh, Khải, Mạnh Phan, Chí Thành
ôi ! Cương, Ngọc đen, Cường, Dũng
và còn biết bao chí cả
kẻ ở, người đi, đứa chết, đứa lạc loài
tháng tư ơi, giọt lệ còn lăn, còn nóng
ta nhớ, ta thương, trên chòm tóc bạc
còn biết đời này… có mấy buổi gặp nhau
tháng tư về với ta đen một màu
như vết máu đã khô trong lồng ngực


nguyễn thanh-khiết
tháng 04-2010
(viết cho bạn bè ở A20)



đêm trăng hoang dại



về sông mao
về chợ lầu phan rí
phòng tuyến dài từ dạo ấy sang xuân
sân ga vắng phố chàm trăng hoang dại
tháp hời khuya chìm vô vọng trăm năm
đồi sương đọng dấu giày mờ lau lách
trảng lưa thưa mưa xóa bãi mìn chông
mùi máu tươi oi nồng bên lộ vắng
tai kiếp rình mò
chẳng khước từ ai
đêm hôm ấy trăng khuya đồi bát ngát
tôi theo trăng về muộn trước sân ga
nghe xa vắng còi tàu qua phố chợ
thân thế bọt bèo sống chết theo mây
dòng sông tím nước trôi mù mịt sóng
cuồn cuộn tai ương


đời bạc đến vô cùng
tôi đứng trên đồi
lau sậy đôi bờ đêm trắng xóa
soi bóng mình chìm nổi lênh đênh
người ngợm dỡ hơi
một thời quá tải
tiếng ai hú rừng chồi
vọng về lớp lớp
sóng từ trường trời đất giao thoa
khoảnh khắc mong manh vỡ tràn huyết sử
cô em chăm mắt đẹp thiên thu
buồn não nuột
ngàn dặm sao hôm
đêm sông mao về trong cô quạnh
còn nghe điệu hát hồn câm
kinh thành đổ tượng chàm u tịch
phía biển trời phát tán
lửa ưu trầm trăm năm

cáitrọngty   09
 (trích từ Thư Quán Bản Thảo tập 40 tháng 12-2009)



24.5.10

Bà Mẹ Việt Nam Trên Chuyến Tàu Thống Nhất

Cố thi sĩ Phan Lạc Giang Đông 
-->
Cựu tù trại trừng giới A 20 (1980-1987)


-->




Bà Mẹ Việt Nam Trên Chuyến Tàu Thống Nhất



* Lời giới thiệu: Bà Mẹ Việt Nam Trên Chuyến Tàu Thống Nhất được Phan Lạc Giang Đông sáng tác ở Ga Đồng Hới, năm 1984, trong một chuyến đi buôn trên tuyến đường Nam Bắc . Tác giả đã chứng kiến cảnh công an lên tàu kiểm soát, nạt nộ, đuổi xuống tàu một bà lão ăn xin .. Tình cảnh của bà lão đã khiến tác giả thương cảm, liên tưởng tới cảnh đau thương của đất nướ , là hậu quả của một cuộc chiến tranh ý thức hệ tương tàn, khốc liệt, phi lý đã diễn ra trên mảnh đất quê hương Việt Nam, kéo dài mấy chục năm . Đây là một bài thơ, vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị tượng trưng, phản ảnh sâu sắc lịch sử và xã hội Việt nam đau thương hơn nửa thế kỷ qua (Hồ Công Tâm)


khúc tạ Tuy-Hòa



thuở gió lùa mây rừng tới biển
mắt Em nghiêng xuống đã trùng khơi
thuyền đi - con nước theo Em mãi
đôi mắt trời ơi - cháy một đời

tôi trót hôn mê màu mắt ấy
màu ve chai Em tàn nhẫn nhốt tôi
tôi đóng đồn xa nắng lạc lưng đồi
thời động loạn sá gì thân với thế

yêu Em giữa một Trời thất lạc
chiếc bóng buồn lê - sắc dị thường
chiều tàn theo bóng vàng lau dại
hạnh phúc gầy trên những nốt sai

đêm trắng đồi mây đùn lớp lớp
tôi giật mình trăng vỡ bên sông
trăng nhểu xuống vàng khuya lênh láng
đò theo trăng biền biệt biển đông

lòng bàn tay có một chỉ thừa
đường Em đi tôi về ảm đạm
Em đem rét mướt lên môi xám
mỗi bước Em xa một đoạn tình

một hôm tôi lạc đường đi mãi
Trời Tây phương tôi ngóng phương đoài
Liên xưa - Hoàng hạc - sông Đà trắng
ngắt vội bên bờ một đóa sen

theo Em đuổi bắt từng hơi thở
Liên đốt tình tôi lửa cháy thành tơ
tôi cấy đời thơ - luống đời em mọc
tình tôi đau - ngậm ngải sắc màu

Cái Trọng Ty
2010


23.5.10

Tôi Ở Lại Đây




Tôi ở lại đây
Trên đất nước Việt nam này
với triệu triệu đồng bào
Nối tiếp bốn ngàn năm lịch sử

Tôi ở lại đây
sống bên loài qủi dữ
Những ngày ấy sẽ vô cùng khốn đốn,

Tôi ở lại đây
Với vầng trăng khiêm tốn
Khi khuyết khi đầy
                           - tri kỷ lúc cô đơn …
Chuyện muôn ngươì như lửa đốt từng cơn
…sao lũ chúng chỉ cười trên dối gạt ;

Có lâu đâu
Mà vàng tan đá nát !
Có lâu đâu
Trời đất cũng sật sùi
Và bể khổ muôn người
Chảy thành những giòng sông nước mắt .

Tôi ở lại đây
Tháng năm dòng Xuân Thu ngây ngất
Dối gạt ! Hận thù ! Tình thương và những lòng chân thật
Vui những cái vẫn còn
Buốn những gì đã mất
Chia sớt cùng nhau câu cười tiếng khóc…

Tôi ở lại đây
Tháng năm dài trắng tóc
Đen sạm cuộc đời
Và mơ ước vẫn xanh tươi ;

Tôi ở lại đây
               và đã sống rất ngươì
Những tháng năm ấy tưởng không bao giờ trôi hết
Tủi nhục, tù đày
Xác thân mỏi mệt
Trong nỗi khốn cùng, tôi vẫn bước hiên ngang

Mẹ ơi ! đừng khóc nữa
Em ơi ! ngẩng mặt nhìn
Màu trời xanh rạng rỡ
Đời chưa hết niềm tin

Tôi ở lại đây
ngày tháng rong tìm
Những bạn đồng hành
Hẹn gởi đời mình vào sông xanh núi biếc.
Những người bạn vừa mới quen nhau
Đã vô cùng thân thiết
Vì có cùng một tổ quốc đau thương…

Tôi ở lại đây
Áo nhuộm bụi đường
Đôi dép nát còn vương mùi cỏ úa
Vẫn vững bước đi vào những lối chông gai
Khổ đau nào mà chẳng phải rất dài
Nên lòng cứ cười vui  cho ngày mai tới
Dồn hết hận thù đổi mùa xuân mới
Cho trời kia ấm lại những đường trăng ;

Tôi ở lại đây
Lòng rạng ngời như ngọn hải đăng
Được sáng lên bằng niềm tin tất thắng
Bằng ý chí quật cường
Và gian truân không hề lùi bước
Tôi ở lại đây
những nẻo đường xuôi ngược
Cơm áo cuộc đời nặng lắm đôi vai
Vì Tổ quốc – Tương lai
Lòng bỗng như trời xanh – mắt biếc.

