Vĩnh Biệt Vũ Ánh


Nhà báo Vũ Ánh, cựu chủ bút Nhật báo Người Việt, qua đời

Friday, March 14, 2014 7:40:50 PM





QUẬN CAM 14-3 (NV) - Nhà báo Vũ Ánh, cựu chủ bút Nhật báo Người Việt, vừa đột ngột qua đời tại tư gia ở quận Cam, California, vào trưa ngày Thứ Sáu, 14 tháng Ba, 2014, thọ 73 tuổi.

Hiền thê của ông, bà Yến Tuyết, xác nhận tin này.

Nhà báo Vũ Ánh sinh ngày 5 tháng Năm, 1941 tại Hải Phòng. Ông là nhà báo kỳ cựu của làng báo Việt Nam trước 1975 cũng như tại Quận Cam từ khi ông sang Mỹ theo diện H.O. vào năm 1992 sau 13 năm bị giam cầm trong các nhà tù tại Việt Nam.

Thời Việt Nam Cộng Hòa, ông tham gia hệ thống truyền thanh quốc gia vào năm 1964, lúc 23 tuổi.
Ông đi lên từ vai trò phóng viên chiến trường, làm trưởng Phòng Bình Luận, và trở thành Chánh Sở Thời Sự, bộ phận quan trọng bậc nhất của Đài phát thanh Sài Gòn.

Vũ Ánh là một trong số ít các nhà báo chứng kiến những giây phút cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa vào trưa ngày 30 tháng Tư, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh  tuyên bố đầu hàng trên Đài Phát Thanh Sài Gòn.

Ông là người viết tin nhanh, gọn, dễ hiểu - những yếu tố quan trọng của truyền thông đại chúng. Ông cũng có tài viết bình luận và nhận định thời sự nhờ theo dõi sát các diễn biến thời cuộc hàng ngày.

Sau khi miền Nam sụp đổ, ông bị bắt đi tù “cải tạo” 13 năm. Trong lúc ở tù, ông làm tờ báo “chui” có tên Hợp Đoàn. Vì hoạt động này, ông bị cùm biệt giam với tổng thời gian đến sáu năm.

Ra tù, ông làm nhiều nghề khác nhau tại Sài Gòn, từ xẻ gỗ, dạy Anh Văn, cho đến đạp xích lô.
Ông sang Mỹ định cư theo diện H.O. vào năm 1992.

Định cư tại Hoa Kỳ, ông làm việc cho nhiều cơ quan truyền thông khác nhau. Ông từng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang sáng lập.

Khi làm việc tại nhật báo Người Việt, ông đảm nhiệm vị trí Tổng Thư Ký, sau đó là Chủ Bút, trong nhiều năm. Ngoài ra, ông từng cộng tác và là trụ cột của nhiều cơ quan truyền thông Việt ngữ tại Quận Cam, trong đó có nhật báo Việt Herald, đài phát thanh VNCR, đài truyền hình SBTN.

Những năm cuối đời, ông cộng tác và đặc biệt nâng đỡ tuần báo “Sống,” do một số nhà báo trẻ chủ trương. Cuộc hẹn hàng tuần của ông để ăn trưa cùng các đồng sự tại “Sống” đã không thể diễn ra.

Vũ Ánh là một nhà báo yêu nghề và say mê với công việc. Ông qua đời tại phòng làm việc tại tư gia; bài báo cuối cùng của ông mang tựa đề "Hà Nội vẫn chưa đủ niềm tin cởi trói báo chí," được gởi đến Nhật Báo Người Việt lúc 11:37 phút sáng của ngày cuối cùng trong cuộc sống ông. Bài báo được đăng trong trang A1 của số báo hôm nay, trên mục “Sổ Tay” hàng tuần.

Nhà báo Vũ Ánh là người cương trực nhưng rất thân thiện với đồng nghiệp, bằng hữu, và có tinh thần nâng đỡ đồng nghiệp trẻ tuổi.

Ông cũng là một nhà báo chống Cộng triệt để theo cách suy nghĩ và quan điểm độc lập của riêng mình. 
(N.T. & Đ.B.)

(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/)


                                      ****************************************** 



Vài dòng về Vũ Ánh –

Tên thật là Vũ Văn Ánh, sinh năm 1941, còn có bút hiệu khác là Vũ Huy Thục. Trước năm 1975, từ 1964 phục vụ tại Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia đến sáng ngày 30-4-1975, với các chức vụ: phóng viên mặt trận 7 năm, rồi trưởng phòng Bình Luận, Chánh Sự Vụ Sở Thời sự Quốc tế và Quốc nội cho đến 10 giờ sáng 30-4-1975.

Ngoài ra, tác giả còn cộng tác với các nhật báo Dân Ý, Báo Đen và Sóng Thần vào những năm chiến tranh.

Sau 30-4-1975. Vũ Ánh không trình diện, anh tham gia lực lượng nổi dậy vào rừng tiếp tục chiến đấu, bị bắt và đi tù cải tạo dưới chế độ cộng sản 13 năm.
Qua các trại giam: Chí Hoà, T20, Z30C, A20, Z30A...

Trong thời gian này bị nằm “chuồng cọp” mất 6 năm vì chống lại chế độ lao tù và làm tờ Hợp Đoàn (báo chui trong trại giam).

Được thả về gia đình với 5 năm quản chế, mưu sinh bằng nhiều nghề: Đạp xích lô, dạy học, làm phu… cho đến khi được định cư ở Mỹ theo diện HO năm 1992.

Sang Mỹ, tác giả trở lại nghề báo và truyền thông:

- Nhật báo Viễn Đông Kinh Tế Thời Báo (TTK)
- Nhật Báo Người Việt (TTK và Chủ Bút),
- Nhật báo Việt Herald.
- Đồng sáng lập đài Văn Nghệ Truyền Thanh (VNTT)
- Việt Nam California Radio (VNCR) và làm việc ở đó 10 năm,
- Đài Truyền Hình SBTN
- Tuần báo Sống (Cố vấn Biên tập).


Vũ Ánh ra đi lúc 17g ngày 14-03-2014 tại Garden Grove, CA.

(Quán Lá A20)


                                                     ****************








                               ************************************





*********************************** 


Lễ an táng A20 Vũ Ánh 

Tại nhà quàn Peek Family Funeral, Westminster, CA.
Chiều Chủ Nhật 23-3-2014. 





(Nguồn: www.nguoi-viet.com/)

********************************


****************************************

************************************
A20 Bùi Đạt Trung thay mặt gia đình Trại Trừng Giới đọc điếu văn
*****************************

A20 Nhan Hữu Hậu thay mặt anh em Trại Trừng Giới chia buồn cùng Vũ Ánh phu nhân

                                      ****************************** 


                               Thư viết cho chồng




1975-1992

Anh, “Dựa lưng nỗi chết”*
Vẫn còn giữ nụ cười.
Em, trôi giòng đời bạc
Nước mắt lúc đầy vơi.
Hồn bạt ngàn gió núi,
Tình ngỡ tan mù sương...
Trong mộng ảo và thực,
Em nhìn Anh, rưng rưng.
Trên còn đường ta đi
Mùa xuân qua rất chậm
Thôi không còn chia ly
Dù muộn màng số phận.



1992-2014

Anh, tấm lòng bao dung
Em, cảm ơn hạnh phúc
Những niềm đau lắng xuống
Trong khu vườn tình yêu.
Từ quá khứ nghiệt ngã
Anh bước ra nhẹ nhàng
Viết và yêu chữ nghĩa
Đến hơi thở cuối cùng.
Đêm mùa xuân trăng sáng
Em nhớ nụ cười anh
Tha thứ và ấm áp
Ôm mãi hoài đời em.

Yến Tuyết
(A20 Vũ Văn Ánh phu nhân)

* Đề tài 1 cuốn sách của Phan Nhật Nam.

(Nguồn: http://songnews.net/)




********************************** 



Vĩnh biệt Vũ Ánh





Anh từng hứa về thăm trại cũ
lên đồi vĩnh biệt đốt một nén nhang
sao đành đi lúc chiều chưa tàn
mà khăn gói vẫn đầy nguyên kiếp nạn

Nhớ xưa
dưới cái nóng hạ Lào cháy khô thung lũng
cùm chữ U máu mủ ứa cổ chân
anh hiên ngang gõ sắt mà ca
trên xiềng xích đọc vang bài Bắc Tiến

Sáu năm biệt giam
ba muỗng nước, ba muỗng cơm
chưa lần lung lay ý chí
một đời anh - một đời sĩ khí
bước thấp, bước cao cắn nhục mà đi
ngọn bút hiên ngang
thay làn tên mũi đạn
giữa trại thù nét mực chưa phai
bây giờ
tờ Hợp Đoàn để lại cho ai?

Vũ Ánh ơi!
trên sàn tù lạnh lẽo
áo lính sờn vai 
hơi thuốc thổi bay qua đồi vĩnh biệt
anh khóc cho thằng nằm lại bơ vơ
đã lỡ không được chết dưới cờ
lủi thủi như anh - lên đường ra trận
mười ba năm - nằm gai nếm mật
bây giờ - thôi đã trắng tay thua

Tiễn anh đi 
      - mười ba năm tù
      - sáu năm biệt giam
      - ba lát khoai khô
      - cõng mấy hạt cơm gạo mốc
một thời lẫm liệt
trước gông cùm kìm kẹp
còn ai ngồi nhắc, có ai thương ?

Vũ Ánh ơi!
con tằm già chết ở cuối đường tơ
Chí Hoà, T 20, Z30A, A20
những trại thù anh từng qua
lổn ngổn sau lưng 
vẫn còn đây bầy xiềng xích 
ôi! Trường Sơn có nghe chăng
giữa khuya đau lòng tiếng anh than
chí cả năm xưa - theo tới ngày tàn
trong thiên hạ ai chia bùi xẻ ngọt?

Và lớp lớp người đi - người đi trước
nợ nần gom đầy - chỉ một anh mang
lũ bọ dòi rút rỉa tan hoang
anh vẫn lồm cồm
một thân đứng dậy
mà thôi 
hãy quên đi những gì không đáng nhớ
cầm trên tay thanh kiếm gãy năm nào
về lại đây - trở lại đèo cao
đồi vĩnh biệt bạn bè vẫn đợi
cứ múa bút
         - cho ngày đang tới
         - cho Trường Sơn rung lá như xưa
         - cho Trà Bương lúc mưa là mưa
         - cho bút pháp đi vào thiên cổ
nhớ mà chi
một lần qua sông Dịch
lưỡi gươm cùn bỏ lại dưới trăng tan

Vũ Ánh ơi!
bài thơ xưa gởi anh ngày bóng xế
còn trên tay dù đã ố vàng
cứ cầm như - như một nén nhang
tiễn anh đi - dù xa ngàn dặm

A20 nguyễn thanh khiết
15-03-2014


                                  ***********************************


 “KHÓC BẠN” 

Một chút gì để nhớ để thương người chiến hữu, 
người bạn chiến đấu của chúng ta nơi Thung lũng Tử Thần A 20...!”

