Hôm nay là ngày
lễ Giáng-sinh, anh em chúng ta rải rác khắp nơi trên thế giới cùng chào mừng
ngày lễ tôn-giáo này. Có lẽ trong chúng ta cũng có người không theo đạo Thiên
chúa, nhưng sự phổ thông của ngày lễ nầy không khỏi hằn sâu vào tâm trí
ta cái giá trị tâm linh mà tôn giáo nầy trao tặng.
Hiện nay anh em chúng
ta là những người chỉ có quê hương thứ hai, còn quê hương thứ nhất, quê hương
vàng son nhất của một thời tuổi mộng không biết bao giờ có lại được, mặc dầu ai
trong chúng ta, bằng cách nầy hay cách khác, dưới cách đấu tranh nầy hay đấu
tranh khác, tích cực trong việc cứu lấy quê hương để được trở về .
Xin nguyện cầu, xin
nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau
tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ
tóc rối.
Xin quét hết lũ người
sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười cho mọi người được sống
bình yên.
**Bài Tù Ca GIÁNG SINH TRONG NGỤC TÙ (Lời Nguyện Trong Tù)
Sáng tác Bảo Châu (Duy Trác)
Do ca nhạc sĩ DUY TRÁC sáng tác năm 1982 (nhưng để tên tác giả Bảo Châu, con của Duy Trác), truyền khẩu cho anh em tù nhân cải tạo và được VŨ TRỌNG KHẢi hát trong trại tù A20 vào ngày mồng 1 tết năm Nhâm Tuất (1982) ở phân trại E, A 20.
... Khi tôi đưa mắt qua hướng Vũ Trọng Khải thì Vũ Mạnh Dũng
bắt đầu dạo đàn; khúc nhạc dạo đầu của Dũng vừa về chủ âm thì Khải đã cất tiếng
hát, rất ăn nhịp:
“Có con chim nhỏ trên
hàng rào kẽm gai.
Đứng im than thở; cuộc
đời còn có ai?
Này chim có biết nơi
đây sống kiếp đọa đày,
sống không ngày mai,
như kiếp cỏ cây.
Có ngôi sao nhỏ trên bầu
trời giá đêm.
Suốt đêm không ngủ
thương ngục tù tối đen.
Nhờ sao đem đến tin
vui tới khắp mọi người.
Chúa đã giáng sinh cứu
rỗi trần ai”.
Giọng của ông cựu quan 3 cảnh sát khỏe, ấm, phát âm rõ ràng,
đưa từng lời tâm sự của Khuất Duy Trác đến với anh em tù. Sáng mồng 1 tết ở
Xuân Phước trời vẫn còn lạnh; một vài anh em đến dự khoác thêm áo ấm. Không khí
có vẻ cũng Noel lắm nên phần đầu bài hát của anh Trác được đón nhận một cách tự
nhiên. Rồi Vũ Trọng Khải vào điệp khúc ở cung Trưởng :
“Xin Chúa hãy vỗ về,
ru no tròn giấc ngủ trẻ thơ.
Xin một giấc mơ lành
cho mẹ già từ lâu mong nhớ.
Xin nguyện cầu cho vợ
hiền lẻ bóng nơi xa.
Xin nguyện cầu, xin
nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau
tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ
tóc rối.
Xin quét hết lũ người
sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười
cho mọi người được sống bình yên”.
Tôi thấy có những đôi mắt rưng rưng lệ. Ai chẳng có mẹ già,
vợ hiền, con thơ.
Rất nhiều người hòa chung tiếng hát “A….men” như kết thúc một
bài hợp ca lớn. Tôi nghĩ tiếng vỗ tay sẽ vang dậy nếu không có cái quy định kỳ
quái của Ngọc Đen và Vũ Mạnh Dũng. Khán giả của chúng tôi đành phải lặng yên
nhìn Vũ Trọng Khải một cách ngưỡng mộ và thán phục.
Ông tốt nghiệp với văn bằng Tiến sĩ
Dược khoa Đại học Toulouse ở Pháp.
Từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và
Thanh Niên thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
Từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng Sản.
Khi ra khỏi trại tù Cộng sản,
ông qua Mỹ theo diện ODP được đoàn tụ với gia đình trong tuổi già bóng xế. Ông định cư và sống tại Hoa Kỳ cho đến
cuối đời,
Tháng Mười Một năm 2005, cựu Tổng
Trưởng Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh qua đời tại San Jose, thọ 82 tuổi.
DIỄN VĂNCỦA ÔNG NGÔ
KHẮC TỈNH
TỔNG TRƯỞNG BỘ VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ THANH NIÊN
ĐỌC TRONG DỊP ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 3518 VÀ
LỄ KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP
VIỆN ĐẠI HỌC VẠN HẠNH
(06 - 5 - 1974)
Tôi rất hân hoan đón nhận vinh dự mà Viện Đại Học Vạn Hạnh đãdânh cho
tôi, đến chủ tọa lễ kỷ niệm mười năm thành lập Viện ngày hôm nay. Nhân cơ hội
này, tôi gửi lời chào mừng chư tôn Hòa thượng, cùng toàn thể liệt Quí vị quan
khách.
Thấm thoát mười năm trôi qua. Trong khoảng thời gian qua nhanh như chớp mắt ấy,
Viện Đại Học Vạn Hạnh đă thắng lướt không biết bao nhiêu khó khăn, thử thách để
trưởng thành và dầndần hoàn tất mục tiêu dự liệu.Với một cơ sở khang trang và
đầy đủ phương tiện giảng huấn bậc Đại học như hiện có, cộng thêm những nổ lực
không ngừng nhằm kiện toàn chuơng trình giảng dạy, cải thiện lề lối sinh hoạt
của sinh viên,
Con tàu TGV nối liền thành-phố
Dijon-Paris ngừng tại điểm đến ga Lyon. Phú xuống xe, kéo va-li đi dọc theo
hành lang ga, xuống hầm xe điện ngầm để đón xe về khách-sạn.