Bé thơ ơi
Có cái gì tha thiết
Trên môi cười, trong ánh mắt long lanh
Rồi mai đây trên những nẻo đăng trình
Anh xin mượn làm hành trang bé nhé !

Tôi ở lại đây
Chiều tiễn đưa rớm lệ
những ngươì đi không biết đến phương nào
mối hận lòng ngùn ngụt với trăng sao
Chỉ có ra đi và cái chết

Tôi ở lại đây
Vì không thể nào đi hết !
Bao nhiêu triệu ngươì đang lết giữa trầm luân
Tìm tự do đâu phải chỉ riêng mình
Mà mong ngóng một con thuyền không bến đỗ…

Thân lữ thứ
Cuộc đời nhiều thua lỗ
Mà anh ơi – sông núi vẫn cần ngươì !
Ta ở lại đây !
Dù thân xác mấy dập vùi
Vẫn ấm trong ta niềm tin lịch sử ;

Lũ chúng nó điên cuồng như quỉ dữ
Thì bạo Tần kia; rồi thành quách cũng tan hoang !
Ngồi lại đây
nhịp khúc kết đoàn
Cho tiếng hát vang lừng bốn bể
Cờ tự do tung bay trời ngạo nghễ
Dục những cánh bằng nương gió vút bay cao

Ta ở lại đây
sống với đồng bào
chia nỗi xót đau; chung niềm xúc động
Trước Tổ quốc suy vong
Nhìn lịch sử đổi dòng
Ôi thương quá, Việt nam vô cùng thân thiết
Giữa khổ đau
bạo tàn
và oan nghiệt
Chỉ còn đây một đất nước tan hoang

Chỉ còn đây con tim đập rộn ràng
Và một quyết tâm
Dựng đời Nhân Bản .

Nguyễn sông Côn – Đào Đăng Nhẫn.
1995-1996
k3 –Z30A Xuân Lộc
(nguyên giáo sư Văn Sử Trung học Nha trang)

Còn đây chung rượu cặn


Ta ngồi xổm cởi trần bưng chén đế
Bạn ở xa về, kệ mẹ nói đi
Ba mươi lăm năm gặp không phải dễ
Ngó mặt nhau ừ lạ lẫm, đổi thay


Chiếu rượu ta chỉ sơ sài cóc, ổi
Ly, chén lâu ngày mẻ miệng không vui
Đũa so le, vá víu thiếu chỗ ngồi
Ta tiếp bạn, rót cho tròn một buổi


Ôi ! thương thay một đời ta cơm áo
Nhắc chút tình xưa, cái thuở đi tù
Chào mẹ gì, thứ ngôn ngữ thấp cao
Vung tay quá trán làm buồn chiếu rượu


Ôi! buồn, vui – vơi, đầy ta cứ cạn
Để ly chờ làm ta đắng trên môi
Ta ở xứ này, cái xứ lầm than
Nên bằng hữu về thăm có khi tủi


Ba mươi lăm năm, cái đời đen đủi
Phận trâu cày ngựa cưỡi ta đã quen
Ta cố sống, cho qua thời vận rủi
Ê uống đi, rượu của gã nghèo hèn


Nâng lỡ chén, thăm lom vài bạn hữu
Rót dỡ ly, tiễn mấy cuộc người ta
Gắp miếng mồi xót chi đời tạm ngụ
Cạn hết bầu, vứt mẹ chuyện ngày qua


Đừng trách ta, ngủ vùi trong tủi nhục
Làm mẹ gì để giành lại thành xưa
Thành xưa hả? giòi bọ còn lúc nhúc
Giang sơn chia năm xẻ bảy tức cười


Bạn bè xa, quá chăng già hơn tuổi
Lưu lạc, mỏi mòn cơm áo, vợ con
Cứ mỗi năm tới cái ngày hận tủi
Vung vít dăm câu, tụ nghĩa một ngày


Bạn ngó đi, dòm đi còn bao đứa
Nợ nặng như vầy, được mấy thằng mang
Hét to chi rồi một ngày hai bữa
Gánh sơn hà rỗng tếch… thôi uống đi


Cuốn chiếu, dọn chai, bưng bình, rửa lễ
Gom đũa, thu mâm, dẹp hết buồn phiền
Một buổi bạn về, ta say quá tệ
Nói phét dăm câu là để làm vui


nguyễn thanh-khiết
04-2010



Phỏng vấn Vũ Đức Nghiêm




 Vũ Đức Nghiêm

Hương Kiều Loan thực hiện

Trong một khu vườn trăm hoa đua nở, thông thường những bông hoa sặc sỡ, hương thơm ngào ngạt hoặc có một kích thước dễ được nhìn thấy, thường được tự phô bầy ngay trước mắt khiến mọi người có thể nhận thức được ngay khi mới bước vào vườn hoa. Còn có những loài hoa với hương thơm nhẹ diụ quyến rũ và với những mầu sắc hài hoà thanh nhã, tuy đã hiện hữu cùng với những loài hoa khác, nhưng loài hoa hiếm quí này không dễ gì mà thấy chúng dễ dàng được?.
Trong vườn hoa âm nhạc, Vũ Đức Nghiêm là một trong những loài hoa hiếm quí ấy. Nhạc cuả ông thanh nhã, tiết điệu rất tuyêt vời, không quá cầu kỳ để trở thành diêm dúa lố bịch, nhưng cũng không giản dị mộc mạc thái quá để dễ bị đồng hoá với hình ảnh của người "nhà quê đi guốc mộc".
Nhạc của VDN có một sức quyến rũ lạ thường rất dễ thông cảm , càng nghe càng thấm thía và thích thú. Nhạc cuả VDN không ồn ào xô bồ, mà lãng đãng như mây trời, có khi như tiếng suối reo, có khi ầm ì như sóng biển vỗ trên ghềnh đá và đôi lúc tuôn trào như thác lũ. Cũng có chút thoáùng buồn nhưng không cay đắng. Bằng thanh âm trầm bổng trong tiếng nhạc VDN đã diễn tả tài tình một "Tình Yêu" thanh nhã, thật lãng mạn nhưng cũng không kém đam mê. Tình yêu qua nhạc VDN quả thật là những bông hồng, những nụ hồng hiếm, thật đẹp, trân quí và nồng nàn cho "người yêu dấu".
VDN, một tên tuổi đi vào lòng người không bằng xảo thuật cuả thương trường âm nhạc, không bằng những quảng cáo ồn ào nặng mùi thương mại, mà bằng những nét nhạc trong sáng, nhẹ nhàng đầm ấm, rất dễ ru hồn người vào những cơn mộng ảo cuả "Tình Yêu."
Hôm nay Hương Kiều Loan mời độc giả bước vào khu vườn hoa cuả nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm để trò chuyện cùng ông, và cùng thưởng thức những đoá hoa thơm, xinh đẹp mà nhạc sĩ đã tặng cho người và cho đời.




