30.4.10

30 tháng 4, 1975 và cụ Nguyễn Văn Huyền




Vũ Ánh
(04/09/2010)

Lần chót tôi gặp cụ là vào khoảng 7 giờ tối ngày 28 tháng 4, 1975. Từ 8 giờ sáng ngày hôm đó, với tư cách là Phó Tổng Thống của “Big Minh,” cụ được giao nhiệm vụ vào trong trại Davis ở khu Tân Sơn Nhất, trụ sở của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, để theo lời cụ, thương lượng với viên tướng độc nhãn Việt Cộng Hoàng Anh Tuấn, hầu tránh một cuộc đổ máu vô ích. Lúc xẩm tối 28 tháng 4, khi vừa từ đài truyền hình THVN-9 trở về thì nhận được điện thoại của Tổng Trưởng Thông Tin Lý Quí Chung là phải chuẩn bị để đón tiếp Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền và chuẩn bị sẵn một phòng vi âm để thu thanh hiệu triệu của cụ Huyền. Lý Quí Chung cho biết là cụ Huyền sẽ từ Tân Sơn Nhất đi thẳng về đài.

Tôi ra lệnh cho câu lạc bộ chuẩn bị sẵn một số khăn ướp lạnh và nước uống cho cụ trước khi cụ vào phòng vi âm, rồi gọi trưởng ban an ninh cho khám xét an ninh phòng vi âm B, tức là phòng vi âm chỉ để đón tiếp các khách VIP. Khoảng 10 phút sau, một toán an ninh từ Phủ Thủ Tướng sang để duyệt lại lần chót về an ninh trước khi cụ Huyền tới.

Vào khoảng thời gian đó, sức khỏe của Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền đã xuống rất nhiều. Trước đây, khi còn làm Chủ Tịch Thượng Nghị Viện, mỗi khi lên các bậc thềm ở trụ sở Hội Trường Diên Hồng hay cửa trước Dinh Ðộc Lập, cụ mới cần người dìu lên. Nay đi đâu cũng phải có người dìu.

Là người Công Giáo thuần thành, cụ nổi tiếng là người đạo đức, thanh liêm. Dường như, suốt cuộc đời làm chính trị, cụ không bị dính tới bất cứ một vụ tai tiếng nào về tiền bạc hay đạo đức chính trị hoặc đối xử tệ hại đối với các đồng viện hoặc đối với những người biểu lộ rõ rệt là không thích quan điểm của cụ. Thực tế, cũng khó kiếm ra một người mà ngay cả vào lúc quyền lực cao trọng như cụ mà vẫn sống một đời sống khổ hạnh. Và có lẽ trong chính giới ở Quốc Hội VNCH, cũng khó tìm một người lúc nào cũng giữ giọng ôn tồn, nhẹ nhàng nhưng có sức nặng bằng những hòn đá tảng như cụ.

Người miền Nam, tính tình hiền hòa, cởi mở, không chấp nhất, câu nệ, nhưng rất cương quyết. Có một khoảng thời gian, một số những nhân vật thân chính ở trong chính phủ cũng như Quốc Hội toan tính vận động để sửa đổi số nhiệm kỳ mà một ứng cử viên tổng thống được quyền tranh cử, cụ đã thẳng thắn chống lại âm mưu này. Nếu kế hoạch thành công, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có quyền tranh cử thêm một nhiệm kỳ nữa.

Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền về đến đài phát thanh Sài Gòn trước 7 giờ tối. Người sĩ quan tùy viên dìu cụ xuống xe. Tôi tiến tới bắt tay cụ và nói: “Chúng tôi nhận được lệnh đón tiếp Phó Tổng Thống. Phó Tổng Thống khỏe chứ ạ?” Qua làn kính cận, đôi mắt cụ Huyền sáng quắc. Cụ nói: “Hổm rày cũng không được khỏe lắm. Mình làm việc ngay được chứ?” “Vâng, chúng tôi đã chuẩn bị xong.”

Tôi đi chầm chậm hướng dẫn cụ Huyền vào sân cỏ hẹp chạy dọc theo các dãy phòng làm việc. Một số nhân viên mở cửa phòng tính đi theo cụ Huyền, nhưng bị trưởng ban an ninh mời ra. Ðúng theo kế hoạch và vì vấn đề an ninh, chỉ có những người nào có phận sự mới được lại gần khu vực phòng vi âm.

Thấy như vậy, cụ Huyền nói: “Thôi cứ để họ lại gần, qua muốn bắt tay và cảm ơn giờ này họ vẫn còn ở lại.” Cụ bắt tay từng người, hỏi thăm gia cảnh và đích thân ngỏ lời cảm ơn các nhân viên và các biên tập viên. Hai “tài xế” chủ câu lạc bộ đưa cho cụ một khay gồm khăn bông nhỏ trắng phau ướp lạnh và ly nước. Cụ Huyền nói: “Thôi để vào trong phòng vi âm.” Tôi hướng dẫn Phó Tổng Thống vào phòng vi âm và kéo ghế cho cụ ngồi trước microphone, rồi dặn dò cụ, rồi sau đó để cho ngoài phòng máy thử giọng và đo âm lượng. Loại máy hiệu Ampex mà từ lâu hệ thống truyền thanh quốc gia tín nhiệm có độ trung thực gần như 100%, nên cũng không cần thử máy nhiều lần. Cụ Huyền nói: “Qua quen mấy vụ này lắm rồi, em yên tâm.” Như Tổng Thống Dương Văn Minh, cụ Huyền dùng từ “qua” làm ngôi thứ nhất.

Bài hiệu triệu của Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền dài khoảng 7 phút đồng hồ, trong đó cụ chia làm hai phần. Phần đầu cụ tường trình về cuộc thương lượng với “phía bên kia” và phần thứ hai là kêu gọi mọi người tôn trọng luật pháp, tránh hoảng loạn, tránh những hành động có thể khiến lực lượng an ninh hiểu lầm. Cụ cũng kêu gọi lực lượng quân đội và cảnh sát sát cánh để giữ an ninh trật tự và thẳng tay đối với những kẻ cướp và hôi của. Bên ngoài phòng vi âm, nhân viên tụ tập vòng trong vòng ngoài và trời bỗng đổ xuống một cơn mưa nhẹ. Tiếng cụ Huyền trong hệ thống loa kiểm soát ngoài phòng máy vẫn lồng lộng, không vấp váp và đầy tình cảm. Cuối cùng, cụ Huyền kêu gọi mọi người bình tĩnh và kiên nhẫn chờ đợi những quyết định của chính phủ. Khi cụ dứt lới, trên mắt mọi người từ trong và ngoài phòng vi âm đều đẫm nước.

Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền, rút trong túi áo chiếc khăn mù xoa trắng, chậm nước mắt. Cụ quay sang tôi và hỏi: “Trong đài hiện nay còn bao nhiêu người?” Tôi trình bày: “Thưa Phó Tổng Thống, ngay bây giờ đây chúng tôi có khoảng 40 người, những người còn ở lại làm việc tối nay dựa trên nguyên tắc tình nguyện. Hồi trưa, ông Tổng Trưởng Thông Tin nhắc lại lệnh của Tổng Thống là chỉ để lại những người cần thiết. Tôi đã cho những người không cần thiết về rồi. Số còn đứng ngoài kia họ chưa chịu rời khỏi đài.”

Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền chậm rãi, nhưng giọng đầy xúc động: “Thật tình là chúng ta tuyệt vọng rồi. Qua không biết lấy gì để cảm ơn mấy em còn ở đây cho đến giờ phút này. Ðiều mà chính phủ cần bây giờ là thương lượng để họ (VC) đừng tắm máu những người dân vô tội. Cho nên tiếng nói quốc gia bây giờ rất cần thiết. Thành phố còn tương đối yên lành, ít cướp bóc và hôi của cũng là nhờ còn có đài phát thanh. Còn đài, họ biết là chính quyền còn nên chưa dám làm bậy.

Tôi hỏi cụ Huyền: “Cuộc thương lượng có kết quả gì không thưa Phó Tổng Thống?” Cụ trầm ngâm một chút rồi trả lời, ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa: “Lúc VNCH còn mạnh, họ cũng còn chưa chịu thỏa hiệp huống chi bây giờ. Chính phủ thì mới thành lập chưa được một ngày. Nhưng qua cũng nhịn nhục vào gặp họ chỉ để yêu cầu họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài Gòn, chết người thêm chi cho vô ích. Riêng qua và ông Minh thì còn kể số gì nữa, họ xử ra sao cũng được.

Tôi hỏi cụ một câu chót: “Chúng tôi được biết, Phó Tổng Thống nhận lời’Big Minh’ rất trễ. Như vậy Phó Tổng Thống cũng biết trước là tình hình sẽ diễn tiến như hiện nay?” Cụ Huyền thẳng thắn: “Khi ông Thiệu bỏ đi, ai cũng đoán được là tình hình cuối cùng sẽ như hiện nay. Chúng tôi đứng ra nhận trách nhiệm khi biết rõ không còn phương sách nào có thể cứu vãn được. Trước khi chúng tôi quyết định, nhiều anh em đã nói, ngu dại gì mà bước vào làm việc trong hoàn cảnh này, nhưng tôi nghĩ đã là kẻ sĩ thì không thể nào thiếu trách nhiệm đến mức thời bình thì ngựa xe quyền lực, nhưng khi đất nước tan hoang thì lại bỏ đi tìm sự yên thân.”

Chờ đến khi trời dứt mưa hẳn, chúng tôi tiễn cụ Huyền ra xe. Cụ lại bắt tay từng người, mắt vẫn sáng quắc. Ðó là lần cuối cùng, tôi được gặp và nói chuyện với cụ, được biết tâm sự u uất của một người yêu nước. Khi vào trại cải tạo, chúng tôi có gặp lại một vài nhân viên đã từng được biệt phái làm việc trong văn phòng Chủ Tịch Thượng Nghị Viện VNCH. Họ cho biết cụ Huyền không bị đưa vào trại cải tạo nhưng bị quản thúc rất kỹ tại gia. Ngay cả vào chiều 29 tháng 4, sáng 30 tháng 4, 1975, cụ có nhiều cơ hội để ra đi, nhưng cụ đã từ chối. Và từ sau buổi sáng ngày 30 tháng 4 cách đây 35 năm, cụ Huyền giữ im lặng cho tới lúc qua đời. Và cũng từ đó không còn ai nhắc nhở đến cụ nữa.

Sang đến hải ngoại, tôi chỉ còn nghe thấy người ta gọi cụ Trần Văn Hương là kẻ sĩ cuối cùng của VNCH, chứ còn cụ Huyền thì thường là bị tiếng đời trách cứ vì cụ là phó của Tổng Thống Dương Văn Minh, trong khi “Big Minh” thường bị lên án là đã dâng miền Nam cho Cộng Sản.

Nhưng cá nhân, vốn là người từng học sử và đọc sử, tôi tin rằng những trách cứ bất công dành cho những nhà lãnh đạo cuối cùng của chế độ VNCH không có giá trị sử học. Vì nó không khách quan. Vì những người phán đoán còn có liên hệ đến biến cố lịch sử 30 tháng 4, 1975. Khi không còn lớp người này nữa thì thế hệ về sau sẽ truy cứu một cách độc lập những sử liệu, dùng sự đối chiếu khoa học để đưa ra các nhận xét vô tư hơn để tìm hiểu xem vì đâu, nguyên nhân nào dẫn tới sự đầu hàng vô điều kiện của VNCH chứ không phải ai là người ra lệnh đầu hàng. Một vài người đạp một căn nhà mà cột kèo chưa bị mục, nó không thể đổ. Nhưng một căn nhà cột kèo đã mục nát hết nó cũng sẽ đổ mà không cần người đạp. (V.A.)



(Nguồn:  http://www.vietherald.com)



Hãy nói về những người ở lại



Vũ Ánh
(04/03/2010)

Trong cuộc chiến kết thúc cách đây 35 năm, trong số dân chúng hai miền Nam và Bắc Việt Nam, có rất nhiều người Việt Nam yêu nước. Nhưng cách yêu nước của họ khác nhau và sự lựa chọn việc biểu lộ lòng yêu nước cũng khác nhau. Chỉ tính dân số miền Nam Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở xuống tới mũi Cà Mau, chúng ta cũng không thể chối cãi được rằng sự chọn lựa và tư tưởng yêu nước cũng không thể thoát ra ngoài qui luật trên.

Nhưng chiến thắng của người Cộng Sản và họ thống nhất đất nước cho thông thương hai miền Nam Bắc đã giúp dân chúng của hai miền so sánh những thứ mà họ có trong tay, trong cuộc sống hàng ngày. Thực tế ở miền Nam đã giúp thay đổi khá nhiều cách nhìn của những người dân miền Bắc đối với cái mà họ gọi là “giải phóng miền Nam” và làm cho một số người miền Nam trong chiến tranh vẫn còn mơ mộng tới hình ảnh trong sáng của cuộc kháng chiến chống thực dân nay không còn mơ mộng nữa. Nhưng tất cả dân số đó khi nhận chân được sự thật thì đã quá muộn. Tất cả dân chúng từ Bắc chí Nam đều phải sống trong một nhà tù vĩ đại, tinh vi ở Việt Nam. Nó không có những bức tường bê tông cốt sắt, hàng rào kẽm gai, nhưng vẫn xiềng xích, quản thúc được con người.

Tuy thế, cũng có nhiều người may mắn thoát ra được khỏi cái nhà tù vĩ đại ấy: Ðó là chúng ta, những người di tản, vượt biển, vượt rừng, HO, đoàn tụ gia đình. Cái giá để đánh đổi lấy tự do rất lớn. Nhưng bù lại chúng ta có được một cộng đồng tại một nước dân chủ, làm việc cực nhọc nhưng không đói, bị khinh khi lúc chân ướt chân ráo đến đây, nhưng nay dần dần sự đóng góp và hội nhập của cộng đồng Việt Nam tại Mỹ cũng đã làm thức tỉnh rất nhiều người Mỹ dòng chính. Rõ ràng chúng ta là những người may mắn và được che chở bởi một phép lạ.

Nhưng mỗi lần nhìn đến những hình ảnh cũ của sự thất bại của chúng ta, nhớ lại những hình ảnh tan tác của một quân đội không thiếu lòng dũng cảm, không thiếu kinh nghiệm tác chiến, từng là một trong những thành trì vững mạnh ngăn chặn làn sóng đỏ, ai là người đã từng chứng kiến giờ phút đen tối ấy của một tiền đồn thế giới tự do mà không đau, không xót. Nghĩ cho cùng thì cái giá lớn lao mà quân, dân, cán, chính miền Nam Việt Nam phải trả là thiếu lãnh đạo thượng tầng sáng suốt và những đồng minh chung thủy.