Chiều thứ sáu, đang là giờ cao-điểm cuối
tuần nên hành khách đi lại rất đông. Phú chen đi trong dòng người vội vã, vừa
ra khỏi cầu thang cuốn, anh thoáng nghe có tiếng đàn guitar hòa lẫn giọng ca nam
nhẹ vang lên trong góc hầm, giọng ca tiếng Việt buồn não, lời bài ca đã
lâu lắm anh mới có dip nghe lại:
Trời đêm dần tàn, em đến sân ga để tiễn
người trai lính về ngàn.
Cầm chắc đôi tay, ghi vào đời tâm-tư
ngày nay.
Gió khuya ôi lạnh sao, vấn nhẹ đôi tà
áo.
Tàu xa dần rồi, thôi tiếc thương chi khi
biết người ra đi vì đời
Trở gót bâng-khuâng em hỏi lòng đêm nay
buồn không.
Chuyến xe đêm lạnh không ?Để người yêu vừa lòng ?
Ngày tháng đợi chờ, em đến sân ga nơi
tiễn người trai lính ngày nào
Tàu cũ năm xưa, mang người tình biên khu
về chưa ?
Khóa 22 nhập học ngày 2/12/1965, nhưng phải đợi 5 ngày sau một phái đoàn gồm 52
“nhân tài” của 4 tỉnh Trị -Thiên – Nam – Ngãi, được một chiếc phi cơ quân sự
đưa từ Đà Nẵng vào Liên Khương cho đủ túc số 274 người. Thôi thì quí vị “hung
thần Khóa 21”, đang huấn luyện khóa 22, đổ cho đủ thứ tội như là các anh biểu
tình chống đối, tà tà câu giờ, bạn bè các anh đang thi hành lịnh phạt còn các
anh thì đang thảnh thơi.. .. Nhưng “Biệt đoàn B52” vẫn bình tĩnh chấp nhận mọi
hình phạt, lắng nghe mọi lời nặng nhẹ… không có gì chống đối hay phản đối (nếu
làm ngược lại là chết ngay).. Mà quả thật biệt đoàn này có nhiều nhân tài như
Vua Lâm Viên Đỗ Văn Chánh (Quảng Ngãi), thủ khoa Rừng Núi Sình Lầy là Châu Văn Hiền
tự Cóc (Huế), hai người thủ Quốc Quân kỳ (có chiều cao nhất khóa) là Trần Đình
Thạnh và Phan An (Thừa Thiên). Tội nghiệp Thạnh đã chết trong đợt thảm sát tết
Mậu Thân khi cùng người yêu tên Ly về Huế thăm nhà và xin mẹ làm phép cưới. Đặc
biệt Huỳnh Văn Thảo (Huế), một trong những người trẻ nhất khóa, đã hy sinh
trong khi đi giữ thùng phiếu tại Suối Vàng nhân bầu cử Tổng Thống đầu tiên của
nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Đúng là Thảo đã đến Suối Vàng và không bao giờ muốn trở
lại Dương Thế và khóa 22A rất hãnh diện ra trường năm 1967 với cái tên của
người bạn mình, Khóa Huỳnh Văn Thảo, và thủ khoa khóa 22B Nguyễn Đức Phống
(Huế) cũng là nhân tài của biệt đoàn B52. Phống ra trường sau 4 năm học chọn về
Thiết giáp và cũng đã “DA ngựa bọc thây” tại chiến trường Campuchia năm 1970.
Khóa 23 ra trường có tên gọi là Khóa Nguyễn Đức Phống. Và còn nhiều nữa kể ra
không hết.
Anh sinh ngày 18/6/1942 tại thị trấn Ái
nghĩa, quận Đại lộc, tỉnh Quảng Nam.
Học Trường Tiểu học Xuân An (Đà lạt), Trung
học Trần Quí Cáp (Hội An) và Đại học Khoa học (Sài gòn). Tình nguyện gia nhập
Khóa 22 Trường VõBị Đà-Lạt ngày 22/11/1965 và mãn khóa (Huỳnh Văn Thảo) ngày 2/12/1967 .
Tình nguyện về Lữ đoàn Thủy Quân Lục
Chiếnvà được đưa về TĐ2/TQLC có
Hậu cứ tại trại Lê Hằng Minh (Tam hà, Thủ Đức).Làm Trung đội trưởng Trung đội 42 thuộc ĐĐ4 của Tr/U Trần
Văn Hợp. Rồi ĐĐ phó ĐĐ4, Trưởng ban 3/TĐ và Đại đội trưởng ĐĐ4 ( 12/1969) .
Bị thương tại chiến trường Hạ Lào (1971).
Xuất viện chuyển về TĐ9/TQLC của Th/tá Nguyễn Kim Đễ, giữ chức vụ Trưởng ban 3
và Đại đội trưởng ĐĐ1cho đến ngày đi học khóa 5/74 Bộ binh Cao cấp tại Trường
Bộ binh ở Long Thành.
Mãn khóa học về làm Trưởng ban 3 /TĐ2/TQLC
cho đến ngày 30/4/1975.
Gần 10 năm tù CS qua các trại từ Nam ra
Bắc.
Qua Mỹ theo chương trình HO22 ngày 22/11/1993.
Hiện cùng Gia đình định cư tại Anaheim, Nam
California.