Hương Kiều Loan (HKL): Thưa anh, sau khi nghe CD " Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu" thì tôi đã nghĩ phải nhấc điện thoại, để nói lời cảm tạ nhạc sĩ đã cho nghe những bản nhạc mà tôi rất yêu thích. Nhân tiện, cũng xin anh cho độc giả biết chút it về thân thế, tiểu gia đình và đại gia đình cuả anh ạ.
Vũ Đức Nghiêm (VDN): Tôi sinh năm 1930 tại làng Hoành Nha, tỉnh Nam Định. Tôi là con thứ nhì trong một gia đình gồm 8 anh em trai và 2 em gái. Chín anh em tôi đang sống rải rác nhiều nơi ở hải ngoại. Một người còn đang ở Việt nam.
Tôi lập gia đình năm 1954. Chúng tôi được 7 cháu, tất cả đều đã có gia đình.

HKL : Xin anh cho biết ngoài CD "Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu", anh có ra những CD khác không ạ? và thể loại cuả nhạc? Tình ca? Thánh ca? Quân hành??
VDN: Ngoài CD "Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu", tôi còn có mấy CDs về Tôn Vinh Ca và về Giáng Sinh. Tôi gọi là Tôn Vinh Ca, mà không dám gọi là Thánh Ca, vì "Thánh Ca" là những bài đã được giáo hội công nhận từ bao thế kỷ. Tôi chỉ viết Tôn Vinh Ca để ca ngợi Thương Đế, chứ không dám có cao vọng viết thánh ca, từ ngữ có vẻ lớn lao quá. Tôi đã thực hiện những CDs Tôn Vinh Ca 1,2,3,4 và một vài CDs về Giáng Sinh mà tôi sẽ cho ra mắt trong dịp Giang sinh năm tới. Còn về nhạc quân hành, thì ngày xưa, tôi có viết, nhưng bây giờ, còn có ai hát quân hành nữa đâu? Bản nhạc Tôn Vinh Ca đầu tiên tôi sáng tác trong tù là Thi Thiên 90, bài thánh vịnh cổ nhất, cũng là bài cầu nguyện cuả thánh Môi se.
Vào tù rồi, nhưng Vũ Đức Chỉnh , em tôi, đã giấu đuợc một cuốn Kinh Thánh. Đây là cuốn Kinh Thánh của bố tôi cho, trước khi mất nước. Trong tù, hai anh em tôi đã phải lén lút, mỗi lần đọc Kinh Thánh. Một hôm, đọc đến Thi Thiên 90, tôi đã phổ ngay bài này trong vòng tuần lễ sau đó. Tôi tìm cách chuyển bài hát ra ngoài, và Thi Thiên 90 đã đuợc phổ biến rộng rãi ở nhiều Hội Thánh Tin Lành trong nước, cũng như ở ngọai quốc. Ca khúc này dài vào khoảng 200 trường canh. Nhạc sĩ Vĩnh Phúc, cô em tôi ở nhà thờ Tin Lành Saigòn, đã tìm cách chuyển được bản nhạc qua Mỹ, gửi làm nhiều lần, mỗi lần một vài tờ.

HKL : Xin anh cho biết cơ duyên naò khiến anh bước vào lãnh vực âm nhạc.?
VDN: Ngay từ ngày còn nhỏ, tôi thường đi hát trong ca đoàn của nhà thờ, đến khi là tráng niên cũng vậy. Tôi yêu âm nhạc, có lẽ do ảnh hưởng của bố tôi. Ông cụ ngâm thơ rất hay. Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn còn thấy bồi hồi, tưởng như đang nghe đươc giọng ngâm thơ của cụ, Hơn nữa, tôi cũng được ảnh hưởng của mẹ tôi, qua những lời ru ngọt ngào của bà, nên từ đó, lòng yêu âm nhạc đã gắn liền với tôi tự bao giờ không hay.

HKL : Anh có tốt nghiệp ở trường âm nhạc nào, hay là theo học với một nhạc sĩ nào không?
VDN: Thưa không, tôi không hề được đặt chân đến một trường âm nhạc nào, và cũng như chưa đựợc theo học một nhạc sĩ nào cả. Tôi tự học, và học hỏi qua bạn bè. Tôi có những người bạn thân rất giỏi về âm nhạc như Phạm Đình Chương, Nhật Bằng đã chỉ vẽ cho tôi. Sau này, thì đuợc thêm một số nhạc sĩ khác chỉ bảo cho. Ngoài ra, khi ở trong tù, tôi có cơ may đươc hoc hỏi thêm về âm nhạc qua những nhạc sĩ Thiên Quang, Lê Như Khôi, và Lê Ngọc Linh.