Thưa quý vị,

Giữa chốn đời thường,
Bon chen vất vả
Dòng đời cuốn hút …
Nào thấy lối ra ..!

Trong cõi trăm năm
Bể dâu định cuộc
Mây sầu ngun ngút trời cao,
Nghe tin bạn mình vừa khuất ...!

NHỚ LINH XƯA:

Thông minh trời phú
Chịu khó hơn người,
Bản lĩnh xông pha
Gần xa đều mến ..!

Một thời ngang dọc
Đi khắp chiến trường
Vung tay múa bút
Hạch tội Cộng nô…

Sau ngày mất nước
Tiếp tục đấu tranh
Thung lũng Tử Thần
Kiên Cường Bất Khuất…

Làm cha trọn phận 
Thủy chung chồng vợ,
Tình nghĩa bạn bè,
Anh em Chiến hữu ..!

CHỈ TIẾC RẰNG:

Nửa đời công bộc, 
Hết lòng phục vụ chính nghĩa quốc gia
Tha hương đất khách, 
Nghiệp xưa bút múa, không lúc nào quên ..!

THAN ÔI ..!

Vận nước nổi trôi
Người người ly tán
Nước mất nhà tan,
Vời trông cố quốc
Luống những chờ mong
Ngày về quê mẹ ..!

NÀO NGỜ …

Sinh hữu hạn, tử vô kỳ
Ngày sinh biết trước ngày về ai hay ..!?
Những tưởng đã hy sinh ngục tù mấy độ
Nào ngờ bạn ta sống thọ mới ra đi…

Sinh ký tử quy,
Sống gửi thác về nơi chín suối …
Giã từ cõi tạm,
Về với thiên thu ..!


MỚI HAY …

Xác thân tạm bợ
Tiền tài sắc dục …
Công danh hư ảo,
Một kiếp phù du ..!
Chừng nào mắt nhắm tay xuôi,
Thế gian từ tạ mới hay vô thường …!

Ô HÔ ..!

Con tạo xoay vần
Đất trời nghiêng ngả
Trăng buồn gió tủi xứ người
Lá thảm hoa hờn cố quốc …

THẾ MỚI HAY:

"Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy
Cõi phù du ai nấy cũng qua cầu …
Cuộc đời hư ảo gì đâu,
Chán chường mệt mỏi âu sầu riêng mang …

Nhân sinh một giấc mơ màng,
Tìm về cõi phúc thênh thang nhiệm mầu …
Biết rằng kẻ trước người sau ..!
Thế mà vẫn thấy buồn đau, đau buồn ..!

ÁNH ƠI,

Hôm nay …
giã biệt Ánh rồi,
Gia đình bè bạn …
nhớ hoài không quên ..!

Sống khôn …
hồn bạn có thiêng,
Về đây chứng giám 
nỗi niềm xót sa..!

Nam mô A Di Đà Phật.

PHẠM TRẦN
(A20 Phạm Trần Anh)



*****************************



Nén hương tưởng niệm



Một nén hương

Thắp cho anh 
Vũ văn Ánh 
A20 trừng giới năm nào
Trong gông cùm
Hầm tối biệt giam
Dù thân xác
Hao mòn,đói khát
Ngẫng cao đầu đối mặt
Loài dã thú thành người
Hành hạ anh từng ngày tháng
Chúng cố diệt 
Tinh thần người bất khuất
13 năm tù
6 năm biệt giam
Không dài, cũng chẳng ngắn 
Sống hiên ngang
Không gục đầu, không khuất phục
Vẫn một lòng bền dạ
Trước kẻ thù hiểm ác
Rồi năm tháng trôi qua
Trở về nơi chốn cũ
Bên mẹ già
Cùng đứa con thơ dại
Chiếc xích lô
Bạn đồng hành
Trong cuộc sống kẻ sĩ
Thế rồi
Đời viễn xứ
Tha phương đất khách
Tiếp bước hành trình
Tìm lại sân chơi
Vẫn biết kẻ còn,người mất
Với bạn bè dựng lại cuộc chơi
Bằng ngòi bút thay cho súng đạn
Mong một ngày
Quang phục lại quê hương
Mặc bao tiếng thị phi
Ghen ghét và đố kỵ
Vẫn tiếp tục 
Dấn thân vì lý tưởng 
Một buổi chiều thứ sáu
Ảm đạm đau buồn 
Đột ngột anh từ giã 
Bỏ bạn bè 
Bỏ cả người thân 
Gây bao niềm thương nhớ
22 năm dài 
Vắng mặt trên sân 
Khi biết được tin nhau
Chưa một lời thăm
Anh đã về
Nơi miền miên viễn 
Tôi không là thi sĩ
Chẳng phải là nhà văn
Chỉ biết ngồi ghi lại
Thay cho nén nhang buồn 
Tưởng niệm bạn tù cũ
Mong nơi chốn vĩnh hằng
Thanh thản và bình yên.


A20 Trương Mạnh Hùng



**************************

Vĩnh biệt chú Vũ Ánh!


Vừa kết thúc một cuộc phỏng vấn lúc 7 giờ tối thì nghe tin: chú Vũ Ánh qua đời!

What? Tôi sửng sốt.
Chạy vào phòng Biên Tập, thấy anh Thiện Giao. “Chú Ánh mới mất hả anh Giao?” – “Ừ, đang confirm tin này.”
Tôi thẫn thờ.
Dĩ nhiên ngay lúc đó không ai có thể gọi cho cô Yến Tuyết, vợ chú Vũ Ánh, được hết.

Chợt nhớ có thể gọi cho anh Ngô Văn Quy, anh trai cô Yến Tuyết. Nhưng 2, 3 lần gọi, anh tắt máy. Tôi bèn nhắn tin “Anh Quy gọi cho em gấp, tụi em muốn comfirm tin chú Vũ Ánh.”
Anh Quy gọi lại. Giọng đầy nước mắt. “Anh không thể ngờ được NL ơi!”
Ai mà ngờ được.

Tôi lái xe về nhà. Trong đầu là hình ảnh chú Vũ Ánh, người mà ngày còn làm thầy cò, tôi vẫn thường vào phòng chú xin tiền đi mua chè…
Vừa nhà đến nhà thì nhận được điện thoại của anh Vũ Đình Trọng. “Anh đang ở nhà chú Ánh.” – “Cho em nói chuyện với cô Yến Tuyết.”

Cô bắt phone, khóc òa “Chú mất rồi con ơi! Cô đi làm về khoảng 5 giờ, thấy chú nằm té trên sàn nhà trong phòng làm việc. Người chú lạnh ngắt… Cô gọi 911…
Tôi cùng ông xã chạy đến nhà cô. Có anh Trọng và chị Khánh Hòa bên tuần báo Sống ở đó.
Cô tựa vào vai ông xã tôi nức nở, “Chú mất rồi H ơi!”
Tôi ngồi bên nắm chắt bàn tay cô. Không biết nên nói một lời gì.

Chị Khánh Hòa và anh Trọng kể: từ lúc 11 giờ sáng nay có gọi điện thoại nhắc chú Ánh ra ăn trưa với báo “Sống” – như một bữa cơm thân mật hằng tuần. Chú Ánh đồng ý, nhưng nói sẽ ra trễ 15 phút.
11:37 am, anh Thiện Giao nhận được email bài chú Ánh gửi.
Khoảng hơn 12 giờ, mấy anh chị bên “Sống” gọi liên tục nhưng không thấy chú Ánh trả lời. Một điều rất lạ.
Chị Khánh Hòa bảo, “Đến 2 giờ vẫn không thấy anh Ánh trả lời, chị cứ nghĩ dại chắc anh Ánh bị xe đụng…”

Cô Yến Tuyết thất thần, “Sao cô không có một linh cảm gì hết! Ngoại trừ sáng nay đi làm, cô còn chọc chú về sự phát âm chữ n và l, cô chọc chú ‘đúng là người Hải Phòng’ rồi cô hôn lên má chú một cái, chú hôn lại cô. Và cô ra xe đi
Khi về đến nhà, thì… Ngày mai hy vọng kết quả giảo nghiệm tử thi sẽ cho biết chú mất vào lúc nào và vì lý do gì…

Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh buổi tối cuối cùng chú làm việc ở tòa soạn NV. Đó là một ngày căng thẳng liên quan đến chuyện “cái chậu rửa chân.”
Khi đó tôi vẫn hãy còn là một thầy cò. Tôi không được tham dự những cuộc họp của ban biên tập khi đó. Tôi chỉ nhớ, sau cuộc họp muộn ngày hôm đó, tôi bước ngang phòng chú, nhìn thấy chú thu dọn đồ đạc. Chú ngẩng lên nhìn tôi cười…
Một thời gian không lâu sau, chú mở một trang blog trên Yahoo! 360. Những thành viên có mặt trong friend list của chú chỉ vỏn vẹn có vài người, trong đó có tôi. Nếu tôi nhớ không lầm, blog đó của chú chỉ có khoảng 3 bài, 2 bài nói về những suy nghĩ của chú đối với những người đang biểu tình báo NV khi đó, và 1 bài chú viết về chuyện con chó chú nuôi bao năm qua vừa mới chết.
Và tôi nhớ, trong bài viết về con chó, chú bảo đó là lần đầu tiên chú khóc, sau khi khóc mẹ chú mất…

Tôi lại nhớ những lần tôi “gom tiền” đi mua chè. Tôi vào phòng chú, khi đó chú đang là chủ bút, còn tôi chỉ là một đứa mới vào làm công việc “thầy cò” không bao lâu, “Chú cho con tiền mua chè!” – Ờ, bao nhiêu?” – “Dạ, $5″ Chú móc túi đưa tiền… Tôi vẫn nhớ nhiều cô chú làm việc chung ngoài ban kỹ thuật lúc ấy hay nói “Con nhỏ này dám đi thu tiền luôn cả chú Ánh!” – “Ơ, mua cho mọi người cùng ăn, chứ có phải mình con ăn đâu. Sếp lớn phải đưa tiền nhiều hơn là đúng rồi!” Tôi nhớ mình trả lời như vậy…

Giờ thì chú đi rồi. Tôi sẽ không còn nhìn thấy nụ cười tươi rói của chú, cùng câu hỏi “Sao, công việc thế nào rồi? NL viết được lắm đấy!”

Mọi người sẽ nhớ chú lắm, chú ơi!

Ngọc Lan




****************

Thư của người đã ra đi…

Feb 4, 2008 

Chú ơi,

Con là Lan ở báo NV nè.
Chú khỏe không chú? Ði ngang phòng chú cứ thấy đèn tắt, cửa đóng im ỉm mà con cảm thấy buồn quá!

Việc xảy ra… thực sự con cũng không phải biết nói như thế nào. Mặc dù anh N. đã nói nhiều lần là không liên quan gì đến con, nhưng sao con vẫn cứ cảm thấy ray rứt.
Cả tuần rồi, cả con và T.C đều rơi vào trạng thái như thế nào đó… khó chịu lắm, chú ạ!
Con biết cả chú và anh N. đều buồn (mặc dù thế nào chú cũng sẽ nói ‘không có gì đâu!’).