Trong 35 năm qua, người Việt Nam ở hải ngoại đã nói nhiều tới cái giá mà mình phải trả để có được tự do. Nhưng chúng ta đã nói gì về cái giá mà những người còn ở lại không có hoàn cảnh như chúng ta chưa? Trước hết, nhiều người về thăm gia đình, khi quay lại Mỹ, được hỏi về một số những bạn cũ, thì phần nhiều đều nói: “Bọn họ bây giờ giầu lắm.

Một cựu phóng viên đài phát thanh Sài Gòn, có thời làm việc dưới quyền tôi, trở lại Việt Nam vì có việc tang chế, cố tìm đến một cựu phóng viên khác khá thân thời còn làm việc chung không ra nước ngoài. Nhưng cả hai chỉ nói chuyện được với nhau đúng năm phút trong lạnh nhạt. Khi anh quay trở lại Mỹ, tôi hỏi thăm về chuyện này, người bạn đồng sự với tôi nói: “Anh ơi, em phải ngồi chờ nó 30 phút, qua 3 cửa an ninh, mới được gặp, nhưng nó lạnh nhạt nên em cũng không muốn nói chuyện lâu.”

Một người bạn tù của tôi trước đây, không đi HO mà “ở lại để chứng kiến sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản” nay sang du lịch vì con gái của anh ở Mỹ mua vé máy bay. Anh sang đây chơi nhưng phải để vợ ở lại. Tôi hỏi: “Mày sống ra sao?” “Cũng tàm tạm vì tao bán được cái nhà, rồi cho vợ đi buôn bán rỉ rả cũng sống được.” Tôi hỏi thăm về những người bạn mà chúng tôi cùng quen, anh nói: “Mẹ kiếp, chưa thằng nào chết, nhưng vất vả nhếch nhác lắm. Thằng L. phải đi bán nhang (hình thức đi xin), bây giờ thì khá hơn. Cu cậu lên chức ca sĩ hè phố rồi.

Dĩ nhiên, những tin tức trên chưa thể mang lại cho tôi một hình ảnh nào rõ rệt về cái xã hội hiện nay ở Việt Nam, trong khi trên các trang mạng, những tin tức được loan báo trái ngược nhau, lại không có độ xác tín cao. Thế còn những quân, dân, cán chính chen chúc nhau, dẫm đạp lên nhau chỉ cố lọt vào được hàng rào sứ quán Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất cách đây 35 năm, bây giờ họ sống ra sao? Những người lính tan hàng, cởi bỏ quân phục, súng ống ba lô, để thoát thân sau lệnh đầu hàng, những gia đình có người thân trong quân đội, cảnh sát, tự tử ngày 30 tháng 4, 1975, hoặc tử trận trước và sau giờ đầu hàng, những nghệ sĩ từng góp phần vào mặt trận văn hóa, những cán bộ xây dựng nông thôn của đoàn 59 người đã từng góp phần vào công tác bình định, những người lính địa phương quân, nghĩa quân, bây giờ đời sống của họ ra sao, số phận của con cái họ như thế nào?

Trong suốt 35 năm qua, có được bao nhiêu trang báo, có được bao nhiêu giờ trên các hệ thống truyền thông Việt ngữ, có bao nhiêu lễ tưởng niệm 30 tháng 4 được dùng để nói về họ, có bao nhiêu bài nghiên cứu đề cập đến số phận của những người này?

Ngày 30 tháng 4, 1975 có phải là ngày chỉ dành riêng cho cộng đồng tị nạn Việt Nam không? Thế còn những người quốc gia không có cái may mắn sang đây như chúng ta thì ngày 30 tháng 4 có phải là ngày của họ không?

Ðặt ra những vấn đề đó chỉ là một cái cớ để nói với các nhà làm chính trị, các nhà tranh đấu rằng họ cần phải canh tân đường lối đấu tranh. Ba mươi lăm năm qua, dù muốn dù không, có thể đã có một bức tường giữa người dân trong nước và cộng đồng hải ngoại chỉ do sự hà khắc của chế độ đương thời tại Việt Nam và lòng hoài nghi về sự hữu hiệu của những phương thức tranh đấu của một số tổ chức chống Cộng ở hải ngoại. Người chống Cộng ở hải ngoại cần phải tìm hiểu và phá bỏ nó, nếu không, công cuộc chống Cộng trở thành chống lẫn nhau. (V.A.)



(Nguồn:  http://www.vietherald.com)

“35 Năm Nhìn Lại” cuộc chiến bị ngộ nhận



Vũ Ánh
(04/15/2010)
 

Cuộc chiến tại Việt Nam đã kết thúc cách nay 35 năm, nhưng nó chưa kết thúc trên báo chí, truyền thông, chưa kết thúc trong các thư viện, chưa kết thúc trong các cuộc hội thảo. Lý do cũng khá dễ hiểu: Cuộc chiến chấm dứt với khá nhiều u uẩn cả bên thua trận lẫn bên thắng trận. Chúng tôi không ở bên thắng trận nên chỉ đề cập đến những u uẩn của những người mặc áo lính VNCH. Ðiều này có nghĩa là vẫn còn nhu cầu, nếu không muốn nói là rất cần thiết, để bàn cãi, để làm sáng tỏ thêm những điều còn bị che lấp bởi bóng tối, bởi ngộ nhận. Và đó là lý do tại sao, có một cuộc hội thảo chủ đề “35 năm nhìn lại” được tổ chức tại “US Army & Navy Club” ở thủ đô Washington, DC, vào cuối tuần rồi, qui tụ 50 nhân vật gồm những cựu tướng lãnh, những nhà nghiên cứu quân sự, nghiên cứu sử học của Mỹ, các cựu viên chức cao cấp của VNCH trong thành phần diễn giả và người tham dự lên tới 200 người.

Vào dịp những người Việt tị nạn chuẩn bị tưởng niệm thảm kịch 30 tháng 4, một cuộc hội thảo với tầm cỡ này được tổ chức như vậy là một việc làm có ý nghĩa lớn lao, một nỗ lực đáng kể của ban tổ chức trong cố gắng đưa những khúc mắc trong cuộc chiến Việt Nam ra trước ánh sáng để xóa tan đi những ngộ nhận nằm chất đống và bị bỏ quên trong những kho dữ liệu, bỏ mặc những sai lạc cứ chồng chất mãi lên.

Phải đợi đến 35 năm sau, mới có một cuộc hội thảo tầm cỡ như cuộc hội thảo “35 năm nhìn lại” là đã muộn màng rồi, nhưng vẫn còn kịp thời trước khi những nhân chứng trong cuộc chiến theo nhau trở thành người thiên cổ. Khi bước vào những thư viện lớn của Mỹ hay các nhà sách nổi tiếng tại Mỹ, chúng ta sẽ thấy những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam của các tác giả Mỹ chiếm một phần danh sách khá dài so với những cuốn sách viết về các cuộc chiến tranh khác. Nhưng họ viết gì? Phải nói rằng, các tác giả Mỹ với thói quen làm việc mà họ được huấn luyện từ các trường đại học ở Mỹ, nên những dữ kiện họ đưa ra đều là những việc có căn cơ biên niên sử khá vững vàng. Nhưng không thể chối cãi được là phần đông họ sử dụng các dữ kiện ấy với nhãn quan của người Mỹ. Họ ít khi đề cập đến vài trò của phía VNCH hay có đề cập thì cũng chỉ một vài dòng, coi QLVNCH chỉ là lực lượng phụ, không đáng kể, kém hoạt động, kém năng lực.