HKL : Bản nhạc đầu tiên anh sáng tác vào thời điểm nào, xin anh cho độc giả đuợc biết .
VDN: Bản nhạc đầu tiên tôi sáng tác là một bản nhạc tình, tặng cho cô bạn gái cùng tuổi, học cùng trường ở Hải Phòng. Năm đó, chúng tôi mới 15, 16 tuổi, cùng thích hát, thường nghêu ngao hát với nhau. Bây giờ nhớ lại, bản đó thật quá đơn sơ về nhạc lý, nhưng vẫn thấy lòng bồi hồi rung cảm, bởi vì đó là bản nhạc đầu tiên mình viết được.
HKL : Thưa anh, trong đại gia đình anh, có người nào có khả năng về văn nghệ như anh không ? Nếu có, thì trong lãnh vực nào ? Văn , thơ , hoạ, v.v.?
VDN : Tôi có người anh lớn, chơi Violon, nhưng chỉ là chơi nhạc chứ không sáng tác. Ngoài ra, tôi có người em gái là Bạch Cúc, chơi piano, và người em út, Vũ Trung Hiền, chơi guitar, và hát, nghe cũng được. Vũ Trung Hiền viết cuốn Duyên Anh và Tôi, Những Câu Chuyện Bên Ly Rượu, xuất bản đầu năm 2000, ghi lại rất nhiều kỷ niệm với Duyên Anh.
HKL : Người ta nói văn thơ..thường vận vaò đời sống, số mạng con người. Anh thấy những nhận xét naỳ có đúng không ạ ? Và nếu đúng, đã vận vaò số mệnh anh như thế naò ?
VDN: Theo tôi nhận xét, những người nghệ sĩ thường đuơc Thiên Chúa ban cho một sự linh cảm nhiệm mầu, đôi khi họ có thể cảm đươc những gì sẽ xẩy đến, Thí dụ như Nhạc Sĩ Phạm Duy, cách đây mấy chục năm, ông đã viết bản nhạc Viễn Du: "Ra sông, biết mặt trùng dương, biết trời mênh mông, biết đời viễn vông, biết ta hãi hùng" Tôi có cảm tưởng như Phạm Duy đã đuợc một mặc thị nào đó, và tiên đoán đuợc những gì xẩy ra cho đất nước ở tương lai.
Riêng với tôi, những năm còn ở Đàlạt, tôi đã viết bài hát Trong Ngục Tù Bao La khi nghĩ đến người yêu bé nhỏ của mình, vì hoàn cảnh trái ngang, phải xa tôi. Nàng đi lấy chồng, và người chồng đó vì quá ghen tuông, sau đám cưới, đã nhốt nàng ở nhà, không cho nàng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Tôi đã hình dung ra một nàng cung phi bị giam nơi lãnh cung, khi nghĩ và nhớ về nàng.
Không đầy sáu năm sau, tôi đã bước vào tù ngục, khi miền Nam chúng ta thua trận, hàng trăm ngàn đồng bào và đồng đội của tôi đã bị giam nhốt vào cái nguc tù bao la đó.

HKL : Đuợc biết anh đã bị cầm tù trong traị cải taọ tới 13 năm, thưa anh trong tù, anh có gặp đuợc những nhac sĩ nào? Và đã có những kỷ niệm vui buồn nào anh muốn chia sẻ với độc giả Hồn Quê ?
VDN: Tôi đã gặp đươc các nhà thơ Hà Thương Nhân, Tô Thùy Yên, Nguyễn Xuân Thiệp..v.v,?và anh em đã chia sẻ với nhau những vui buồn, nâng đỡ tinh thần nhau, và sáng tác chung với nhau. Trong thời gian bị biệt giam cùng với Hà Thượng Nhân, tôi có dịp trao đổi với ông về những cảm xúc dạt dào nhớ vợ thương con, và tôi đã phổ nhạc một số bài thơ tù của Hà Thuợng Nhân, cùng mấy bài thơ cuả Tô Thùy Yên ( Mùa Hạn) và Nguyễn Xuân Thiệp ( Điệu Hoài Hương Xanh, Giả sử Mai Ta Về ) .Tôi nghĩ đó là những tuyệt bút sẽ đưa tên tuổi của họ vào thi sử, nhất là trong địa hạt thơ tù. Bài thơ " Xin Làm Cỏ Biếc Vương Chân Em Đi" của Hà Thượng Nhân, do tôi phổ nhạc năm 1981 đã được thu băng ( Bích Ngọc hát). Bài này còn được biết đến dưới tên Mai Em , Anh Về. Bài thơ đó như sau:


Xin làm cỏ biếc vuơng chân em đi

Mai em, anh về
Xin làm cỏ biếc
Vương chân em đi
Xin làm giọt mưa
Mưa dầm rưng rức
Trên vai người yêu
Anh cầm tay em
bàn tay khô héo
anh nhìn mắt em
gió lùa lạnh leõ
anh nhìn lòng mình
muà đông mông mênh
cỏ non mùa xuân
còn xanh dấu chân
trăng non mùa hạ
uớt đôi vai trần
có xa không nhỉ
ngày xưa thật gần
có xa không em?
Ngày xưa thật gần.

Mong rằng có dịp thu âm lại và gửi HKL để tạ lòng tri kỷ, xin HKL vui lòng chờ nhe’.

HKL :Được biết anh đã từng ở trại tù Long Giao. Kỷ niệm naò đặc biệt tại nơi đây đã khiến anh viết bản nhạc Mưa Long Giao ?
VDN: Trong hơn 13 năm tù ngục, có một thời gian tôi ở cùng trại với nhạc sĩ Nhật Bằng ( đài phát thanh quân đội), nhạc sĩ Thiên Quang, chỉ huy trưởng quân nhạc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa . Chúng tôi có nhiều lần trao đổi tâm tình và kinh nghiệm sáng tác. Thiên Quang cũng giúp tôi học hỏi thêm về hoà âm. Những ngày tù đầu tiên ở trại Long Giao, tôi cũng ỏ gần các nhạc sĩ Lê Như Khôi, Lê Ngọc Linh và cũng học hỏi đuợc thêm từ hai anh nhiều kinh nghiệm sáng tác và lý thuyết hoà âm.
Bây giờ kể đến kỷ niệm những ngày ở trại tù Long Giao, năm 1975. Có nhiều hôm trời mưa , mưa nhiều như nuớc mắt những người tù.
Hà Thuợng Nhân ở tù chung với tôi trong thời gian đó. Ông là một nhà thơ nổi tiếng từ lâu. Lúc ấy, ông đã khỏang 60 tuổi rồi, nên coi tôi như một người em. Một hôm, anh Hà Thượng Nhân đưa tôi một bài thơ, và bảo:
- Tôi mới làm bài này, cậu xem có được không?
Tôi xem xong, nói ngay:
- Em sẽ phổ nhạc bài thơ này .
Bài thơ như sau:

Mưa Buồn Long Giao

Trời có điều chi buồn
Mà trời mưa mãi thế
Cây cỏ có chi buồn
Mà cỏ cây đẫm lệ

Mà cỏ cây lệ tuôn?
Anh nhớ em từng phút
Anh thương con từng giây
Chim nào không có cánh
Cánh nào không thèm bay
Người nào không có lòng
Lòng nào không ngất ngây
Gủi làm sao nỗi nhớ

Trao làm sao niềm thương

Nhớ thương như trời đất
Trời đất cũng vô thường
Ngày xưa chim hồng hộc
Vượt chín tầng mây cao
Ngày xưa khắp năm châu
Bước chân coi nhỏ hẹp

Bây giờ giữa Long Giao
Ngồi nghe mưa sùi sụt
Cuộc đời như chiêm bao
Có hay không nẻo cụt?
Anh châm điếu thuốc lào
Mình say, mình say sao?