Còn nhiều chuyện còn muốn nói với chú lắm, nhưng thôi, để khi khác vì bây giờ con cứ vừa gõ vừa khóc hoài lại ngại có người thấy…

Chú giữ gìn sức khỏe. Con mong là chú sẽ vẫn mãi là chú Vũ Ánh như từ ngày con bước chân vào làm việc.

Con,
NgocLan

  Feb 5, 2008  

Ngọc Lan thân, 

Ngọc Lan yên tâm. Từ hồi còn trẻ, chú đã trải qua khá nhiều lần nhận trách nhiệm khi những suy nghĩ của mình không phù hợp với đám đông. Nhưng chú biết rằng suy nghĩ của mình là đúng, là cởi mở và khoan dung. Chú càng phải trả cái giá nặng trong biến cố 30 Tháng Tư, chú càng thấy mình cần khoan dung đối với những ý kiến khác biệt. Chú rất thương và nâng đỡ những người trẻ tuổi, từ tưởng và việc làm khác hẳn nhiều người ở thế hệ chú trong tòa soạn. Chú cho rằng, khi đã là người Chủ Bút hay Tổng Thư Ký thì chỉ có quyền la mắng nhân viên, chỉ dẫn cho họ để sửa sai, nhưng phải nhận hết trách nhiệm cho họ chứ không được đổ lỗi cho người này người kia. 

Riêng đối với bức tranh trong bài “Mẹ Chồng Tôi” là một tác phẩm nghệ thuật, mọi người nhìn nó và  giải thích nó theo  các khác nhau. Chú thấy nó có ý nghĩa to lớn nhưng một số người trong cộng đồng lại không thấy như thế. Nếu chỉ là những tranh luận về vụ này một cách lịch sự và công bằng, những người không thích bức tranh sẽ khó thắng được chú. Lý do: chú là người yêu lá cờ ấy bằng tấm lòng của mình và đã đổ máu cho lá cờ ấy trong chiến tranh. Phía bên kia cũng vậy. Họ cũng có những người yêu lá cờ của họ bằng tấm lòng và cũng đã đổ máu vì lá cờ ấy. Vấn đề là không ai có quyền bắt ai phải theo một khuôn thước nào nhất định trong tư tưởng. Nếu khác biệt thì ngồi lại tìm cách giải quyết trong ôn hòa và hiểu biết. Nếu có những người nổi cơn thịnh nộ vì khác biệt tư tưởng thì là quyền của họ. 

Chú từ chức là vì chú không muốn vì suy nghĩ và việc chọn lựa bài Mẹ Chồng Tôi của chú làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh. Cháu biết rằng, có tới 50 người đã góp công làm thành tờ báo NV và đang hưởng tiền lương. Không phải vì sự chọn lựa của chú mà để cho những nhân viên này phải lo lắng, nếu họ cứ ngăn cản khách hàng đến quảng cáo. Chú từ nhiệm để cho ban điều hành rộng đường giải quyết vì sẽ chẳng có việc chú quì gối trước người biểu tình hay phản đối. Lời yêu cầu từ nhiệm là do chính chú đưa ra, không phải bị kỷ luật của Hội Đồng Quản Trị.Nếu tờ báo là của riêng chú thì sẽ chẳng bao giờ chú lùi bước trước bất công và vài chục người biểu tình. Năm nay NV in 10,000 báo Xuân, bán gần hết. Nhưng cháu thử xem sau khi có thông cáo trả báo, có bao nhiêu người đến trả. Cho nên cuối cùng, ưu tư của chú là trong suốt thời gian chú điều hành tờ NV có làm ai mất lòng vì hành động quan liêu của mình không, có bao giờ la rầy nhân viên tờ NV không. Nếu không thì đó là điều chú hãnh diện cho 40 năm làm việc trong ngành với biết bao thăng trầm đổi thay. 

Đừng emotion quá!… 

Chỉ mong rằng, các cháu là những người trẻ, lúc nào cũng phải can đảm và chính trực đối phó với những biến cố trong đời mình hay trong công việc hàng ngày. Không có sự chính trực và ngay thẳng, chắc chú đã không sống nổi suốt 14 năm tù dưới chế độ CS. Chiến tranh chấm dứt, chú không hề thù hận họ và không chấp nhận kiểu quản lý đất nước trong tình trạng người dân vẫn còn thiếu tự do dân chủ như hiện nay. Chú tranh đấu bằng ngòi bút, nói chuyện phải trái ôn tồn để tìm ra giải pháp chứ không chửi rủa, thù hận và cực đoan. 

Yên tâm đi, một ngày nào đó, các cháu sẽ thấy sự chọn lựa của chú là đúng, những người chống chú một cách hận thù là quá đáng. Vì thế cứ vui lên đi, không việc gì phải ưu tư nhiều về chuyện nhỏ trong một chuỗi biến cố lớn lao mà một đời người, ai cũng sẽ phải trải qua. Cám ơn cách cháu đã có suy nghĩ tốt cho chú. 

Chú, VU ANH

Feb 6, 2008 

Chú ơi,

Con rất vui khi nhận được email của chú.

Từ lâu, con đã đọc và đã học được từ con người chú rất nhiều qua những bài chú viết.
Chắc chú khó tin khi có một đứa từng vừa ngồi sửa morat vừa khóc trên những gì mà nó đọc được, phải không chú? Nhưng thực sự đã là như vậy.

Con cám ơn chú về những điều chú cho con biết cũng như nhắc nhở con.
Thôi, gác lại chuyện năm cũ.
Nhân dịp Tết đến, con kính chúc cô chú và gia đình được nhiều sức khỏe, mãi hạnh phúc, riêng chú lúc nào cũng cảm thấy yêu đời và lạc quan, chú há!

Con,
NgọcLan

May 1, 2008 

Thân gửi Ngọc Lan, 

Xin lỗi, đến nay chú mới trả lời thư chúc Tết vì cả ba tháng nay chú không đọc email vì phải để hết thời giờ dịch một tác phẩm bằng Anh ngữ ra  Việt ngữ do người ta thuê dịch gấp. 
Cám ơn cháu đã gởi lời chúc Tết với những lời lẽ tốt đẹp. 

Chú không hề buồn phiền gì về việc phải rời tờ Người Việt. Điều duy nhất trong sự việc này là đã không còn có cơ hội làm việc chung với những nhân viên như cháu nữa. Nay cuốn sách dịch đã xong, giao cho chủ nhân và đọc lại email thì đã thấy hơn 2,000 thư. Mất mấy giờ đồng hồ delete mới tìm ra thư chúc Tết của Ngọc Lan và HTC nên trả lời. Bỏ lỗi cho chú. 
Trong suốt thời gian vừa qua, thỉnh thoảng lại nhận được điện thoại của bạn bè báo cho biết NV đối xử với chú như thế này như thế khác. Chú im lặng vì chú biết chú cũng như HTC, HN không có gì sai. Chú là nhà báo, chú không phải là cán bộ tuyên truyền một chiều cho cộng đồng. Chú cũng như cháu, HTC hay HN,cần có những suy nghĩ độc lập và tự do. 

Nếu độc giả hay những ông tranh đấu chống Cộng không bằng lòng và tòa báo lại không bênh vực chú thì chú từ chức không làm nữa để giữ tư cách của một người làm báo độc lập, không a dua, nịnh bợ. Chuyện giản dị như thế ở cái đất Mỹ này. Vì thế chú chẳng quan tâm đến việc trả lời trả vốn gì cả. Chỉ một vài ngày nữa chú hoàn tất xong Blog của chú sẽ cho phổ biến. 

Vui lên mà làm việc, vun vén cho hạnh phúc gia đình để thực hiện những ước mơ của mình trên đất Mỹ này. Cố gắng tạo điều kiện để quay trở lại trường đại học ở đây. Ít ra cũng phải xong chương trình 4 năm. Nó sẽ giúp các cháu vững vàng hơn trong bất cứ mọi nỗ lực phấn đấu cho gia đình và cho quê hương Việt Nam. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, đừng có chạy theo những suy nghĩ hủ lậu trong cộng đồng này. Chú gởi lời thăm chồng cháu và gia đình. 

VU ANH








 *******

Ngày gửi đi email này, tôi chỉ mới làm công việc của một thầy cò được khoảng 6 tháng.

Giờ đây, sau hơn 4 năm làm công việc của một phóng viên, một nhà báo, tôi cảm thấy thấm thía hơn rất nhiều những mà chú Vũ Ánh viết cho tôi, ngày đó…

Ngọc Lan



*********************

Vũ Ánh: một đời sĩ khí

Thursday, March 20, 2014 1:35:38 PM 

Vũ Ánh gia nhập ngành truyền thông từ thuở mới trên hai mươi trong suốt 11 năm cho đến ngày Saigon bị đổi tên; đã tham dự hành quân với các đơn vị quân đội ở khắp các mặt trận trong bốn vùng chiến thuật; bị Cộng sản bắt tù 13 năm, trong đó có “sáu năm biệt giam; ba muỗng nước; ba muỗng cơm mỗi ngày; cùm chữ U máu mủ ứa cổ chân” chỉ vì anh đã dám làm tờ báo chui Hợp Ðoàn trong trại tù, nhưng nhà báo Vũ Ánh vẫn “chưa lần lung lay ý chí.”

Ðời Vũ Ánh đúng là “một đời sĩ khí” như bài thơ của bạn tù A20 Nguyễn Thanh Khiết viết vĩnh biệt anh sau khi anh qua đời ngày 14 tháng 3 năm 2014 tại Orange County, California.

Nhờ bài thơ này tôi biết rõ về những thống khổ mà anh đã trải qua trong 13 năm tù tội. Vũ Ánh làm Ðài Phát Thanh Quốc Gia; tuy dân sự nhưng có đi học nhảy dù. Còn tôi làm cho Việt Nam Thông Tấn Xã (VNTTX).

Quen nhau từ lâu nhưng không hề nghe anh kể gì về anh. Bài thơ cho thấy anh đã có “một thời lẫm liệt; trước gông cùm kềm kẹp” trong khi chỉ có “ba lát khoai khô; cõng mấy hạt cơm gạo mốc”; dưới cái nóng Hạ Lào cháy khô thung lũng. Anh lúc nào cũng nghĩ đến “ngọn bút hiên ngang thay làn tên mũi đạn.”
Sau ngày 30 tháng 4, 1975, cả thành phố Saigon như đang bị lột da, tôi gặp anh trong một quán nước. Trao đổi với nhau tin tức về những tổ chức chống Cộng mới nổi lên và tin tức về bạn bè; ai đã đi hay ai còn ở lai. Không bao lâu sau đó tôi nghe tin anh bị bắt. Tôi tìm đường vượt biên. Năm 1992 gặp lại anh ở Washington, D.C. tại nhà một người bạn. Anh vừa qua Mỹ theo diện HO. Hỏi giờ định làm gì? Vẫn nụ cười hiền hòa thay vì tìm một cuộc sống ổn định mà có vài nơi sẵn sàng đón nhận; anh cho biết sẽ qua Cali làm báo vì ở đó có một cộng đồng lớn.