Không phải bây giờ mà ngay từ thời chiến tranh, dư luận Mỹ đã ngộ nhận là cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến giữa Mỹ và Cộng Sản. Ngay trong một số những quân nhân thuộc các đơn vị Mỹ đổ bộ đầu tiên lên bãi biển Non Nước, Ðà Nẵng, tháng 5, 1965, khi được báo chí phỏng vấn, phần đông vẫn cho rằng họ đến đây để thực hiện nhiệm vụ được giao phó là “bảo vệ” QLVNCH chứ không phải là “chiến đấu bên cạnh” QLVNCH.

Phía Cộng Sản thì quỷ quyệt hơn. Họ luôn luôn nhấn mạnh đến vai trò của quân đội Hoa Kỳ và ám chỉ đến sự phụ thuộc và kém cỏi của quân đội VNCH. Tuy nhiên, chính người Cộng Sản cũng đã phải nhìn nhận họ bị những tổn thất do chính quân lực này gây ra.

Chẳng hạn như vụ tổng tấn công Tết Mậu Thân ở ngoài Huế, phần lớn báo chí và các hãng thông tấn Hoa Kỳ cho rằng đây là thất bại của VNCH.

Nhưng trên thực tế, đó là một thắng lợi cho dù VNCH phải chấp nhận những thiệt hại nhất định. Trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế 1968, lực lượng Hoa Kỳ án binh bất động và việc chiếm lại Huế là hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm kể cả phi pháo. Ðó là về mặt quân sự. Còn về mặt chính trị, phải nói rằng trước khi rút khỏi Huế, Cộng Sản đã tàn sát khoảng 6,000 người đủ mọi thành phần quân, dân, cán, chính và các tu sĩ công giáo bị họ bắt được. Chính vì hành động này mà những đơn vị Cộng Sản dưới quyền của Thân Trọng Một đã lộ nguyên hình là bọn tội phạm chiến tranh. Báo chí Hoa Kỳ thường rất nhạy cảm với những tội ác chiến tranh, nhưng lúc đó họ im lặng. Rồi đến trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Ðây là một cuộc phản công tiêu biểu chứng tỏ rằng viên đạn cuối cùng chưa ra khỏi nòng súng, chưa chắc đã là sự thất bại. Chúng ta mất một phần của tỉnh Quảng Trị, nhưng việc cắm được lá cờ VNCH tại cổ thành đã vực lại được tinh thần chiến đấu của toàn thể QLVNCH và khiến cho dư luận quốc tế phải thay đổi cách nhìn cuộc chiến Việt Nam.

Năm 1972, trận tái chiếm An Lộc, một trận máu thịt của quân đội VNCH, các hãng thông tấn đều tường thuật với cách mô tả kiểu “cầm bằng là An Lộc sẽ lọt vào tay Cộng quân chỉ trong ngày một ngày hai,” nhưng từng bước một, quân đội của chúng ta đã tái chiếm và người hùng Lê Văn Hưng đã như một ngôi sao chói rạng và là đề tài cho nhiều tờ báo Mỹ khai thác.

Chúng tôi nêu lên những trận đánh tiêu biểu này bởi vì đây là những trận đánh cho thấy một điểm rất rõ rệt: Không có sự trợ lực của quân đội Mỹ, QLVNCH thừa khả năng để tự vệ và tấn công nếu như họ được yểm trợ đầy đủ đạn dược.

Ngay cả trong trận Mậu Thân, quân đội đã cho các quân nhân đi phép hết một phần ba, thì bất ngờ Việt Cộng vi phạm lệnh hưu chiến. Tuy bất ngờ và không được Hoa Kỳ yểm trợ, VNCH vẫn đứng vững và Hà Nội đã nướng tất cả lực lượng của vệ tinh của họ là MTGPMN nhất là cơ sở hoạt động bí mật của họ lộ diện và bị lực lượng an ninh VNCH phá tan. Ðây là dữ kiện có thật không phải là đồn đoán.

Gần đây, dư luận Mỹ đã nhìn lại đôi phần cuộc chiến Việt Nam, đã phục hồi lại danh dự của rất nhiều cựu binh trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng còn sót lại vẫn là một kiểu mẫu: Ðổ lỗi cho việc thua trận ở Việt Nam là do quân đội VNCH thiếu chiến đấu. Khuynh hướng đổ lỗi và coi thường quân đội VNCH là một khuynh hướng vẫn còn khá thịnh hành. Cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã nói lên một phần lý do tại sao khuynh hướng này vẫn còn tồn tại. Nhưng cá nhân, tôi không thấy rằng chúng ta cần duy trì mãi việc đổ lỗi cho kết cục của cuộc chiến Việt Nam cho Hoa Kỳ. Trước khi trách người thì hãy trách mình trước.

Vấn đề còn lại cần thiết cho chúng ta vào lúc này không phải là biện minh. Chúng ta không cần biện minh mà cần chứng minh rằng trong chiến tranh chúng ta đã chiến đấu như thế nào. Chúng ta thua trận, điều đó là rõ ràng rồi, không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, những thế hệ người Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại sau này cần biết chúng ta ngăn làn sóng đỏ như thế nào, chúng ta có hèn nhát vô trách nhiệm trong chiến tranh không. Muốn như thế, những người yêu nước, yêu quân đội–mà nhiều người vẫn còn sống đến ngày nay–sống chung quanh ta còn khá nhiều. Hãy liên lạc với họ, nói chuyện với họ, nghe họ kể lại chuyện đời lính của họ, tập trung lại những tài liệu này, san định, hiệu đính, in ấn thành từng tập xuất bản hàng năm. Viết được bằng tiếng Anh thì càng tốt, còn không viết tiếng bằng tiếng Việt, thì sẽ có người dịch thuật. Khi viết, không cần văn chương, chỉ cần đúng sự thật, khách quan, với những kinh nghiệm cụ thể mà mình trải qua.

Một người không thể làm được chuyện này, phải nhiều người nhiều nhóm góp sức với nhau mới có thể làm được. Theo ý nghĩ riêng của tôi, những người đã đứng ra tổ chức hội thảo “35 năm nhìn lại” là những người có đủ tầm nhìn để điều hợp những công việc vừa kể. Nhiệm vụ thật ra rất khó khăn, chúng ta lại không còn nhiều thời gian, cho nên cần vận động gấp rút sự đóng góp của toàn bộ những cựu quân nhân, công chức, cựu cán bộ và những người liên hệ trực tiếp đến cuộc chiến tranh Việt Nam ở phía chúng ta (VNCH). Những nhân chứng sống này rất quý, nhưng phần lớn tuổi đã cao. Nếu chúng ta thực hiện việc này quá chậm, tôi sợ cơ hội sẽ qua đi. Lúc đó công việc sẽ khó khăn hơn khi chúng ta phải đối chiếu lại để biết mức độ khả tín của từng nhân chứng đã khuất.

Từ lâu, chính giới Mỹ, truyền thông hay những nhà nghiên cứu Mỹ, hoặc thế hệ thứ hai của người Mỹ gốc Việt lại không đọc được tài liệu tiếng Việt mà tài liệu viết bằng Anh ngữ thì quá ít. Cho nên, để cho công tác hiệu đính lại những sự thật chiến tranh còn bị che giấu là công tác hết sức quan trọng nếu như chúng ta muốn làm sáng tỏ cuộc chiến đấu và vai trò của QLVNCH trong cuộc chiến Việt Nam để tẩy rửa những ngộ nhận và bất công.