HKL : Thưa anh, làm cách nào anh cho bản nhạc đi thoát ra ngoài để đến tay người nhà và được phổ biến sau đó a.?
VDN: Năm đó có người tù đuợc thả về. Tôi gửi anh bạn tù bản nhạc, nhờ anh mang ra ngoài. Anh ta nói nếu đề tên VDN, thì không cách gì lọt qua đuợc mạng lưới kiểm soát của ho, nhưng nếu ghi là Nhạc Liên Xô, chắc mang ra đuợc. Nhờ thế, bản nhạc đã đến tay người nhà tôi.

HKL : Trong 13 năm bị giam cầm đó, xin anh cho biết, anh đã traỉ qua những trại giam nào ? Và nơi nào đã có những kỷ niệm vui buồn, đau thuơng?.đặc biệt nhất?
VDN :Từ trại giam Tân Hiệp, Biên Hòa, tôi bị đưa ra Bắc ( Hoàng Liên Sơn),tháng Sáu 1976, và chuyển qua nhiều trại ở vùng Yên Báy , Lào cay,v.v?
Tháng 10,1978, chuyển trại về trại giam Nghệ Tĩnh G ( NT 6)
Tháng 1/1981 chuyển trại về Hàm Tân
Tháng 4/1982 chuyển về trại Xuân Phước ( Phú Khánh), cho đến tháng 9/88, đuợc trả tự do.


HKL : Nhiều bạn bè khen bản nhạc Giả Sử Mai Ta Về ,thơ Nguyễn Xuân Thiệp, do Vũ Đức Nghiêm phổ nhạc. Anh có kỷ niệm đặc biệt nào với nhà thơ đó không? Và do đâu anh cóï cảm xúc để viết thành bản nhạc?
VDN: Tôi rất thích thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Bài Giả Sử Mai Ta Về đã gợi trong tâm hồn tôi một nỗi buồn khi nghĩ đến thân phận mình ngày đuợc thả về, nếu như có một ngày như thế.
Bài thơ ấy như sau:


Giả Sử Mai Ta Về


Giả sử mai đây ta về lại trên đường, gặp tuổi thơ ta cười giòn tan trong nắng
Đuổi bắt trái sao khô xoay tròn khi gió vang, ai gọi ta mà mùa Thu rơi đỏ mộng
Giả sử mai đây ta về trên con phố cũ, ai đốt lên cho ta những ngọn đèn trong sương?
Có đôi mắt nào nhìn ta qua khung cửa kính?
Ôm con gấu bông vàng từng mơ mùa chín mật hương
Ôm cuộc đời dẫu đã xa còn y như ngày trước
Những bức tường nghiêng và những khóm tầm xuân
Ai trèo lên cao mà vừa nghe huýt sáo
Mặt trời, bạn hiền ơi, chờ ta qua mấy ngọn thùy dương
Bởi chiếc roi bạo lực chẳng thể vung hoài trong gió
Chú ngựa non reo tiếng lạc trên đồi
Các con ta duới vầng trăng tuổi nhỏ với ước vọng xanh như người thổi bóng lên trời
Và em nữa tất nhiên vẫn là em thời trẻ, của Saigon nằm mở cửa những đêm vui
Em và Saigon ăn ô mai ngoài phố, em và Saigon như một vệt son môi
Đã lâu lắm dường như ta không còn trẻ nữa
Con chim biếc bay rồi vườn vắng cây khô
Chợt một buổi nghe dòng sông nức nở, gọi ta về thầm kể những đêm xưa
Ôi giả sử mai đây ta về lại bên đời
Dẫu chẳng còn ai biết đến ta chẳng còn ai đợi cửa
Thì trọn kiếp ta xin làm người nghệ sĩ rong chơi
Đi đọc thơ ta giữa vùng bụi đỏ?

HKL : Trong tù, bị kiểm soát nghiêm ngặt như vậy, làm thế nào những người nghệ sĩ như các anh vẫn sáng tác được, và làm sao để giấu được những sáng tác của mình?
VDN: Tôi có đọc một cuốn sách tựa đề "Hót Trong Tháng Tù". Bià sách in hình mấy con chim nhảy nhót trong lồng. Tôi thầm nghĩ " Trong ngục tù chim vẫn hót mà sao ta không hót được?". Do đó, tôi tiếp tục sáng tác trong tù để nói lên tâm tư, tình cảm, và những uớc vọng thiết tha nhất của mình .  Tất cả đều đuợc ghi trong ký ức, sau khi tôi đã nghiền ngẫm, suy nghĩ về cấu trúc và lời ca. Có một số bài đặc biệt, như Thi Thiên 90, Khi Tôi Quỳ Nơi Chân Chuá, và Tôi Uớc Mơ Là Viên Than Hồng đều được chuyển tới tay Vĩnh Phúc ( tác giả ca khúc Ngàn Thu Áo Tím, viết cùng với Hoàng Trọng) bằng đường bưu điện. Thật là một phép lạ, vì nếu cai ngục kiểm duyệt thư, biết được tôi chuyển nhạc đạo ra ngoài, thì họ cùm tôi là cái chắc! Những bài hát ấy đã đuợc chuyển qua Mỹ và được hát nhiều lần trên đài phát thanh Far East Broadcasting Company( FEBC) và các Hội Thánh Tin Lành hải ngoại.
Bản nhạc đó đã viết năm 86, 87 tại trại giam Xuân Phưóc. Hơn 10 năm mòn mỏi trong tù, cuả chờ đợi và tuyệt vọng, bản nhạc đã nói lên tâm tư người tù là tôi, và những người khác nói chung.

HKL : Có kỷ niệm nào trong tù mà anh không quên được?
VDN : Một kỷ niệm đau thương mà tôi nhớ mãi, là một lần đi lao động về, ngang qua một cánh đồng lúa mới đâm bông, lúa non vừa lên đòng đòng. Theo thói quen của một người nhà quê, tôi đã tuốt một cọng lúa non, cho vào miệng nhâm nhi, vì lúa khi đó ngọt lắm. Không ngờ tôi bị hai tên cán binh bắt gặp. Khi về đến trại, bọn cán binh tuổi chừng 18, 19, lôi tôi ra sân. Mỗi đứa đứng một góc, chúng đấm đá tôi văng từ đầu này qua đầu kia, và chỉ đấm đá vào ngực, vào bụng tôi thôi. Lúc ấy tôi đã gần 60, rất ốm yếu vì thiếu ăn , và lao lực. Chúng đánh dã man lắm, đánh đến khi tôi chịu không nổi, tiêu tiểu trong quần và ngất đi, lúc đó chúng mới dừng tay!. Anh em bạn tù đã vực tôi dậy, đưa tôi về phòng và dùng nước muối xoa bóp những vết thương cho tôi.