Trong bức thư gửi phóng viên Ngọc Lan, phổ biến trên Ngoc Lan’Blog của báo Người Việt hồi tháng 2 năm 2008, Vũ Ánh viết: “Chú hãnh diện cho 40 năm làm việc trong ngành với biết bao thăng trầm đổi thay.”

Theo anh, không có sự chính trực và ngay thẳng thì chắc anh đã không sống nổi dưới chế độ CS. Anh nói với Ngọc Lan: “Chiến tranh chấm dứt, chú không hề thù hận họ và không chấp nhận kiểu quản lý đất nước trong tình trạng người dân vẫn còn thiếu tự do dân chủ như hiện nay. Chú tranh đấu bằng ngòi bút, nói chuyện phải trái ôn tồn để tìm ra giải pháp chứ không chửi rủa, thù hận và cực đoan.

Nhận xét về báo chí hải ngoại trong Kỷ Yếu Ðại Hội Truyền Thông Hải Ngoại ở California năm 2003 anh nhận xét: “Ưu tư của phần đông những người làm báo Việt ngữ hiện nay là thị trường và sự mất đoàn kết trong giới làm truyền thông và báo chí. Vẫn chưa thấy mất hẳn những lời cáo buộc có tính chụp mũ và khoác cho người khác áo Cộng Sản một cách vô tội, vẫn chưa xóa sạch được cách viết báo vạch trần đời tư người khác không có bằng chứng rải rác trên một số tờ báo hay đài phát thanh Việt ngữ.”

Vũ Ánh qua đời sau khi cúi gõ những chữ cuối cùng bài “Hà Nội vẫn chưa đủ niềm tin cởi trói báo chí” trưa ngày Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014. Anh đã nằm gục ngay trên bàn viết. Sự ra đi vĩnh viễn của anh cũng như của nhà báo lão thành Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh năm 2012 và nhà báo Lê Thiệp năm 2013 – ba nhà báo kỳ cựu của truyền thông miền Nam trước 1975 – là những mất mát lớn cho làng truyền thông hải ngoại.

Phan Thanh Tâm
(Cựu phóng viên VNTTX)




**********************


Anh Vũ Ánh và Tôi

03/18/2014



Hai nhà báo Vũ Ánh (trái) và Nguyễn văn Khanh
trong dịp Sống Magazine họp mặt tại nhà Thái Hoàng.


Tôi gặp anh lần đầu cách đây cũng hơn chục năm. Lúc đó tôi còn là thông tín viên ở Washington D.C. của Nhật Báo Người Việt, vài tháng lại được anh Đỗ Ngọc Yến hay anh Lê Đình Điều gọi về California họp hành, bàn chuyện. Trong một lần về tòa soạn, một trong hai anh giới thiệu tôi với anh Vũ Ánh, bảo “đây là người mới nhất của mình”, ý muốn bảo anh là “lính mới” của tờ báo.


Tôi nhớ như in anh cười rất tươi, vừa bắt tay tôi vừa bảo “mới từ DC xuống hả”, nói thêm “tôi có nhiều người bạn thân trên đó lắm”, nói xong anh kể một dọc những tên tuổi của làng báo Việt Nam ngày xưa, trong số đó có ông vẫn theo nghề cũ như anh Phạm Trần làm việc ở Đài VOA, cũng có những ông buông bút từ ngày lên đường vượt biển. Anh cũng bảo với tôi là từng có lúc sống ở Virginia, “bên đó lạnh quá, tôi chạy sang bên này thời tiết ấm hơn”.

Là “lính mới” nhưng tay nghề anh thì quá siêu. Từng làm việc với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lúc mới hơn 20 tuổi, từng làm tới trưởng phòng bình luận của Đài Phát Thanh Sải Gòn, từng được Phủ Đầu Rồng gọi vào nhờ xem lại, thêm thắt cho một số bài diễn văn Tổng Thổng Nguyễn Văn Thiệu đọc... là những gì tôi được nghe về anh. Một trong những người hết lòng ca ngợi anh là anh Lê Thiệp, bằng chứng có lần anh Thiệp bảo tôi khi tôi chập chững vào nghề: “làm phát thanh mà sắc nước được như thằng Ánh không phải là dễ”.  Sau đó, cũng vẫn anh Lê Thiệp bảo tôi khi tôi vừa bắt đầu làm việc với Đài Á Châu Tự Do (RFA) “nếu chú giỏi thì kéo thằng Ánh về D.C. Kéo nó về chú học hỏi được nhiều lắm, mà tôi lại có thêm thằng bạn ở gần”.

Những gì anh Lê Thiệp nói cộng với những lời giới thiệu của anh Yến, anh Điểu, của cả anh Nguyễn Đức Quang khiến tôi phải chú ý đến ông “lính mới” của tờ báo Người Việt. Điều khiến tôi chú ý nhất là hình ảnh một ông nhà báo trung niên không lúc nào rời khỏi bàn viết, ăn cơm xong bao giờ miệng cũng ngậm cây tăm, tay cầm ly nước trà còn bốc khói. Phải kể thêm ở đây là thời đó anh Yến, anh Điểu chiều tôi lắm, mười lần như một, lần nào tôi xuống California hai anh cũng gọi tất cả mọi người trong tòa soạn cùng đi uống cà phê, ăn sáng chung với nhau. Cả tòa soạn lũ lượt dẫn nhau đến một quán nào đó ngồi tán gẫu, chỉ một người từ chối không đi, lấy cớ “các ông đi đi, tôi ở nhà trông chừng cho”. Người đó là anh Vũ Ánh.

Phải mất ít nhất gần một năm sau khi hai anh em bắt đầu thân nhau, anh mới bảo với tôi “cậu xuống đây bao nhiêu lần mà tôi không bỏ việc đi uống cà phê với cậu được, thôi hôm nay cậu làm hộ tôi 2 cái tin để tôi về sớm, tôi với cậu đi kiếm cái gì ăn”. Trong bữa ăn đầu tiên và khá vội vàng đó - vì anh còn phải về nhà - tôi mới biết một điều: mỗi ngày anh được tòa soạn giao viết 5 cái tin, viết chưa xong anh không rời chỗ đi đâu cả. Chuyện này tôi có kể cho một số đàn anh nghe, còn nhớ anh Phạm Trần bảo “thằng đó xưa nay vẫn thế”, anh Thiệp thì cười thật to bảo “chú phải biết bạn tôi toàn những người làm việc chăm chỉ như ông Vũ Ánh thôi”, ngay cả anh Thiên Ân của đài VOA cũng cười, hãnh diện nói đùa “thằng Ánh nó lòe chú mày đấy, đừng có tin nó”. 

Thân với anh, nhưng chưa bao giờ tôi nghe anh kể về thời còn quyền còn chức, chỉ thấy anh nói về chuyện sau 1975, từ chuyện lần mò tìm đường kháng chiến đến chuyện ngồi tù “tưởng mọt gông” chỉ vì ở trong trại giam vẫn tính những chuyện lấp bể vá trời. Nếu có hỏi thêm nữa, anh chỉ trả lời “vận nước mình nổi trôi nên tôi với cậu cũng nổi trôi”, chưa hề nghe anh chỉ trích, than phiền một ai. Đã có lần tôi hỏi anh điều này, thắc mắc tại sao không nghe anh phê bình những người đã để cho mất nước, cũng chẳng bao giờ thấy anh kể lại những phút cuối cùng khi anh gặp ông Dương Văn Minh hôm 30 tháng Tư 1975, anh trả lời “con người ai cũng có chỗ hay, chỗ xấu. Mình là nhà báo, mình phải nhìn ra cả cái hay của họ, chứ không phải chỉ nhìn thấy cái xấu”. Anh bảo tiếp “nếu cậu muốn tôi phê bình họ thì tôi sẵn sàng phê bình: họ đã cố gắng lắm, đã chịu đựng nhiều lắm, tôi gần họ nên tôi biết rõ điều đó. Chỉ tiếc là cố gắng, chịu đựng đến mấy vẫn không làm được điều họ muốn làm”. Nghe anh nói như vậy, tôi biết mình nên chấm dứt câu chuyện ở đó, dù đến giờ tôi vẫn còn ấm ức với câu trả lời của anh.

Nhưng cũng qua câu trả lời đó, tôi mới thấy hình ảnh của một “ông bụt” trong con người của anh. Tất cả những bài anh viết đều không chứa đựng sự chua chát, đều không có nét căm hờn, mà chỉ là những con chữ biểu hiện của sự thật, của con người tôn trọng sự thật và lúc nào cũng ước mơ sẽ nói được sự thật. Điều đó được anh thể hiện rất rõ trong bài nói chuyện anh đọc tháng Sáu năm ngoái nhân dịp kỷ niệm sinh nhật Tuần Báo Sống, trong đó anh nói ở tuổi đã trên 70, ước mơ của anh vẫn là ước mơ của một nhà báo với cái nhìn trong sáng, mong mỏi đóng góp điều đó cho cộng đồng, “xin quý vị giúp chúng tôi làm tròn công việc của một người cầm bút chỉ mong được nói sự thật”. Nói rõ hơn: anh luôn luôn xem mình là một thành viên của cộng đồng và là một thành viên có trách nhiệm phải xây dựng một cộng đồng biết lắng nghe tiếng nói của nhau hơn, như có lần anh bảo với tôi “cộng đồng này đâu phải chỉ có đời mình rồi hết”, nhắc lại cho tôi nghe lời một nhà báo đàn anh của anh đã bảo từ lúc chưa mất nước “làm gì thì làm, đừng để thế hệ sau này trách mình đã không làm hoặc làm sai”.

Chính vì anh yêu cộng đồng mà tôi không có cơ hội học hỏi trực tiếp ở anh. Mười sáu (16) năm trước đây khi Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do bắt đầu phát triển, Anh Giám Đốc Nguyễn Ngọc Bích gọi tôi vào văn phòng bàn chuyện “kiếm thêm người”. Không ai bảo ai cả anh Bích lẫn tôi đều nghĩ đến anh Vũ Ánh, đặc biệt Anh Bích còn nghĩ đến cả vai trò tổng biên tập mà anh Vũ Ánh sẽ nắm giữ nếu anh nhận lời về lại Washington D.C. Tôi 2 lần xuống tận Orange County thưa chuyện với anh, và cả 2 lần anh đều từ chối bằng câu “cậu cứ về đi, tôi sẽ trả lời sau”. Tôi còn nhớ khi về báo tin cho sếp Bích biết, sếp bảo ngay “như thế là anh em mình hỏng rồi”. Sau này có một lần tôi hỏi thẳng anh sau không lên D.C. để có anh có em, anh trả lời “tôi mê cái cộng đồng ở đây quá nên không đi được”, ngay cả lúc có những người nặng lời chỉ trích anh, anh cũng vẫn bảo với tôi “đi nhiều nơi rồi, chẳng có cộng đồng nào hay cho bằng cộng đồng Nam California”.