Từ trước đến nay, người Mỹ gốc Việt Nam chỉ quen làm lớn nhiều chuyện, nhưng tác dụng chỉ lại quanh quẩn trong cộng đồng người Việt, còn những nhà nghiên cứu không đọc được tiếng Việt thì đành chịu thua trong khi những cựu quân nhân VNCH, những nhân chứng giá trị nhất thì không lại gần được vì ngôn ngữ bất đồng. Vả lại một điều thật quan trọng: Những thế hệ người Việt Nam ở hải ngoại sau này không đọc được tiếng Việt. Dịch thuật vì thế cũng rất cần thiết để chuyển những phúc trình, những ký sự, những cuộc phỏng vấn sang tiếng Anh.

Những người này có thể giúp tay tình nguyện gồng gánh những công việc vừa kể cũng không thiếu, nhất là thế hệ thứ nhất của người Việt tị nạn hiện nay có con cái đã lớn và đã về hưu, tương đối nhẹ gánh gia đình và còn sức khỏe để làm việc vài năm nữa.

Việc gây quỹ để in ấn các tài liệu chắc cũng không có gì khó khăn lắm. Chỉ cần những tấm lòng. (V.A.)



(Nguồn:  http://www.vietherald.com)

Ngày 30 tháng 4, 1989 tại Bình Thạnh




Vũ Ánh
(03/26/2010)

Ngày 30 tháng 4 đầu tiên ở ngoài xã hội của tôi tại Sài Gòn chính là ngày 30 tháng 4, 1989. Từ trại cải tạo được thả về cuối 1988, tôi được ăn cái Tết đầu tiên không phải ở trong trại tù năm 1989, và vài tháng sau trải qua ngày 30 tháng 4 không phải bị cùm trong nhà kỷ luật. Từ năm 1978 cho đến mãi 1985, không ngày 30 tháng 4 nào là tôi không cùng một số bạn tù khác có tên trong sổ đen của trại giam và bị “mời” vô nhà kỷ luật từ ngày 28 tháng 4 vì họ sợ chúng tôi làm mất trật tự trong trại giam. Chúng tôi có khi bị giam đến hết tháng 5 mới được thả về trại giam chung. Nhưng từ 1980 cho đến hết 1985, họ giữ tôi luôn ở trong biệt giam cá nhân cho “tiện bề sổ sách.”

Năm tôi được tạm tha, theo giải thích của Vinh “thùng rác,” công an khu vực, với thời gian quản chế (quản thúc tại gia) là 5 năm vào cuối năm 1988, năm mà Sài Gòn mới ở những bước đầu hồi sinh, việc có được một việc làm tay chân để mưu sinh không còn khó khăn nữa. Mấy tháng đầu khi trở về, lệnh quản chế còn khắt khe, Vinh “thùng rác” hay ghé qua nhà nhắc nhở tôi: “Này đừng có mà tìm cách trốn ra nước ngoài đấy nhé. Lần này chúng nó mà tóm được ông là án gấp đôi đấy.”

Nói thì nói vậy, nhưng Vinh “thùng rác,” vợ và 6 đứa con không thể sống bằng lương thượng úy, nên anh ta cũng cần “vun quen cá nhân” qua việc thu hụi chết các gia đình sản xuất hàng hóa lậu trong khu vực. Dần dà, tôi không còn phải trình diện công an khu vực hàng tuần nữa. Ngược lại, Vinh “thùng rác” phát cho tôi một cuốn sổ ghi số trang và dặn tôi đi đâu thì phải ghi ngày giờ và nơi đến, gặp những ai, sau đó cứ 3 tháng nộp một lần để anh ta xem, ký tên và đóng dấu. Tôi biết đây là “mưu sâu” của đám công an nên tốt nhất là giới hạn gặp bạn bè hay bà con vì nghĩ mình có thể gây phiền hà những người muốn gặp. Cho đến khi tôi đã ngồi lên yên chiếc xích lô để kiếm ăn hàng ngày thì Vinh “thùng rác” đã bắt đầu chán không muốn đọc sổ trình diện nên ra lệnh cho tôi trình diện nộp sổ một năm một lần.

Ngoài tình trạng quản chế do công an khu vực giám sát, một số thành phần tù cải tạo còn bị các cán bộ chính trị trong Mặt Trận Tổ Quốc “săn sóc” về mặt tinh thần. Ðiều này có nghĩa là hàng năm Mặt Trận Tổ Quốc quận Bình Thạnh cho người đến nhà tôi, năm nào cũng vào sáng 28 tháng 4 nói là mời tôi đi “tập huấn chính trị” tại phường từ ngày 29 tháng 4 cho đến hết ngày 2 tháng 5.

Tháng 4, 1989, tôi vẫn còn đang làm công việc cưa ván sàn cho một xưởng cưa ở Ngã Tư Bẩy Hiền để kiếm sống. Sáu giờ chiều về đến nhà, mẹ tôi đã đón ở cửa, đưa tôi một giấy mời và nói: “Trên phường họ lại mời tập huấn chính trị. Giấy nó đưa từ hồi sáng.” Tôi hơi giật mình tự hỏi không biết chuyện gì hay đây lại là trò mời đi học tập chính trị 10 ngày. Cơm nước xong, tôi chạy đến Vinh “thùng rác” và đưa giấy ra cho anh ta xem. Vinh cười cười rồi nói: “Chúng nó tập trung các ông lên phường để chẻ củi chứ chẳng có mẹ gì đâu. Năm nào chả vậy. Yên trí đi. Ðổi mới tư duy rồi.”

Cả đêm hôm đó tôi không ngủ được, chỉ mong sáng đến mau hơn. Mẹ tôi lo xa. Bà xếp sẵn cho tôi một túi xách gồm vài bộ quần áo, áo lạnh, khăn, kem và bàn chải đánh răng và một số thuốc âu dược cần thiết cảm cúm, tiêu chảy, kiết lỵ, sốt rét... Bà sợ tôi bị “mời” đi luôn. Buổi sáng 29 tháng 4, đúng 8 giờ sáng, tôi đã có mặt tại trụ sở phường, cách nhà tôi không xa lắm, nằm trên đường Chi Lăng. Có mặt cùng với tôi gồm 9 người khác, phần lớn cũng coi như mới được thả về dù trước tôi khoảng từ 4 đến 6 tháng.

Chúng tôi được dẫn vào một căn phòng phía sau trụ sở phường, trên sàn trải 10 chiếc chiếu y chang một phòng giam. Phân phối chỗ ngủ xong, một cán bộ phường dẫn chúng tôi ra ngoài sân xếp hàng. Lát sau, một người ăn mặc thường phục đến tự xưng tên Phinh, cán bộ khoa giáo của Mặt Trận Tổ Quốc. Ông ta nói: “Tôi được lệnh tập trung các anh ở đây để giữ an ninh cho các anh. Ðến nay đã 14 năm rồi, nhưng nhân dân còn giận các anh, họ có thể hành hung các anh trong những ngày này. Tốt nhất là các anh nên ở tạm đây vài ngày rồi về...” Sau đó ông ta nói tràng giang đại hải về chính sách hòa hợp hòa giải rồi dẫn chúng tôi sang lán củi phía bên kia đường thuộc công ty đời sống của quận Bình Thạnh.

Mỗi chúng tôi được phân một thước khối củi để “để lao động xã hội chủ nghĩa.” Anh chàng coi lán củi còn rất trẻ khoảng 20 tuổi phát cho chúng tôi mỗi người một cái rìu rồi nói: “Mấy anh để em chỉ rồi mới làm được. Bổ củi không thể chỉ dùng sức mà còn dùng trí.” Nói xong anh ta để một khúc gỗ lên cái đe cũng bằng gỗ. Anh giơ rìu lên và bổ từ ngoài vào trong khá nhanh và đều. Chỉ thoáng một cái, khúc gỗ đã biến mất, chẳng có điều gì phải sử dụng đến trí cả. Ðây là công việc cần người có sức không cần người có đầu óc.