HKL : Thưa anh, chắc là những tù nhân khác cũng bị hành hạ, không dưới hình thức này thì cũng ở hình thức khác? Đau đớn thật, tại sao con người có thể trở thành dã man đến như thế!
VDN : Vâng, nếu nhắc lại thì còn phải kể nhiều nỗi đau thuơng khác nữa, nhưng tôi đã tin theo Thiên Chúa, và làm theo lời Ngài dạy là tha thứ cho kẻ thù mình. Làm đuợc như thế, lòng mình thanh thản hơn. Còn kẻ ác, hãy để Thượng Đế xét xử họ.




HKL : Anh có thể cho biết tên một số bản nhạc mà anh đã sáng tác trong thời gian bị caỉ tạo, và những bản nhạc đã được thu vaò CD.
VDN : Trong CD Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu, có chừng 10 bản tôi sáng tác trong tù, như Tâm Tư Chiều, Muôn Trùng Xa Em Về, Như Mây Bay Về, Tâm Khúc Đêm Sao, Đoá Hồng Cho Ngươì Yêu Dấu..v..v?

Xin mời nghe:
Tâm Khúc Đêm Sao
Hạ Vân trình bày

HKL : Chắc bản nhạc này anh đã sáng tác khi vợ hiền lên thăm nuôi?
VDN: Vâng, một kỷ niệm quá vui là được nhìn thấy mặt vợ con mà mình hằng ngày đêm mong nhớ. Sau bao nhiêu năm xa vắng, thế mà nào có đuợc cầm tay nhau! Nhưng... cuối cùng cũng ráng lén hôn vợ đuợc một cái.
"Khi nụ hôn trao nhau vội vàng
Còn ấm chút hương môi,

Em đã xa tôi rồi, tay rời tay, con tim bồi hồi?."

Xin nghe bài
Muôn Trùng Xa Em Về
Ái Vân trình bày

HKL: Thưa anh, không phaỉ mình HKL đâu, mà HKL tin rằng những bản nhạc hay, những bài văn hay, đuợc độc giả yêu thích là vì họ tìm thấy họ trong tác phẩm cuả tác giả, không ở khía cạnh này, thì ở khía cạnh khác. thông thường những tác phẩm về tình cảm, nhất là về tình yêu, thì đều đuợc dễ dàng đón nhận.
VDN: Vâng đúng vậy, " Yêu Em anh bỗng thành thi sĩ, Ở tù anh bỗng thành nhạc sĩ." Những bài thơ và nhạc viết trong tù, thường rất cảm động và hay, Trong tù có những anh em, không phải là nhạc sĩ, mà họ cũng sáng tác nhạc bằng âm điệu, nghe hát lên cũng hay lắm. Bản đầu tiên tôi sáng tác trong tù là một bản tôn vinh Chúa, vì trong tình trạng tuyệt vọng cuả cuộc sống, lúc đó chỉ còn biết cầu nguyện và cầu nguyện?Tôi có đươc cuốn thánh kinh, do người em là Vũ Đức Chỉnh giấu đuợc, nên anh em có những ngày mang ra chỗ sáng để đọc, và tôi đã phaỉ nhập tâm đoạn nguyện cầu đó, rồi  tôi đã phổ. Bài này đuợc phổ biến nhiều ở Hội Thánh Tin Lành. Đưa về Sài gòn, sau đó chuyển qua Mỹ, dài vào khoảng 200 trường canh, cỡ 5,6 tờ. Nhạc sĩ Vĩnh Phúc, cô em tôi ở nhà thờ Tin Lành Saigòn, đã tìm cách chuyển đuợc bản nhạc qua Mỹ, gửi làm nhiều lần, gửi rời từng tờ một.

HKL : Anh đã sáng tác đuợc bao nhiêu bài tôn vinh ca tất cả.
VDN: Khoảng 50 đến 70 bài, tôi cũng có sáng tác Tù ca, một CD 12 baì, phần lớn viết trong tù. Thơ nhạc viết trong giai đoạn ở tù này đã nâng đỡ tinh thần tôi rất nhiều. Nên tôi đã viết : "Xin tạ ơn Chúa, đã ban cho con một đời tự do, xin tạ ơn Chúa đã ban cho con ngày tháng lao tù?"

Xin mời nghe:
Như Mây Bay Về
Nguyễn Thành Vân trình bày

HKL : Khi nhỏ, anh có từng dự thi về sáng tác nhạc trong một buổi tổ chức nhạc không ạ?
VDN: Những năm cuối thập niên 50, tôi có tham dự cuộc thi sáng tác ca khúc do đài quân đội tổ chức, tôi được may mắn trúng tuyển một số bài :
1955 Đoàn Quân Bắc Tiến
1956 Chào Mừng Quốc Khánh 26 tháng 10
1960 Chúng Ta Đi Xây Nền Cộng Hoà

Ngoài ra tôi cũng viết một số nhạc, vài bản Quân Hành Khúc.

1956 Sư Đoàn 3 Hành Khúc ( sau đổi là SưĐoàn 5 )
1958-59 Sư Đoàn 22 hành khúc
1967 Sư Đoàn 23 Hành Khúc.
Và  tôi cũng đuợc giải thưởng cuộc thi viết nhạc cho các sư đoàn; như Sư Đoàn 22 ở KonTum. Bản Sư Đoàn 22 Hành Khúc gồm 62 trường canh:

"?Sư đoàn 22 đi lên
Sơn hà mang trên vai?"



Và năm 67 viết hành khúc cho sư đoàn 23, đuợc giaỉ nhất. Khi đó sư đoàn ở dưới quyền đại tá tư lệnh Trương Quang Ân.
Tôi cũng viết hành khúc cho sư đoàn 3, sau đổi thành sư đoàn 5, bản nhạc cũng đổi tên theo luôn, " Đi lên sư đoàn 5,Muôn dân đang chờ ta. Làm cho núi sông lừng danh Sư Đoàn 5?"
Bài hát đó, từ năm 70 tới 73, đuơc nhạc sĩ Thục Vũ, khi đó là trưởng phòng 5 cuả sư đoàn cho hát hàng tuần trên đài phát thanh SàiGòn.

Xin mời nghe:
Vùng Trời Kỷ Niệm
Bích Ngọc trình bày

HKL : Được biết anh học khóa đầu tiên của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, năm 1951, cùng khoá với những tên tuổi lớn sau này, như Trung tướng Nguyễn Bảo Trị,Trung tướng Nguyễn Đức Thắng, Trung tướng Lê Nguyên Khang?.Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ .v?v?.Xem như vậy, coi như đường binh nghiệp cuả anh không đuợc may mắn như những người bạn cùng khoá, vì họ lên lon vù vù?Anh có thể cho biết vì nguyên nhân nao đã làm cản trở sự thăng cấp bậc cuả anh không a.?
VDN: Thuở còn là trung uý đóng ở miền Bắc, tôi lập gia đình giữa năm 1954. Sau đám cuới, tôi về phép trễ đến 7,8 ngày, và bị cấp trên báo cáo đào ngũ. Tôi bị nhiều ngày trọng cấm. Do đó. việc thăng cấp của tôi sau này bị lận đận.