Tối thứ Sáu, bè bạn ở California đua nhau gọi điện thoại báo cho tôi tin anh Vũ Ánh mất. Bạn bè kể lại khi gọi điện thoại nhắc anh đến giờ gặp nhau ăn cơm trưa thứ Sáu hàng tuần anh còn bảo “cứ ăn trước đi, tôi bận việc phải đến trễ”, sau đó - tôi đoán - anh ngồi cắm cúi gõ những chữ cuối cùng gửi cho tờ Người Việt. Gửi xong anh nằm gục ngay trên bàn viết và ra đi thật thanh thản. Anh sống với tấm lòng thanh thản và cho đến lúc phải chia tay với mọi người anh cũng thanh thản như thế. Anh vẫn không rời khỏi được cộng đồng mà anh yêu, bài viết cuối cùng cũng là bài viết cho cộng đồng đọc, và tôi tin rằng anh hãnh diện vì đã làm được điều anh mơ ước: kể cả khi phải chết, anh cũng chẳng từ bỏ cộng đồng, nhất định chọn vùng đất Nam California là nơi anh gửi nắm tro tàn.
Tôi không quên lần cuối cùng làm tài xế cho anh lúc anh lên D.C. dự đám tang anh Lệ Thiệp. Hôm đó, nghe anh Phạm Trần hỏi “sức khỏe mày thế nào?” và nghe anh trả lời “tim tiếc tao hơn lủng củng nhưng chắc không sao đâu, chẳng có gì phải lo cả”. Tôi cũng nhớ đến người đàn ông trung niên tôi gặp lần đầu ở tòa soạn Người Việt cách đây đã bao nhiêu năm, nhớ đến người ăn cơm xong miệng ngậm cái tăm tay cầm ly nước trà nóng. Nhớ đến lần duy nhất anh gọi điện thoại cho tôi lúc tờ Người Việt gặp “biến cố báo Xuân” chỉ để hỏi câu “nếu là tôi thì cậu sẽ làm gì?” Nhớ trưa hôm đó tôi bảo với anh “nếu là em, em sẽ xin từ chức và nhận lãnh mọi trách nhiệm”. Không bao giờ tôi quên câu trả lời của anh “tôi cũng nghĩ như thế, gọi hỏi cậu để biết mình làm đúng”. Chiều hôm đó anh em đồng nghiệp báo tin cho tôi biết anh từ chức, chỉ xách chiếc túi nhỏ rời khỏi tòa soạn.

Tôi cũng không bao giờ quên bài học duy nhất trong nghề anh dạy tôi: “Mình là nhà báo, mình phải nhìn ra cả cái hay chứ không phải chỉ nhìn thấy cái xấu”. Tôi biết mình không có đủ cả tâm lẫn sức để trở thành một “ông bụt cầm bút” như anh, nhưng ít nhất ngay trong giờ phút này tôi học được một điều: biết đâu chừng trong cái mất mát không còn anh Vũ Ánh ở với mình, lại có điều hay hơn mà mình không biết.

Điều hay hơn đó là gì?

Thử tưởng tượng ở một nơi chốn nào đó, anh Yến, anh Điểu, anh Nguyễn Đức Quang và anh Lê Thiệp đang ngồi nói chuyện với nhau thì bỗng dưng anh Vũ Ánh lù lù bước đến. Các anh gặp nhau tay bắt mặt mừng, sau đó thế nào anh Yến cũng bảo “mình có nhau ở đây phải làm một cái gì đi chứ”. Lúc đó, tôi tin anh Lê Thiệp sẽ la toáng lên “bây giờ có thêm thằng Vũ Ánh, mình làm báo lại đi các ông ạ”. Chỉ như thế thôi, một tờ báo mới sẽ ra đời, và tôi tin chắc tờ báo đó sẽ mang tên “Tờ Báo Cộng Đồng” vì đó là ước mơ của anh Vũ Ánh.
Và với tôi, người xứng đáng nhất để giữ vai trò chủ bút vẫn phải là anh Vũ Ánh. 



*********************

Alpha - Ánh Lửa Từ Bóng Tối/Sự Chết

03/18/2014



Bữa cơm trưa Thứ Sáu tại tòa soạn Sống Magazine. 
Từ trái: Thái Hoàng, Nguyễn Văn Khanh, Mai Đức, Vũ Ánh, Phan Nhật Nam, 
Khánh Hòa, và Hằng Nguyễn.

Một
Đã là một người lính tác chiến sống trong lửa đạn của chiến tranh nặng độ từ ngày hai mươi tuổi, nên sự chết đối với anh đã là một tình thế thường hằng tất nhiên sẽ xẩy đến ở phút sau, giờ tới. Anh đã chứng kiến, đương cự, chịu đựng tình huống sống trên biên giới tử/sinh với những người bạn – Người Bạn Lính – Thế anh đã mất đi nhiều người bạn suốt một thời tuổi trẻ. Nên chẳng phải là một thái độ cố tình làm dáng vẻ thách đố bất chấp, anh và những người bạn lính diễn đạt tình  thế nguy nan nầy bằng một ngôn ngữ bình thường giản dị...

Trời kêu ai nấy dạ! Vâng, chỉ biết “dạ” để chấp nhận một quyết định siêu nhiên nào đó. Tuy nhiên vẫn đã xẩy ra nhiều tình huống với cường độ bi thảm cao hơn hẳn. Như cảnh tượng chiều ngày 11 tháng 6, năm 1965 khi vào hậu cứ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù với tiếng gào khóc của toàn trại gia binh:

Anh ơi là anh ơi... Anh chết đi bỏ mẹ con tui sao đành anh ơi là anh ơi!! Ba ba đâu má ơi!! Ba đâu má ơi!!

Và sự thật đáng sợ hơn mười tầng địa ngục với gần năm trăm xác chết của các đơn vị. Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 52 Biệt Động, Chi Khu Đôn Luân, và đơn vị anh,  Tiểu Đoàn 7 Dù... Những xác chết nằm lềnh kênh trên vũng bùn nhầy nhầy máu người và đất đỏ. Mùi tử khi bốc dày đặt một vùng trời, đánh dạt đám chim thường ngày vẫn bay về khu nghĩa trang. Xóm nhà dân đối diện Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp vắng bặt bóng người. Người đã không thể sống cùng cảnh chết và mùi tử thi sình chương dưới mưa dầm chỉ được đem về sau một tuần chết trận. Cũng có những cái chết đơn độc mau chóng hơn, chưa kịp kêu lên tiếng đau đớn thì đã qua cơn lâm tử bất ngờ...

Như lần vụt đi của Trần Duy Phước ngày 9 tháng 11 tháng năm 1969 trên vùng trãng trống của chiến trường Tây Ninh. Cái chết quá chóng vánh vì quả B 40 bắn thẳng mặt nổ vỡ tung chiếc đầu người lính. Đã bốn mươi năm hơn nào còn ai nhớ kể cả khúc hát Giấc Ngủ Trên Đồi Xanh mà Trần Thiện Thanh viết cho bạn? Nào mấy ai nhắc đến những cái chết tầng tầng ngập ngập trên quê hương suốt thời gian đằng đẵng của những thập niên 60, 70 ở thế kỷ trước? Còn ai đâu để nhớ những người chết trước, sau năm 1954 trên bãi biển Bùi Chu, Phát Diệm lần vượt chết để được Sống Tự Do của người Việt miền Bắc.   

Hai.
Chiến trận chấm dứt với Ngày 30 Tháng 4, năm 1975 tại Sài Gòn, nhưng tiếng nổ của quả pháo, trái hỏa tiễn, viên đạn... vẫn nghe ra, cảm thấy trong nỗi im lặng của sự chết toàn diện. Lần con người thật chết cùng buổi tận diệt quê hương.

Đấy là tiếng nổ im lặng của chiếc C119 Hỏa Long của Trung Úy Phi Công Trang Văn Thành (do sau nầy tìm biết) bốc cháy trên nền trời Tân Sơn Nhất do trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 của quân đoàn cộng sản đang áp sát Sài Gòn, sáng 29 tháng 4, 1975.

Đấy là tiếng súng tay khô nỏ nổ giữa ầm vang Sài Gòn hấp hối sáng qua trưa 30 tháng 4. Anh nghe ra từ người mặc quân phục ngã xuống trước Tượng Đài Thủy Quân Lục Chiến khi di chuyển từ trụ sở Hạ Viện băng qua thương Xá Eden để theo dõi đám thanh niên cầm cờ đỏ hướng dẫn đơn vị lính cộng sản nhớn nhác chiếm Tòa Đô Chánh cửa đóng kín, không lính gác.

Đấy là âm động quả lựu đạn bật kíp giữa toán lính nhảy dù do Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái chỉ huy đi từ Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa theo đường Tô Hiến Thành, ra Đường Tổng Đốc Phương xong đến Ngã Bảy thì quay thành vòng tròn, đưa súng lên trời hô lên tiếng tuyệt vọng trung nghĩa hùng vĩ... Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! trước khi ngã xuống trên vũng máu.

Nhưng cảnh chết không hề chấm dứt cùng lần với Ngày 30 tháng Tư 1975. Chết mở rộng ra khắp cùng miền Nam, hiện thực tại nhiều tình huống, áp dụng cho nhiều giới người... Từ đứa bé vừa qua 10 tuổi, cha đi tù cải tạo, cùng mẹ đi buôn củi theo đường xe lửa Long Khánh–Sài gòn. Do cảnh sát kinh tế trong mục tiêu thực hiện chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã quyết liệt thanh trừng bọn buôn lậu, móc ngoặt phá hoại nền sản xuất lớn tiến lên chủ nghĩa xã hội tiên tiến... Đứa  bé phải lẫn trốn trên nóc toa xe lửa, nên khi xe vào Sài gòn qua cầu Bình Triệu, bé đã bị thành cầu gạt xuống đường... Thân hình nhỏ bé tiếp bị một chuỗi bánh xe sắt của đoàn tầu dầm nát không nhìn ra nhân dạng.
Chết giăng giăng khắp miền Nam ở các Trại Long Giao, Suối Máu, Tây Ninh, Sông Bé... Chết trùng trùng suốt miền Bắc từ “Cổng Trời” Quyết Tiến Hà Giang xuống đến Phú Sơn 4, Trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa, Trại 6 Nghệ Tỉnh... Anh hiểu đủ nghĩa, thấy rõ diễn tiến của  sự chết từ tình cảnh của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ở Trại Thanh Cẩm. Và cuối cùng, cũng chính của bản thân trong thời gian một thân giữa bóng tối thăm thẳm trong khoản thời gian từ 1981 đến 1988... Tình cảnh khiến anh đã nhiều lần nói ra lời một cách bình thản, tự nhiên...

Nếu chết được thì chắc cũng không khó khăn gì hơn anh ơi...

Ba.
Nhưng cuối cùng, Sự Chết vẫn còn nguyên phần vô cùng, vô tận để không một ai có thể nói lên lời định nghĩa chính xác về nỗi bí ẩn chỉ một lần trong đời, một thân chứng nghiệm. Tuy nhiên, kỳ diệu thay đã có những người đứng vững, phục sinh từ sự chết khốc liệt kia. Những người sống giữa chúng ta. Bài viết tiếp phần chứng minh với Alpha. Trong quy ước truyền tin quân đội miền Nam “Chữ A” được các âm thoại viên những đơn vị tác chiến đánh vần là “Anh Dũng” hay “Alpha”.