Tôi được phân phối một thước khối các khúc củi đã chẻ đôi rồi. Chỉ cần chẻ đôi một lần nữa là xong. Có lẽ anh chàng chủ lán củi này thấy tôi cao nhòng, gầy và xanh nên giao cho tôi công việc nhẹ hơn chăng. Chẻ củi đến 12 giờ trưa thì nghỉ ăn trưa. Lau xong mồ hôi và thay được cái áo ướt đẫm, tôi đã thấy mẹ tôi tất tả xách gà men cơm đến. Bà muốn biết chắc xem là tôi còn ở phường không hay là bị đưa đi rồi.

Sau khi nghe kể, bà mới yên tâm. Rồi bà quay sang nói với Tiên, chủ lán củi, rằng: “Con giúp bác, đừng bắt anh làm việc nặng quá, mới về chưa lại sức đâu.” Tiên nhỏ nhẹ, nhưng mau mắn: “Bác yên tâm, con biết mà.” Sau đó tôi thấy lần lượt các người vợ và mẹ của mấy bạn tù với tôi cũng đến đưa cơm trưa. Trong bữa cơm, vợ của một người tù, tóc đã bạc hai bên thái dương, nói lớn để mọi người đều nghe: “Anh ráng cải tạo đi đừng chống lại nhà nước, chỉ khổ vào thân, nghe em đi...” Tôi không thấy Chín nói gì. Anh chỉ lặng lẽ ngồi ăn. Sau khi ăn xong, hớp một hớp nước trà do vợ mang cho, Chín nói: “Anh biết mà, khỏi cần dặn, ra ngoài này vẫn tù mà.” Cơm trưa xong, chúng tôi còn nửa tiếng đồng hồ để nghỉ trưa. Tôi và Chín ngồi trong một góc lán củi, hút thuốc lào bằng chiếc điếu bát do Tiên cho mượn.

Chín mời tôi một bi thuốc Cái Sắn và nói: “Ông hút thử. Thứ này buông điếu mới phê.”

Trong câu chuyện suốt thời gian bị cầm chân ở phường, tôi mới được biết Chín không phải là sĩ quan mà chỉ đi theo mặt trận Vinh Sơn, rồi theo Phục Quốc. Anh bị bắt và bị một “tòa án nhân dân” kết án 12 năm tù. Ở đúng 12 năm mới được thả. Chín hỏi: “Bao giờ đi?” “Ði đâu?” “Thì đi Mỹ chứ đi đâu, ngoài họ đồn dữ lắm.” “Tôi cũng chẳng hiểu, ăn nay biết nay, ăn mai biết mai thôi.” Chín nói: “Tôi làm công chức ở Bộ Tài Chánh. Tháng 8, 1975, theo Phục Quốc. Bị tóm ở Trảng Bom. Chúng lôi ra xử ở huyện Thống Nhất và bóc 12 cuốn. Cũng ngon lành, nhưng hết mẹ nó cả đời rồi.”

Do không muốn phải chui vào phòng “giam” phía sau trụ sở phường sớm, tôi và các bạn tù nhẩn nha bổ củi đến 6 giờ chiều thì xong chỉ tiêu. Ông Phinh lại xuất hiện dẫn chúng tôi về phường giao cho vệ binh: “Tôi giao lại đủ 10 người đấy nhé. Nói cho họ biết chỉ được di chuyển khu vực phía sau này, không được ra trước.” Sau khi tắm rửa xong, chúng tôi cắt cử người theo một vệ binh đi lãnh cơm ở bếp tập thể của phường đội gồm cơm, canh và cá kho. Mang về tới phòng thay vì chia như ở trong trại giam, chúng tôi ngồi ăn chung, nói chuyện và tìm hiểu về nhau. Có điều lạ là 10 người chúng tôi đều ở khác trại giam và cũng nhờ có buổi gặp gỡ này, tôi mới biết rằng, trên khắp đất nước, ngoài những trại nghe tên quen thuộc như Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Nam Hà, Sơn Tây, Thanh Cẩm, Thanh Chương, Nghệ Tĩnh, Z-30A, Z-30D... còn có những cái tên nghe lạ hoắc nào là Bố Lá, Nhà Ðỏ, Kinh 5, Bình Ðiền, Bù Gia Mập, Kà Tum, Trảng Lớn. Có lẽ là từ Bắc vào Nam không có thành phố nào là không vài ba trại tù.

Ðến 8 giờ tối, chúng tôi lại phải ngồi đồng nghe ông Phinh “giảng” chính trị. Ông lại nói về hòa hợp hòa giải. Hết hòa hợp hòa giải ông quay lại bản Hiệp Ðịnh Paris 1973. Hết hiệp định Paris, ông tương thêm Hiệp Ðịnh Geneva 1954. Trong lúc ông Phinh say sưa, Chín ghé tai tôi: “Mẹ kiếp, điệu này nó dám tiến tới cuộc cách mạng 1789 lắm à nhen. Dám 2 giờ khuya mới cho đi ngủ.” Nhưng hú vía, ông Phinh chấm dứt bài nói chuyện lúc 12 giờ 30 khuya, nghĩa là ông nói suốt 4 giờ 30 phút.

Câu chuyện thường ngày ở phường của chúng tôi tiếp tục ngày sang ngày 1 tháng 5 và cho đến chiều ngày 2 tháng 5, chúng tôi được thả cho về trước khi tổng kết thành quả của nghĩa vụ “lao động xã hội chủ nghĩa:“ Chẻ 30 thước khối củi, mỗi người ăn 3 bữa cơm trưa do mẹ hay vợ cung cấp, 10 người ăn 2 bữa tối của bếp tập thể phường đội, được nghe ông Phinh nói 9 tiếng đồng hồ toàn là đề tài hòa hợp hòa giải và cách mạng, nhưng chúng tôi chỉ nhớ được có mấy câu cuối cùng: “Ðề nghị các anh ngủ sớm để có sức ngày mai tiếp tục lao động xã hội chủ nghĩa.

Về tới nhà, mẹ tôi hỏi ngay: “Tập huấn chính trị, con có nói gì không con?” Tôi nói “Không mẹ, chỉ có họ nói thôi.” Mẹ tôi cười: “Tốt, như thế là con có thể sống được ở cái xã hội khốn kiếp này rồi. Tao lo lắm. Muốn yên thân ở đây thì phải biết tự làm cho mình điếc, mù và câm.”

Anh cả tôi còn lo xa hơn mẹ tôi nhiều. Anh nói với mẹ: “Thôi để con chở nó đi ăn cơm ở Bà Cả Ðọi, rồi xuống nhà thằng Hảo ngủ đêm nay và mai. Ðể xem chúng có đến nhà bắt nguội không. Nhỡ thằng này lại bướng nói gì đó chúng để ý lại đâm phiền ra.”

Hai tối sau đó, tôi không ngủ ở nhà dù ngày 30 tháng 4, 1989 đã qua đi. Anh cả tôi đến đón tôi vào trưa ngày 4 tháng 4, 1989 sau khi anh được Vinh “thùng rác” cho biết không ai trong số 10 người chúng tôi bị ghi hồ sơ gì cả. Vinh “thùng rác” bán tin này cho anh cả tôi với giá một bao thuốc lá 3 số. (V.A.)