HKL :Kỷ niệm nào đáng nhớ nhất trong đời văn nghệ của anh?
VDN:  Kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời văn nghệ của tôi là vào năm 1969, tháng 11, sau khi viết Gọi Người Yêu Dấu, tôi tình cờ gặp ca sĩ Thanh Lan ở Đàlạt. Thanh Lan hỏi tôi có bài  nào mới viết không? Tôi đã đưa bài  Gọi Người Yêu Dấu cho Thanh Lan. Sau đó it lâu, khi tôi đang uống cà phê ở một tiệm nước khu Hoà Bình, gần chợ Đàlạt, chợt nghe tiếng hát rất quen. Đó là tiếng Thanh Lan hát Gọi Người Yêu Dấu Ngọc Chánh thu thanh trong băng Shotguns Nhạc vàng 70. Tôi xúc động lắm, nghe Thanh lan hát bài ấy lần đầu tiên.

Xin mời nghe:
Gọi Người Yêu Dấu
Ái Vân trình bày

HKL : Tên anh đuợc gắn liền với bản nhạc này  khi bản nhạc được ra đời, đã là top hit của giai đoạn đó, và bản nhạc đến bây giờ vẫn còn hay, vẫn làm người nghe bồi hồi xao xuyến, nếu không muốn nói là ray rứt trong caí đau thương mất mát cuả tình yêu., HKl nhớ đến những tình khúc trong CD, có những lòi nhạc. Khi đọc lên, không khỏi ngậm nguì, nhất là khi nghe nhạc đuợc hát. HKL nhận thấy không phải chỉ có bản Goị Người Yêu Dấu là xuất sắc, trong cái  CD 12 bản nhạc kia, đã có những bản nhạcxuất sắc, mà chưa có cơ hội để đươc phổ biến rộng rãi , như bản Bâng Khuâng Nhớ Tình Xưa , Tâm Tư Chiều, Vùng Trời Kỷ Niệm, Thấp Thoáng Như Giấc Mơ..v..v?

Xin mời nghe:
Bâng Khuâng Nhớ Tình Xa
Đoan Trang trình bày

VDN : Cám ơn HKL đã rất rộng lượng đối với những nhạc phẩm của tôi. Tìm đuợc tri kỷ cảm thông đuợc những gì mình viết ra, thật hiếm và quý.

HKL:  Âm nhạc là tiếng nói chân thành nhất cuả nguời nhạc sĩ, tình khúc của anh mang nhiều giai điệu tha thiết, luyến nhớ., tuyệt vọng..Phải chăng đã phản ảnh phần nào cuộc đời tình cảm riêng tư của anh?
Thưa anh, trưóc khi hỏi anh về một chút riêng tư, HKL phải  xin rào  trước đón sau như thế naỳ: Từ bao thế hệ, ngay cả bây giờ , nhiều người vẫn còn thắc mắc về những nhân dáng trong bài  thơ hay nhạc đã nổi tiếng. những bản nhạc đã đi vào  lòng người  mãnh liệt cuả những mối tình không trọn, dang dở, đau khổ giấu  kín trong một góc đời của thi, nhạc sĩ?nên đã khiến họ viết đuợc những tuyệt tác để lại cho đời..
Bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu của anh cũng đã đuợc coi như nằm trong những con số nói trên. Người ta cũng ao ước muốn đuợc biết chút xíu về những nhân dáng nào, đã đánh động đuợc tâm linh nhạc sĩ như thế, nhất là anh khi viết về Gọi Người yêu Dấu. Anh có thể tâm sự chút it với độc giả đuợc không a.?
VDN : Tôi xin cám ơn HKL đã thông cảm tâm trạng tôi trong hoàn cảnh trái ngang: một người nghệ sĩ khi đã có gia đình, không thể phụ bạc vợ con để đi theo tiếng gọi của tình yêu, nên thật đau đớn lúc cắt đứt chuyện tình đó. Kết quả của nỗi đau đớn khôn nguôi ấy là bài Gọi Người Yêu Dấu. Cho đến cả chục năm sau, có đêm trong tù, khi nhớ về kỷ niệm xưa, tôi đã mơ thấy Ly Cơ, và gọi tên nàng trong giấc mộng. Ngày xưa , những năm còn nhỏ, đọc truyện Tàu, tôi đã say mê những nhân vật Bao Tự, Ly Cơ... Ly Cơ là người yêu của Sở Bá Vuơng. Ly Cơ với dáng đi dịu dàng, tha thướt kiêu sang.

HKL: Thưa anh, như vậy nhân dáng Ly Cơ chắc là nhiều  lắm trong các nhạc phẩm cuả anh?
VDN: Vâng, đúng vậy, bản nhạc đó đã viết riêng cho nàng, cho Ly Cơ. Nàng là nhân dáng trong bài   Gọi Người Yêu Dấu.

HKL: Thưa anh, những gì người nghệ sĩ viết ra từ cảm xúc chân thành nhất, bao giờ cũng là những tác phẩm hay, làm rung động lòng người, và theo thiển ý của HKL thì Gọi Người Yêu Dấu đã là bản nhạc mà tất cả những ai đã yêu, đuợc yêu, hoặc mất tình yêu, đều thấy bóng dáng mình trong đó. Thế còn Vùng Trời Kỷ Niệm, Thấp Thoáng Như Giấc Mơ?, anh đã viết chung về một nhân dáng hay từ những cảm xúc khác?.
VDN : Tôi đã viết cho Ly Cơ, cho nhân dáng trong Gọi Người Yêu Dấu. Cám ơn HKL thật nhiều về những cảm nhận từ giòng nhạc tôi viết. Phần lớn các bài hát đều hướng về một nhân dáng. Ly Cơ là một nhân vật có thật, hiện sống tại Mỹ nhưng đã không còn liên hệ gì mật thiết từ hơn 30 năm. Biệt hiệu Ly Cơ tôi tặng nàng là do một baì thơ cuả Xuân Diệu mà tôi yêu thích:
Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi
Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng
Trong trăng nhớ nàng Dương Quý Phi
( Nhị Hồ cuả Xuân Diệu)

HKL :Trong số những bản nhạc anh đã sáng tác, anh ưu aí bản nhạc nào nhất a.? và vì sao?
VDN: Tôi có bẩy người con, tôi đều yêu quý như nhau, thì những đứa con tinh thần cũng vậy. Có những bản nhạc, may mắn đuợc nhiều người biết đến, và có những bản nhạc kém may, vẫn nằm đâu đó trong hộc tủ, nhưng không phải vì thế mà tôi không yêu quý, Tôi qúy tất cả những gì mình đã sáng tác. Tôi ưu aí tất cả những bản nhạc đã viết, đặc biệt là Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu và những bài Tôn Vinh Ca đã viết trong tù.