Tên anh bắt đầu với chữ A, nhưng dù không là cấp sĩ quan chỉ huy một đơn vị tác chiến nào, anh vẫn được  Ngọc “đen,” Hải “bầu”, Út Khiết... những sĩ quan thuộc các đơn vị tác chiến Quân Lực VNCH ở tù chung với anh, gọi bằng ám danh kính trọng “Alpha”. Họ gọi anh như thế ở Trại giam A20 Xuân Phước, họ tiếp tục gọi “Alpha” gần ba mươi năm sau khi ra khỏi chốn ngục tù. Và nay, dẫu anh đã thực sự đi vào chốn miên viễn vô cùng của Sự Chết – Cảnh huống mà họ và anh đã từng tranh đấu không khoan nhượng ở Trại Xuân Phước A20, nơi mà trí nhớ con người hằng lưu giữ do tính kinh hoàng ác độc của chốn  địa ngục trần gian.

Lẽ tất nhiên không ai trong số những người tù kiệt liệt năm xưa ấy lấy năm tháng đau thương phẫn hận nơi chốn ngục tù cộng sản kia là một thành tích. Càng không gợi nhớ lại để kích động thù hận, yêu cầu báo oán. Không phải thế, hôm nay nhắc lại chuyện ngục tù (lại là cảnh huống ngục tù đồng nghĩa với cái chết) không mục đích gì hơn tôn vinh giá trị vĩnh của Sự Sống và những Con Người đã Vượt Sống từ Cái Chết một cách vinh dự rất đáng tự hào.

Với Alpha, một biểu tượng chiến đấu không lay chuyển. 

Ngày 29-4-1984, Alpha chuyển sang xà lim Số 6 Trại A20 ở chung với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người em chủ trương năm 1976. Đây cũng là ngày đánh dấu ba năm anh bị cùm hai chân, có giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5.

Phải nói anh bị gông thì chính xác hơn. Chỉ khác những tội phạm thời phong kiến, người tù dưới chế độ cộng sản không phải bị gông cổ, cũng khác với thời phong kiến, công an cộng sản ngày nay cùm đồng bào người Việt bằng vòng cùm sắt. Cùm cả hai tay lẫn hai chân.

Cần phải phải nhắc lại rằng, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc của dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, sau khi bị lên án chung thân khổ sai, và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, ngài bị lưu đầy lên Trại A-20 Xuân Phước. Tại phòng giam Số 6, dẫu là một một Phật Tử, mối liên hệ giữa Alpha và Linh Mục Vàng trở nên gắn bó mật thiết. Sự mật thiết với giới hạn cuối cùng của những con người cùng lần chạm tới biên giới tử/sinh.
Sự Thật lớn nhất là Cái Chết khiến con người không còn sợ hãi. Người vượt qua Nỗi Sợ. Người vượt qua Cái Chết. Cái chết chậm rãi, chắc chắn có hình hình khối, có định lượng, được định vị, được kế hoạch hóa bởi hệ thống cùm gồm  bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi vào phòng biệt giam Trại Xuân Phước:

Mức độ 1: Cùm một chân phải;
Mức độ 2: Cùm một chân trái;
Mức độ 3: Cùm hai chân;
Mức độ 4: Cùm hai chân lẫn hai tay.

Alpha là người tù đã một lần bị cùm qua mức độ 4 trong 8 tháng liên tiếp.
Nhưng cùm ở mức độ 4 chưa hẳn là biện pháp “cải tạo” cuối cùng... Anh  bị cắt khẩu phần ăn xuống chỉ còn một nửa so với thành phần lao động bên ngoài, nghĩa là chỉ còn 150 grams cho mỗi bữa ăn gồm khoản 5 lát khoai mì khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước muối và được phát cho nửa ca nước một ngày.
Ăn mặn mà uống nước ít, người rất dễ bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận. Cho nên đói ăn lúc đó đã trở thành ít quan trọng hơn dù người tù kiên giam đang là con ma đói. Cái khát triền miên đã che lấp đi cái đói. Nếu muốn ăn được những lát sắn kia phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa bớt độ mặn của nước muối được chan vào cơm và khoai mì. Anh không dám hy sinh những muỗng nước quý như vàng lúc đó để rửa phần khoai. Thế nên chỉ còn cách nhịn ăn, nhưng do càng đói lả thì mồ hôi càng ra như tắm. Và cuối cùng tình trạng kiệt sức ắt sẽ xẩy ra với cái chết chắc chắn. Chết vì đói. Chết vì khát.

Linh Mục Nguyễn Văn Vàng ra tay giải cứu. Ngài nói: “Anh không thể nhịn ăn mãi như thế. Nếu Chúa che chở cho mình, thì dẫu bị phù cũng không chết. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt mặn”. Alpha khước từ: “Bố (Tất cả người tù miền Nam đều gọi các tu sĩ của các đạo giáo là bố) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như con không được đâu”.Ông cười: “Sao biết không được, đã thử đâu mà biết không được”.

Giải pháp của Cha Vàng đã khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua đi nhanh và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư, như một phép lạ cuộc trừng phạt tự nhiên chấm dứt với viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Cuối tháng 11, cả hai được mở cùm cho ra đi tắm. Lần được tắm đầu tiên sau ba năm biệt giam.

Nhưng khi hai người ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim vì trời vào đông vùng miền núi miền Trung gờn gợn rét sắc. Cha Vàng run bần bật vì gió lạnh do chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù. Alpha cởi chiếc áo trấn thủ tự chế bằng tấm chăn trước khi đến trại nầy thay thế chiếc áo len mỏng của cha. Cả hai ngồi vào chỗ kín gió xong trở lại phòng biệt giam với chiến lợi phẩm là 10 viên B1 và hai bi thuộc lào do các bạn tù nơi trại nhà bếp và ông L.S, tỷ phú người Hoa đi tù do bị nhà nước đánh tư bản sau 1975 cung cấp.

Vào đến xà lim, hai người đồng thấy ra điều  thất vọng: Lửa ở đâu mà hút thuốc lào! Cha Vàng đưa ý kiến, lấy lửa bằng phương pháp của thời kỳ đồ đá. Ông giảng giải: “Nền văn minh ngày nay đến từ việc phát minh ra lửa. Lửa chế ngự đồi sống con người khi họ thoát ra thời kỳ ăn lông ở lỗ… Con người thời kỳ đồ đá đã biết dùng đá chọi vào nhau cho đến khi xẹt lửa” Cha Vàng kết luận: “Chỉ cần một thanh vỏ tre và miếng vải áo mục sẽ tạo ra lửa”, Alpha tạo kế xin từ nhà bếp một thanh tre để cạo lưỡi, và Linh Mục Vàng xé mảnh áo làm con cúi chuẩn tạo nên lửa để hút thuốc lào trong một dịp trọng đại.

Noel năm 1984, Alpha và Cha Vàng thay phiên nhau kéo thanh tre xuyên qua lỗ chiếc dép lốp, từ 9 giờ sáng cho đến hơn 11 giờ thì “phép lạ” xẩy đến. Đầu con cúi bắt đầu ngún và có khói, có nghĩa là bột tre nóng quá độ đã khiến cho lớp bông nhẹ trên con cúi bén lửa. Một lát sau khi thấy xuất hiện những đốm hồng, Cha Vàng thổi nhẹ nhẹ, vết lửa lan ra...

Trang sử của mấy chục ngàn năm trước của loài người được lật lại. Cha Vàng tiếp tục thổi nhẹ để nuôi dưỡng ngọn lửa. Và khi đã ngủi thấy mùi khét của vải, ngài thổi hơi mạnh. Ngọn than hồng lan rộng ra hơn và cuối cùng chỉ cần một hơi nhẹ, ngọn lửa bùng lên. Vị tu sĩ nhìn con cúi vải có than hồng giống như một điếu thuốc lá mới được đốt lên. Ngài cười vang: “Mình thắng”. Ngài lục trong tay nải một miếng giấy châm vào cúi vải, ngọn lửa lan sang đóm giấy. Xong, cha nắm chặt tay tôi giơ lên cao như một võ sĩ được trọng tài nắm tay giơ cao sau khi đấm địch thủ do ván.

Hai người ngồi nghỉ một lát, sau đó Cha Vàng nói: “Chúng ta đã học xong bài học lúc bố đã ngoài 50, còn con đã 33 tuổi. Nhưng tự bố, bố thấy chúng ta xứng đáng với bài học ấy. Đó là kiên trì đạt mục tiêu trong hoàn cảnh khó khăn nhất”.

Đúng vào tối 24-12-1984, trước khi Cha Vàng cử hành thánh lễ nửa đêm trong xà lim số 6, hai người đã hút mỗi người một điếu thuốc lào. Hút bằng một miếng giấy cuộn tròn như loa kèn và miệng ngậm búng nước. Vào đúng lúc nửa đêm, cả hai đều cảm nhận được Thánh Lễ Giáng Sinh thực sự đang trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một nhà thờ dường như ở cách nhà giam xa lắm vọng về trong đêm lạnh giá u tịch.

Bốn.
Tháng 4 năm 1985, Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài đã quá yếu. Có lẽ ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Alpha đập cửa kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn. Hai viên trụ sinh không đủ khả năng làm Cha Vàng tỉnh lại. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời trong xà lim số 6. Trước đó, dù yếu và bệnh, ngài đã bàn với Alpha là làm sao có được Bánh Thánh để Ngài làm lễ nửa đêm trong Noel 1985 mà con chiên duy nhất trước Ngài lúc đó lại là một Phật Tử. Nhưng mơ ước của Ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng sóng đỏ.

Nhưng dù Ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của Alpha cho đến bây giờ, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải ngày nào bỗng bùng lên soi sáng không gian tăm tối của tất cả những xà lim đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.

Viết để nhớ
Ngày Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014
Ngày Alpha về trời như lửa hằng sống

Phan Nhật Nam



Vũ Ánh, Bạn Vàng!

3/18/2014



Tôi nhận được tin Vũ Ánh mất vào đêm thứ Bảy, 15-3, khi chúng tôi đang chuẩn bị hành lý cho chuyến bay về Mỹ từ Bangkok, chấm dứt chuyến công tác truyền thông ba tuần lễ qua Phi Luật Tân, Thái Lan và Cam Bốt.

Dương Phục hay tin này trước, qua một loạt email từ Lê Phú Nhuận, rồi Dương Ngọc Hoán, rồi anh Trần Ngọc Vân. Anh ngồi lặng đi thật lâu, không nói một lời nào, không cả trả lời vài câu tôi hỏi. Mãi một lúc sau, anh mới lặng lẽ nói nhỏ, nghẹn ngào, "Vũ Ánh mất rồi!"

Tôi bàng hoàng thảng thốt, không thể tin được tai mình, mà trái tim thì như bị ai bóp nghẹt hụt đi vài nhịp. Tôi hỏi lại, "Sao có thể thế được? Ánh còn khoẻ mạnh mà! Còn hẹn sang Houston thăm mình mà!" Phục buồn rầu lắc đầu không nói. Tôi biết anh thương Vũ Ánh nhất trong tất cả các bạn đồng nghiệp cũ. Tôi biết anh buồn biết là chừng nào trước sự mất mát này. Vì tôi cũng vậy!