(Nguồn:  http://www.vietherald.com)

Lính thiết giáp Hải “bầu”






Vũ Ánh 
(04/24/2010)

Người trong hình là Hải “bầu,” một cựu binh thiết giáp thuộc đơn vị xe tăng M-48 đầu tiên của quân lực VNCH. Khi anh được chuyển đến trại Xuân Phước A-20, một trại tù nằm trong một thung lũng mà chúng tôi tự mệnh danh là Thung Lũng Tử Thần, tôi nghe các bạn bè gọi anh là “Bầu.” Còn tại sao họ lại gọi anh là “bầu” thì thực tình cho tới nay, tôi cũng không hỏi Hải. Tôi còn không nhớ cả họ của anh nữa dù chỗ anh làm cách tòa soạn tôi không bao xa và tôi có số điện thoại di động của anh. Tôi cứ muốn gọi Hải là Hải “bầu” để giữ mãi được tình thân mật, những kỷ niệm sống, chết bên nhau trong một giai đoạn mà chúng tôi thường gọi đùa là “đỉnh cao của giỡn mặt với tử thần” và để phân biệt với một cựu sĩ quan khác cũng trong số anh em chúng tôi là Hải “cà,” can đảm, trực tính, đàn hát, vẽ, làm thơ rất hay và khi hát không “cà” chút nào cả. Hải “cà” cũng có nhiều bài thơ và vẽ minh họa cho tờ Hợp Ðoàn.


Vì Thế Tôi Ra Đi




Bước chân xuống thuyền
coi như ngồi vào chiếu bạc
một còn một mất
tôi đặt cả cuộc đời mình
có thể lát nữa đây tôi sẽ lênh đênh
trên biển cả
hướng về một bến bờ xa lạ
tìm lại cuộc đời
có thể chỉ lát nữa đây thôi
tôi sẽ thấy mình nằm trong ngục tối
chân bị cùm tay bị trói
bắt đầu chuỗi ngày tra tấn tù đày
nhưng tôi tin
            con người có rủi có may
tôi cũng tin
            người ngay trời không nỡ phụ
nên nhìn lại lần cuối
            những đường xưa phố cũ
tôi bước đi
            lòng xao xuyến bồi hồi
ôi tổ quốc bất hạnh của tôi
giải đất hình chữ S
mà trên ấy tôi yêu tha thiết
từng nắm đất ngọn cỏ con nguời
đến những dòng sông lững lờ trôi
bảo sao lúc thuyền ra khơi
            tôi chẳng rơi nước mắt
giá ngay ở đây
      tôi được cầm súng
                  một còn một mất
với quân thù
thì dù ở bên kia trái đất
có phú quý vinh hoa tôi vẫn chối từ 
ngày mai trên nước Mỹ tự do
nếu có ai hỏi
“Cần giúp đỡ gì ?” tôi sẽ nói
“Hãy cho tôi một chỗ đứng trong đoàn quân
tiến về Sài Gòn
bút của tôi chưa mòn
tôi cũng một thời cầm súng
tôi sẽ xông vào chiến trận
với cả hai thứ vũ khí trên tay “ 
trước mắt tôi
      giữa trời Sài Gòn phất phới bay
cờ vàng ba sọc đỏ
có bao người thân
            mặt mày rạng rỡ
đứng đón tôi về
và tôi lại buông súng
            viết tiếp những vần thơ
ngợi ca cuộc sống

Phạm Đức Nhì 





29.4.10

Tiếp Những Bước Chân



Viết nhân ngày giỗ đầu của 7 anh hùng đội 14, trại A 20 Xuân Phước
Bài này được chính tác giả diễn đọc trong 5 buổi văn nghệ tại 5 nhà giam 1, 2, 3, 4, 5
Trại A 20 Xuân Phước nhân dịp tết Canh Thân 1980 (đầu năm 1981)


Hỡi những con người dũng cảm
Hôm nay anh em, bè bạn
Kỷ niệm một năm
Ngày các anh
Đã ghi một điểm son vào trang sử đấu tranh
Trong ngục tù cộng sản

Làm sao chúng tôi quên được các anh
Và buổi chiều hôm đó
Tháng 11 miền trung trời lộng gió
Dáng các anh lam lũ, hiền lành
Tên công an võ trang đang thả hồn vào một khoảng trời xanh
Có biết đâu
Các anh chợt biến thành sư tử
Lao thẳng tới quân thù
Chiếc nón cối vàng biểu tượng của ngục tù
Cùng với xác tên công an đổ xuống
Khẩu AK liền trở thành bầu bạn
Theo các anh trên mỗi bước tự do
Bỏ lại sau lưng quân thù điên vì tức giận
Và đồng đội mừng vui đến độ sững sờ
Đêm ấy trời đổ mưa
Giữa núi rừng rét mướt
Vẫn lầm lũi bay đi
Bảy cánh chim phiêu bạt

Ngày lại ngày trôi qua chậm chạp
Không bị đưa đi hành xác
Chúng tôi thơ thẩn trước sân
Hướng về xa tít cánh rừng
Chờ tin các anh

Rồi tin vui vọng về
Hạ thêm quân thù trên đường vượt thoát
Tên xã trưởng mang nhiều tội ác
Với dân lành
Đền tội trước các anh
Thêm khẩu K54 theo làm bạn đồng hành
Chúng tôi nửa mừng, nửa lo nhưng vẫn đầy hy vọng
Các anh sẽ thành công trong việc đi tìm lẽ sống
Và những mơ uớc rất người
Cho riêng mình và cho cả cuộc đời

Nhưng tin lại về như sét đánh ngang tai
Ruột chúng tôi thắt lại
Các anh hùng tưởng sẽ còn đi mãi
Đã phải mang số phận đau thương
Ngã xuống sau một trận chiến kinh hồn
Với quân thù đông hơn gấp bội
Hơn 5 năm trong ngục tù lặn lội
Các anh mới làm chủ được đời mình
Vỏn vẹn 13 ngày ngang dọc tung hoành
Rồi trở về với đất trong tư thế người chiến sĩ
Để lại tiếc thương cho cha, cho mẹ
Cho anh em, đồng đội bạn bè
Ôi ! Biết tìm ở đâu và biết lấy những gì
Để bù đắp nỗi đau buồn mất mát
Cho cái chết
Của những anh hùng

Nằm bên nhau giữa núi rừng
Chắc các anh cũng biết
Tổ quốc chúng mình bây giờ
Cả cây lúa, cây ngô
Cũng khao khát được tự do
phất phơ trong gió
Mà không bị những đôi mắt từ đâu đó
Nhìn soi mói từng phút từng giờ
Mới ngậm sữa đã lăm le chờ thu thuế
Người dân Việt mình hôm nay
Khổ đau đã hằn trên mặt
Thấm vào thịt da
Tràn ra khoé mắt
Và trong cả nụ cuời
Những niềm tin ở một ngày mai
Vẫn rực sáng trong lòng người đi tới
Bởi mặt đất giờ vẫn còn nóng hổi
Máu xương các anh vẫn đốt lửa căm thù
Vẫn khao khát mang tự do
ấm no
Hạnh phúc
Cho mấy mươi triệu người đang cùng cực
Dưới vuốt nanh lũ quỷ đỏ hung tàn
Thôi hãy nằm yên
Dưới lòng đất mẹ
Để lắng nghe những bước chân tuổi trẻ
Của chúng tôi đồng đội các anh
Trong tim cũng mang niềm khao khát chân thành
Niềm khao khát của các anh
Vững vàng đi tới

Phạm Đức Nhì

Tập Vẽ



Thuở bé thầy giáo thường khen em
Có hoa tay vẽ nhanh vẽ đẹp
Chỉ cần vài nét
Là có hình người, muông thú, cỏ hoa
Thế mà suốt mấy năm qua
Em luôn bị điểm hai môn vẽ
Chăm chỉ miệt mài tính em vẫn thế
Chứ có đâu biếng nhác ươn hèn