HKL : Hiện nay có rất nhiều nhạc sĩ trẻ, amateur, nhưng nhạc họ sáng tác thật hay, và họ cũng bị kẹt như nhiều  nhạc sĩ tên tuổi khác khi không đuợc những trung tâm lăng xê, cho nên những bản nhạc hay đành ngậm ngùi phổ biến trong nhóm nhỏ bạn bè, hoặc may mắn trên mạng luới. Tuy nhiên, nghe nhạc trên mạng lưới không thể hay bằng những bản nhạc đã đuợc thâu vào CD, với hoà âm, phối khí chuyên nghiệp. Anh có điều gì nhắn nhủ hay góp ý với những nhạc sĩ trẻ này không?
VDN: Xin cứ tiếp tục theo đuờng lối của mình, không sáng tác theo thị hiếu quần chúng, nên trau dồi nghệ thuật, học hỏi, trao đổi với các bạn cùng chí huớng, Thận trọng trong sáng tác và thực hiện băng nhạc.

HKL : Về môi truờng phổ biến hạn hẹp của loại nhạc A (xin xem bài phỏng vấn Nguyễn Ngọc Ngạn) thì anh có nghĩ lọai nhạc này sẽ dần dần mai một; và rồi trong tuơng lai, loai nhac A này sẽ không còn thấy nữa?
VDN: Tôi không nghĩ rằng loại nhạc A sẽ có ngày mai một. Không phaỉ là trình độ thẩm âm cuả người nghe quá kém, nhưng là sự lan tràn cuả loại nhạc rẻ tiền quá mạnh, gây một thói quen thưởng ngọan quá dễ dãi trong quân chúng . " Hũu xạ tự nhiên hương", cái gì hay và có giá trị sẽ tồn tại. Điển hình là những ca khúc tiền chiến của các nhạc sĩ Văn cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Qúy, Đoàn Chuẩn?đến nay vẫn còn đuợc mến mộ.

HKL : Anh có ý kiến gì để chúng ta có thể duy trì loại nhạc A mà chúng ta yêu thích?
VDN: Sự lan tràn cuả nhạc rẻ tiền chỉ có tính cách giai đọan. Sẽ có ngày, người ta sẽ chán những loại ca khúc này, và sẽ đi tìm kiếm những ca khúc có giá trị nghệ thuật. Tôi cũng hy vọng các nhà sản xuất băng nhạc sẽ lưu tâm phổ biến những ca khúc có giá trị nghệ thuật để nâng cao trình độ thưởng ngoạn của đa số quần chúng.

HKL : HKL rất thích CD Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu. Qủa thật CD này đã như một món quà qúy giá tặng tất cả những người vợ hiền đã vất vả lo nuôi con, nuôi chồng trong những năm dài tù tội. Biết bao nhiêu người vợ VN , và chỉ có những người vợ VN thôi, mới có thể kiên nhẫn chịu đựng những nỗi khốn khó nhọc nhằn trong giai đọan tang thương, tuyệt vong đó. Có phải thế không, anh Vũ Đức Nghiêm? Anh có kỷ niệm nào đặc biệt hôm ra mắt CD Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu không ?
VDN: HKL thật tinh ý. Vâng, có một câu chuyện nhỏ. Hôm ra mắt CD đó, anh MC có hỏi khó tôi một câu: " Đóa hồng này có phai cho người trong bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu và người đó có phải  là hiền nội của nhạc sĩ bây giờ?" Tôi không thể nói dối, nên tránh né như sau: " Gọi Người Yêu Dấu là gọi người mình yêu mà mình đem giấu đi. Kẻo vợ biết thì nguy lắm. Còn Cho Người Yêu Dấu là tặng người vợ hiền đã vất vả vì tôi trong suốt 13 năm tù tội."

HKL: Cái tựa CD của anh rất hay, chắc anh đã lấy từ tên một bài thơ nào chăng?
VDN: Thưa không phải. Lúc đầu, tôi định đặt là : "Đóa Hồng Cho Vợ Hiền" thì các con tôi góp ý là nghe không thơ, không lãng mạn gì cả, và đề nghị tôi đổi là "Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu" . Khi viết Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu, tôi đã hình dung ra đến ngày mình đuợc trở về, 13 năm hay hơn nữa, chắc sẽ thấy vợ hiền biến thành một bà già lụ khụ rồi
"...Xin cho tôi hôn mái tóc điểm sương
Xin cho tôi hôn vầng trán ưu phiền

Xin cho tôi hôn đôi mắt héo hon, năm tháng mỏi mòn, chờ người xa vắng
Xin cho tôi hôn bàn tay chai sần, thay chồng nuôi con, một đời vất vả....."

Xin mời nghe:
Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu
Elvis Phương trình bày

HKL : Bức hình anh chụp trên bià CD của anh, coi rất nghệ sĩ và rất là "lãng tử" khiến HKL nhớ đến đoạn văn cuả Ký giả Lô Răng đã viết về anh: hồi ông ấy ở tiểu đoàn 6 bộ binh đang theo dấu trung đoàn cuả VC đến vùng duyên hải Buì Chu , Phát Diệm, nơi xứ đạo đang yên vui thì bùng khói lửa, tại đó ông đã gặp Trung uý Nguyễn Bảo Trị, Trung Uý Nguyễn Đức Thắng.v..v..và Trung Uý Vũ Đức Nghiêm. " Qua vùng Hoành Nha, một miền xứ đạo thuần thánh, có những chiếc cầu đá rệu phong bò qua những con nước trong leo lẻo tôi gặp một sinh viên khoá Một nữa, Trung Uý Vũ Đức Nghiêm đồn trưởng Hoành Nha, nhưng khác với những quân nhân ném cả tâm hồn lẫn thể xác vào cuộc chiến. Tôi thấy Vũ Đức Nghiêm ngồi một mình trên lô cốt, đang nghiêng đầu trên cây gưitar, dạo một khúc đàn. Một hình ảnh tương phản hẳn vói tình hình chiến trận ở chung quanh. Hình như người dạo đàn kia đang quên trời quên đất, quên chiến sự đang sôi sục, để sống riêng cho hoài cảm cuả mình?"
VDN: Tấm ảnh đó là do nhiếp gia danh tiếng Nguyễn Ngọc Hạnh chụp tặng cho tôi.

HKL: Xin cám ơn anh đã đành cho HKL buổi phỏng vấn này, và xin chúc anh tiếp tục sáng tác thật nhiều .

Hương Kiều Loan
2001


(Nguồn: http://www.honque.com)