Lòng tôi nghẹn ngào suốt đêm không ngủ nổi. Nhớ lắm Vũ Ánh người bạn quý, đầy chân tình và đôn hậu. Tiếc thương người ký giả suốt đời đam mê nghiệp truyền thông cho đến những phút cuối của cuộc đời. Ngưỡng mộ một con người cao đẹp, một nhân cách hiếm quý, một sự thẳng thắn bộc trực không sợ hãi trước áp lực, một tấm lòng dũng cảm đầy "hiệp sĩ tính" dám sống chết vì lẽ phải và sự thật. Và tôi cũng thổn thức thương cho Yến Tuyết, hẳn đang đau khổ biết chừng nào khi mất đi người bạn đời chứa chan tình nghĩa và là bờ vai vững chãi cho Tuyết và các con nương tựa.

Cũng như chồng, tôi quý trọng Vũ Ánh nhất trong giới báo chí Việt ngữ. Tôi hay gọi đùa anh là "giống quý hiếm còn sót lại bên bờ bị diệt chủng." Dù anh hơn tôi nhiều tuổi và thuộc thế hệ đàn anh trong giới truyền thông, nhưng tình thân và lòng quý trọng giữa chúng tôi suốt hơn 40 năm qua đã cho phép nhóm phóng viên Đài phát thanh Sài Gòn (trước 1975) chúng tôi gọi nhau bằng tên tục, thân mật và trìu mến.

Dương Phục và Vũ Ánh, dù ở tuổi trên dưới "thất thập cổ lai hy" vẫn gọi nhau"mày, tao" và thường đùa nghịch với nhau y như những ngày còn là hai chàng phóng viên chiến trường đầy năng nổ của lứa tuổi hai mươi. Tôi là một trong số ít phụ nữ được Vũ Ánh trân trọng tình đồng nghiệp và hay bàn hỏi, tranh luận với nhau về việc đời cũng như việc báo. Nhất là khi tôi góp phần"vun trồng" mối tình của anh và Yến Tuyết trong những ngày 1975, và là hàng xóm gần gũi nhất của hai người trong hai năm đầu anh định cư tại San Diego. Bốn người chúng tôi cũng là hai cặp vợ chồng duy nhất của ngành truyền thông VNCH bắt đầu nghiệp báo chí ngay từ đầu đời mà vẫn còn tiếp tục kiếp "tằm nhả tơ" tại hải ngoại cho tới tận cuối đời.

Chúng tôi qua lại thân tình đến độ khi dọn nhà sang Houston làm phát thanh, Phục và tôi luôn loay hoay tìm cách kéo Vũ Ánh và Yến Tuyết cùng đi theo. Ngay khi cơ sở phát thanh đã vững vàng, chúng tôi nhiều lần trở về Orange County để thuyết phục Vũ Ánh cùng sang chia sẻ công việc. Cũng nhiều lần, chúng tôi mời anh và Yến Tuyết sang Houston để chứng kiến sự phát triển của ngành truyền thông tại Texas với hy vọng "dụ" được hai người sang đây cùng chia bớt trách nhiệm quản trị truyền thông của Đài Saigon. Lý do chúng tôi thiết tha lôi kéo anh cùng cộng tác không chỉ đơn thuần vì lòng thương quý bạn, mà còn vì không dễ gì tìm được một đồng nghiệp báo chí có nhân cách chững chạc, trung tín với bạn hữu, đôn hậu với đời, với người, (với cả kẻ thù), và say mê nghiệp truyền thông như Vũ Ánh.

Nhưng dù rất quý mến và tôn trọng nhau, chúng tôi cũng không ít lần tranh luận với Vũ Ánh về sự khác biệt quan niệm trong công việc truyền thông Việt ngữ, nhất là trong mối tương quan giữa báo chí và cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Tuy nhiên sự bất đồng nan giải này không hề làm chúng tôi giảm tình thương nhau, mà càng làm chúng tôi nể trọng nhau hơn vì thấy bạn cũng như mình, cả hai bên đều "dám" mạnh mẽ thực thi tinh thần dân chủ và bảo vệ quyền tự do ngôn luận là những điều đã khiến bọn tôi chịu lắm đọa đầy trong tù ngục Cộng Sản tại quê nhà, cũng như là động lực làm chúng tôi liều chết trên biển quyết tìm tự do. Nhất là thêm lòng tương kính giữa những con người đã tận tụy cống hiến cả đời mình cho nghiệp truyền thông với lòng đam mê không suy suyển theo thời gian. Bất đồng tới đâu cũng không làm chúng tôi bất hoà. Có lẽ chính vì hiểu được điều này, nên Vũ Ánh đã từ chối lời thiết tha mời hợp tác của chúng tôi, với lý do "Không nên làm việc chung đụng để gìn giữ mãi cái tình bạn của tụi mình."
Vũ Ánh ơi! Không làm việc được với nhau thì thôi, nhưng còn lời hẹn sẽ cùng"dưỡng già" gần nhau thì sao? Tụi này vẫn chờ Yến Tuyết tìm dùm căn nhà nào gần mái ấm nhỏ bé nhưng đầy thơ mộng và xinh xắn của hai bạn để tụi này đi đi về về "dưỡng già" với bạn cũ. Nhà California chưa kịp thấy, lời hẹn sang chơi và tụ hội bạn bè ở Galveston của bạn mới tháng trước chưa kịp thực hiện thì bạn đã bỏ ra đi. Bạn đột ngột "bỏ cuộc chơi" của đám bạn cũ tóc giờ đều bạc nhưng lòng vẫn sôi nhiệt huyết truyền thông của ngày tuổi trẻ, tim vẫn chứa chan tình bạn của thời trước 1975.

Vũ Ánh! Bạn luôn sống cách quảng đại: thường cho đi chứ không đòi nhận, để bị phụ chứ chẳng phụ ai; thì cách bạn chết cũng thế: một mình, lẳng lặng, nhanh chóng, không gây gánh nặng cho ai! Nhưng bạn vàng ơi, nhân cách cao quý và tấm lòng thiết tha trung thực với nghiệp truyền thông của bạn sẽ là gánh nặng êm ái ở lại mãi trong lòng bạn hữu.

Tạm biệt Vũ Ánh! Nghỉ yên nhé, bạn vàng thân yêu!

DP-Vũ Thanh Thủy
(16-3, trên đường bay từ Thái Lan về lại Houston)



************************

Người đồng nghiệp nhân hậu


LTS: Thỉnh thoảng, nhà báo Vũ Ánh - người anh và cũng là người thầy của chúng tôi - nhắc đến những người bạn (đồng nghiệp và đồng... tù) của ông với sự trân trọng. Đó cũng là lý do, khi quyết định thực hiện số đặc biệt tưởng niệm ông, tuy quỹ thời gian hết sức ít ỏi, Sống Magazine vẫn cố gắng tìm kiếm, liên lạc để mời bạn hữu của Vũ Ánh chia sẻ thông tin, kỷ niệm về ông.
Tác giả bài viết bên dưới – nhà báo Lê Phú Nhuận, hiện sống tại Houston, Texas là người cuối cùng góp bài cho số đặc biệt này. Ông quay về nhà vào đêm Chủ nhật - 16 tháng 3 và ngồi vào máy để viết ngay rồi gửi trong đêm...

Tiếc là chúng tôi không thể biết hết và không đủ điều kiện liên lạc với tất cả mọi người mà Vũ Ánh trân quý để gửi lời mời này. Cũng vì vậy rất mong quý vị niệm tình tha thứ...  

Kể từ 1965, giới truyền thông miền Nam Việt Nam, cả truyền thông chính phủ, lẫn các báo tư nhân đã có một bước chuyển mình rất rõ nét, từ cung cách thụ động xưa cũ, sang một sắc thái mới, tích cực hơn, chủ động và đầy sống động, với một lớp phóng viên trẻ, được đào tạo theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trong số ký giả trẻ đó có Vũ Ánh, người vừa mới qua đời hôm 14 tháng 3 vừa qua, tại California, hưởng thọ 73 tuổi.

Trong suốt thời gian từ 1965 cho đến tháng 4/1975, tôi làm việc song hành với Vũ Ánh trong cơ quan truyền thông chính phủ và chia sẻ nhiều điều mà người khác không có được. Vì thế, ngoài tình đồng nghiệp qua nhiều lần sinh tử có nhau, còn là một tình bạn nhiều trân trọng.

Năm 1966, đài phát thanh Sài gòn cử tôi và Vũ Ánh ra Đà Nẵng để phụ trách phần tin tức, thời sự cho một đài phát thanh mới thành lập. Tại đây, tôi là người chứng kiến những bước đầu đời của Vũ Ánh đi vào cuộc hôn nhân thứ nhất mà sau này cũng có nhiều oan khuất. Tôi cũng là người đã vác cuốc, xẻng đào huyệt để chôn cất một trong hai đứa con trai bé nhỏ của Vũ Ánh, chết vì phỏng nước sôi quá nặng.

Biến động miền Trung đã đẩy chúng tôi vào một giai đoạn khó khăn khi đài phát thanh bị chiếm đóng. Chúng tôi phải thiết lập một đài phát thanh tạm trong phi trường Đà Nẵng cùng với anh Uyên Thao.

Chiến trường mỗi ngày một sôi động, Vũ Ánh, Dương Phục và tôi chia nhau tháp tùng các cuộc hành quân của các đơn vị quân đội để thực hiện các phóng sự chiến trường, ngay tại mặt trận, phát ngay trên làn sóng của Đài Phát thanh Sài gòn và được tiếp vận đi tất cả các tỉnh.

Vũ Ánh và chúng tôi chia nhau theo chân các chiến đoàn Nhảy dù , hành quân khắp các vùng chiến thuật, khi Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng còn là Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, Đại tá Thọ còn là Thiếu tá Tiểu đoàn Trường Tiểu đoàn 8 Nhảy dù và Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam còn là Trung tá Chiến đoàn Trưởng Chiến đoàn 3 Nhảy dù.

Chúng tôi vẫn ba đứa, Ánh , Phục và tôi, dù còn là dân sự vẫn được Bộ Quốc phòng cho phép tham dự một khóa huấn luyện Nhảy Dù (K.105) để có thể theo chân các cuộc hành quân nhảy dù từ trên phi cơ. Chúng tôi chia nhau ôm dù nhảy theo các chiến sĩ Mũ đỏ đánh vào các mật khu Việt cộng.

Ngày tháng trôi qua, thâm niên và thăng cấp, Ánh và tôi cùng được chỉ định vào chức vụ điều hành Sở Thời sự, Bình luận, Tin tức. Vũ Ánh bên Hệ thống Truyền thanh Quốc gia. Tôi làm việc bên Việt Nam Thông tấn xã.

Các viên chức cao cấp trong chính phủ thường thay đổi theo từng vị Thủ tướng và Tổng trưởng, còn chúng tôi là bộ máy điều hành nằm phía dưới nên ai đến, ai đi mặc kệ, chúng tôi vẫn sống và làm việc với nhau nhiều năm dài. Tình cảm vì thế mà gắn bó.