Nhớ hôm vẽ cờ búa liềm
Em đã ngắm kỹ từng đường cong nét thẳng
Em cung ướm thử từng đoạn dài đoạn ngắn
Nhưng đến hết giờ
                    em vẽ cũng vẫn sai
Đưa lưng cho thầy quất mấy roi
Em ngỡ liềm cứa thịt da em rách
Thước kẻ thầy đánh vào tay
Em tưởng búa đập xương em dập nát

Một hôm khác
Lớp em vẽ hình Lê Nin
Em hết nhìn thẳng lại nhìn nghiêng
Để ý từ chòm râu sóng mũi
Nhưng lạ chưa ?
                     Lê Nin của em vào cuối buổi
Trông cứ như đang múa vuốt nhe nanh
Xem bài em thầy giáo giật mình
Đánh em ngã lăn giữa lớp

Hôm vẽ bác Hồ lòng em hồi hộp
Thầy đứng bên em chẳng phút nào rời
Thầy nhắc em bác nhân đức yêu người
Thầy sánh bác với vua Hùng dựng nước
Em cố vẽ theo lời thầy
                     nhưng không sao vẽ được
Tay chén chè tầu tay ly ruợu vốt-ka
Bác Hồ của em trông gian ác điêu ngoa
Em lại bị thêm trận đòn tím bầm thân thể

Tấm bản đồ Việt Nam
                     một hôm em đang vẽ
Này biển này sông
                     này rừng núi ruộng vườn
Này những thành phố quê hương
Em để hết tâm hồn vào trang giấy nhỏ
Thầy đứng sau lưng
                     cầm cây cọ đỏ
Bôi kín tấm bản đồ tổ quốc em yêu
Đỏ nước đỏ cây
                     đỏ những đê điều
Đỏ đất đỏ nhà
                     đỏ cả những con đường xe chạy

Em bỏ ngôi trường làng
                      ra đi từ dạo ấy
Lang thang như một khách giang hồ
Ôi nhớ làm sao
                       những lần tập vẽ ngày xưa
Ồ! Giá trường em lại có thầy giáo mới
Em sẽ chạy về ngay
                      không để lỡ một ngày, một buổi
Ngồi vào hàng ghế ngày xưa
Thầy dậy những câu hát mẹ ru
Còn em háo hức chờ đến giờ tập vẽ

Phạm Đức Nhì

26.4.10

Khóc Thục Vũ




Hoài niệm Vũ Văn Sâm (Thục Vũ)
chết trong trại tù Sơn La, ngày 16-11-1976





                               Chân dung Thục Vũ

Anh Ở Đây_Thục Vũ_ Đoàn Chính



Chiều Nghệ Tĩnh, trời mây ảm đạm
Nghe hung tin xúc cảm, bồi hồi
Thương thay, Thục Vũ lìa đời
Hồn linh thiêng có ngậm cười thiên thu ?
Xót tình bạn giao du từ nhỏ
Thương người về, lệ rỏ, lòng đau
Sâm ơi, ngày ấy xa nhau *
Dặm dài xuôi ngược, con tầu chia xa
Đường đôi ngả, Sơn La, Yên Bái
Đâu có ngờ, mãi mãi biệt ly
Xót thay sống gửi, thác về
Trăng soi lạnh đất, sương che kín trời
Trong tâm thức rụng rời, xao động
Đê mê cuồng gió lộng chơi vơi
Từ đây thôi nhé, Sâm ơi !
Đành thôi vĩnh viễn xa người bạn xưa

........................................... 

Người về cõi hư vô bằn bặt
Tiếng búa đinh gõ nắp quan tài
Nợ non sông, trả hình hài
Bụi trần rũ sạch, mây trời lãng du
Thương nghệ sĩ, mưa thu lã chã 
Khóc chinh nhân, nắng hạ bùi ngùi
Hồi chuông chiêu niệm buông lơi
Trầm hương mờ ảo, ngút trời khói bay
Xa tiền kiếp, đọa đầy cay đắng
Cát bụi bay, lãng đãng về nguồn
Hai hàng bạch lạp chập chờn 
Nửa khuya gió thoảng, anh hồn lung linh
Ôi ! Một kiếp phù sinh lận đận
Chết tha hương, thân phận bọt bèo
Chênh vênh giấc ngủ lưng đồi 
Một vùng huyệt lạnh, trăng soi lạnh lùng ...
Ta thương bạn nửa đời gục ngã
Bao giấc mơ dang dở chưa thành
Sâm ơi, sự nghiệp, công danh
Tình yêu, hoài bão, tan tành khói sương
Từ đây nhé, âm dương biền biệt
Nẻo hương quan, mờ mịt ngàn khơi
Đèo Ban yên giấc đời đời
Mồ hoang lạnh lẽo, ai người khói hương
Hồn phảng phất cầu sương quán gió
Phách vật vờ ngọn cỏ bờ lau
Nỗi niềm tưởng đến mai sau
Chặng đường biệt xứ, khổ đau còn dài
Ta ở lại thương người đi trước
Thắp nén hương lòng, nước mắt rơi
Sâm ơi, khóc bạn lìa đời
Rồi đây nằm xuống, ai người khóc ta? 

Vũ Đức Nghiêm
(Trại Tù Nghệ Tĩnh 6,
Tháng 10-1978)




(* Sâm: Nguyễn Văn Sâm, tên thật của Thục Vũ)







Địa Ngục Có Thật


Tiểu Luận của Nguyễn Quang



-->TÂM LÝ THẦN KINH CỦA CÁC TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM
(ÁN TRÊN MƯỜI NĂM TRONG NHÀ TÙ CỘNG SẢN VIỆT NAM)


LTS: Quán lá A 20 mời anh em vào đây xem nhận định của Nguyễn- Quang về những hội chứng tâm thần của những tù nhân, dưới cái nhìn của một người từng ở trại A 20 đứng trên quan điểm bệnh chứng học


(……Trích đoạn….)

6. Các hội chứng căng trương lực gồm hai dạng đối lập nhau:

- Kích động căn trương lực: Thoạt tiên người bệnh hưng phấn, nói huyên thiên nhưng nội dung không mạch lạc vô nghĩa, tư duy ngắt quãng. Người bệnh có hành động không tự nhiên, xung động, nhiều khi chống đối một cách vô nghĩa.


Cụ thể: Cho họ ăn thì lại quay lưng đi, nhưng khi mang thức ăn đi thì họ lại đòi cầm lấy. Trong trường hợp này đối với các tù nhân gọi là bệnh sĩ diện, họ luôn cố giữ một khoảng cách gọi là giữ nhân cách của người tù chính trị, hay giữ thể diện cho tổ chức, đoàn thể, tôn giáo.v.v… Những con người đã từng vang bóng một thời và nay:


Chiếc lồng nhỏ giam đời bé nhỏ
Cõi ngồi mơ là dấu chấm than

(Thơ Phan Nhự Thức.)

Cụ thể: Người bệnh hay cười vô duyên cớ, có khi mỉm cười mà lại chảy nước mắt. Rất thường gặp ở một số tù nhân, những người này cũng thuộc nhóm dễ xúc cảm trước các tình huống.


Em về chẻ tóc làm đôi
Thay dây mà nối nhịp cầu tri âm
Cho dù tóc trổ hoa râm
Chén đời mật đắng tơ tằm vẫn se

(Hướng Dương Vũ Đình Thụy)