Rồi 30/4/1975, Vũ Ánh và tôi, hai đứa vẫn trấn giữ hai cơ quan truyền thông của chính phủ cho đến những giây phút cuối cùng. Tôi đi tù theo diện sĩ quan, Vũ Ánh đi tù theo diện tham gia tổ chức chống cộng. Tôi chưa tròn bảy năm còn Vũ Ánh ngồi gỡ đến 13 cuốn lịch.

Đọc hàng loạt email thương tiếc Vũ Ánh của các bạn tù trong trại kiên giam A-20, mới biết Vũ Ánh sống hiên ngang như thế nào trong trại tù cộng sản.

Vũ Ánh sang định cư tại Mỹ năm 1992 và lại tiếp tục cái nghề mà bạn ấy đã chọn: Viết báo.

Không thể không nhắc lại rằng, Vũ Ánh là người viết bình luận hay và nhanh nhất, được Phủ Tổng thống VNCH tin cẩn nhất, trực tiếp nhận chỉ thị của Bí thư Tổng thống (ông Hoàng Đức Nhã), khi cần phản bác các luận điệu phản chiến của một số chính trị gia Hoa Kỳ. Ông Tổng trưởng Dân vân Chiêu hồi, kiêm Bí thư của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu là ông Nhã vẫn còn trên đất Mỹ là chứng nhân cho điều đó.

Cá nhân tôi, tôi vẫn thầm phục tài năng của Vũ Ánh nhưng có lẽ điều làm chúng tôi quý Vũ Ánh nhất là nhân cách: Trung thực, thẳng thắn và nhân hậu.

Trong điều hành công việc, tôi cứng rắn và nguyên tắc hơn Vũ Ánh rất nhiều. Nhưng éo le thay, cái mà người ta có thể chinh phục trái tim bạn bè, người thân, lòng nhân hậu, xuề xòa, xí xóa với thuộc cấp, che chở đàn em của Vũ Ánh lại là một nhược điểm khi điều hành một tờ báo tư nhân, nơi mà kỷ luật không nghiêm nhặt như trong một cơ quan công quyền. Phải chăng vì thế mà một ký giả tài ba như Vũ Ánh đã phải nhận lãnh nhiều oan khuất trong giai đoạn cuối đời?

Người vợ sau này của Vũ Ánh là bà Yến Tuyết, một cựu phóng viên tốt nghiệp đại học Vạn Hạnh, cũng đã được chính tôi phỏng vấn và dẫn dắt trong những bước đầu phục vụ tại Đài Phát thanh Sài-gòn, cùng với Lê Phú Bổn, Hoàng Hà, Phạm Mạnh Đức... Nói như thế để thấy, chúng tôi sống và làm việc với nhau trong nhiều năm dài, coi nhau như anh em trong một đại gia đình. Vì thế khi nghe Yến Tuyết nức nở bên kia đầu dây: “Anh Nhuận cầu nguyện cho anh Ánh đi. Anh ấy đi rồi anh ơi!” - tôi sững sờ.

Lại thêm một thằng bạn cùng trang lứa ra đi . Dù biết đời là thế mà sao vẫn không ngăn được giòng lệ thương cảm.

Bà Vũ Ánh - cô nữ phóng viên Yến Tuyết ngày nào, tôi đang thầm cầu nguyện cho chồng của cô đây.

Houston 16 Mar. 2014
NLG 73 - Lê Phú Nhuận



******************


Người cuối cùng rời khỏi tàu


LTSTheo đề nghị của Sống Magazine, tác giả - nhà báo Nguyễn Mạnh Tiến, hiện đang làm việc tại Ban Việt ngữ, Đài Á châu Tự do ở Washington D.C, Hoa Kỳ, nhận lời chia sẻ thêm những thông tin, kỷ niệm trong giai đoạn ông làm phóng viên Đài Phát Thanh Saigon cùng với nhà báo Vũ Ánh…



Nhà báo Vũ Ánh (trái) và tác giả tại Camp David, Maryland hồi tháng 4 năm 1973 
khi đến Hòa Kỳ tường thuật chuyến công du Hoa Kỳ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. (Ảnh do tác giả cung cấp)

Nếu chia cuộc đời thành những đoạn bị cắt khúc, Vũ Ánh có 11 năm ở Hệ thống Truyền thanh Việt Nam, 13 năm bị giam cầm trong trại lao cải và hơn 20 năm làm truyền thông ở hải ngoại.

Tôi viết những dòng này như những ghi chép về Vũ Ánh, người bạn quý mến của chúng tôi trong những năm tháng phục vụ ngành truyền thông VNCH.

Tôi quen Vũ Ánh từ những ngày đầu cùng chung khoá huấn luyện ở Đài Phát Thanh Saigon 03 Phan Đình Phùng. Rồi cùng làm việc ở Đài cho đến hết ngày 29/4/1975.

Vũ Ánh nhiều tuổi hơn tôi, chẳng nhớ anh mở đường thế nào để tôi dám xưng hô ‘mày tao’. Có thể lúc đó tôi không biết Vũ Ánh lớn tuổi hơn tôi và đứng bên cạnh tôi anh cũng khá là cao!

Thời độc thân, chúng tôi từng có khoảng thời gian hùn tiền thuê chung một căn nhà ở đường Ngô Tùng Châu, Gia Định. Chính những ngày tháng này giúp tôi nhận ra một Vũ Ánh khác, một Vũ Ánh rất nghệ sĩ. Sở dĩ tôi nói thế vì anh khá am hiểu hội hoạ và cũng tập tành cầm cọ.

Dường như máu làm thời sự đã nuôi dưỡng trái tim Vũ Ánh từ trước khi anh thực sự vào nghề. Năm 1964, ở kỳ thi tuyển vào lớp đào tạo phóng viên đài phát thanh, Vũ Ánh vượt lên hàng đầu vì sự hiểu biết thời sự hơn hẳn nhiều người khi thi vấn đáp.

Hôm đó, không ai trả lời được câu hỏi giám khảo Nguyễn Ngọc Linh nêu ra về trận đánh Ấp Bắc. Tất cả đều ‘ú ớ’, trừ Vũ Ánh. Nói Vũ Ánh yêu thời sự là điều không thể phản bác, rõ ràng làm truyền thông mà không thích thời sự, không sống với nó thì nên chọn nghề khác. Tôi nhớ Vũ Ánh nói như thế trong một khoá huấn luyện dành cho phóng viên các đài phát thanh địa phương trực thuộc Hệ thống Truyền thanh Quốc gia.

Sau khi được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn phóng viên truyền thanh, Vũ Ánh tự hướng mình vào những công tác tại mặt trận.

Ở Đài chúng tôi dù có là phóng viên chiến trường thì cũng vẫn phải làm các lĩnh vực thời sự khác khi được yêu cầu, Vũ Ánh cũng thế và anh có thể “đóng” nhiều vai một cách ngon lành.

Thời Vũ Ánh khởi sự làm phóng viên chiến trường, không quân VNCH vẫn còn sử dụng trực thăng H34, chưa có UH 1, khu trục thì AD 6, T 28 chứ chưa có phản lực F5, A 37.  Vũ Ánh đi rất nhiều và có nhiều cái Tết ra tiền đồn đón xuân với lính, cùng nghe pháo địch và làm phóng sự. Thời gian di chuyển bằng máy bay quân sự của anh nếu cộng lại hẳn phải cả ngàn giờ.

Vũ Ánh là một trong ba phóng viên dân sự của Hệ thống Truyền thanh Quốc gia đã tốt nghiệp và có bằng nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hoà.

Có bằng dù vào giai đoạn chưa ai khoác áo lính như thế mới “hách”. Tôi nhớ ông Lê Phú Nhuận sau đó đã có bài phóng sự rất hay “Tôi học nhảy dù”.

Ngày ba ông bạn Vũ Ánh, Lê Phú Nhuận, Dương Phục nhảy ‘saut’ đầu tiên, tôi tình nguyện đợi ở bãi nhảy để chụp ảnh một bầu trời đầy hoa dù. Hy vọng một ông đáp xuống gần tôi thì khó như trúng số độc đắc.

Nhớ lại những kỷ niệm cũ, bâng khuâng đến kỳ lạ. Dẫu đã nửa thế kỷ, những kỷ niệm của đời phóng viên vẫn chợt hiện.

Vũ Ánh không có số làm phóng viên lâu dài và đã có thể trở thành người cầm súng theo đúng nghĩa của từ đó.

Có đến một nửa anh em phóng viên Đài Phát thanh Saigon bị động viên khoá 5/69 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Sau giai đoạn 1 ở Quang Trung và gần xong 8 tuần huấn nhục ở Trường Bộ binh Thủ Đức, chúng tôi từng nghĩ, từ nay sẽ thực sự sống cuộc đời nhà binh vì qua giai đoạn căn bản quân sự mà không được về, được chuyển lên Thủ Đức thì chắc sẽ học đến khi ra trường.

Thời gian đó những chuyên viên tối cần thiết ở cả lãnh vực công hoặc tư có thể được động viên tại chỗ hoặc biệt phái ngoại ngạch. Song rất bất ngờ, mười mấy người chúng tôi, vừa phóng viên, vừa chuyên viên kỹ thuật đột nhiên nhận được lệnh trở về trình diện nhiệm sở cũ là Đài Phát thanh Saigon, Hệ thống Truyền thanh Quốc gia. Một cách muộn màng, chúng tôi được trở về làm công việc chuyên môn dân sự như trước.

Tôi nhớ là sau những tháng ngày nhiều thay đổi này, Vũ Ánh “bén duyên” với Dinh Độc Lập. Anh thường xuyên tháp tùng các chuyến đi của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phụ trách công tác bình luận cho Đài. Có lẽ các sếp đã nhìn thấy kiến thức, khả năng chuyên môn, phong cách làm việc nghiêm túc và đặc biệt tinh thần yêu nghề của anh và họ chuẩn bị cho anh lên cao hơn.

Rồi Vũ Ánh trở thành Chánh sự vụ Sở Thời sự Hệ thống Truyền thanh Quốc gia, trông coi cả  phòng tin tức, phòng phóng sự và phòng bình luận. Ở vị trí mới, Vũ Ánh không câu nệ, không có vẻ “Chánh sở”, anh gần gụi với đồng nghiệp cũ, thân thiện với giới trẻ, những phóng viên lứa đàn em và đặt sự tin cậy vào họ.

Tôi cho rằng Vũ Ánh đã học được cách điều hành của các Tổng Giám đốc Nguyễn Ngọc Linh và Vũ Đức Vinh. Các ông sếp này rất tin tưởng và dám sử dụng anh em trẻ vào những sự kiện thời sự mang tầm vóc quốc gia.




Nhóm nhà báo Việt Nam Cộng hòa tháp tùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu công du Hoa Kỳ hồi tháng 4 năm 1973, trong đó có nhà báo Vũ Ánh (thứ hai tính từ trái) và tác giả (thứ ba tính từ phải). (Ảnh do tác giả cung cấp)

Ông Linh được cho là một nhà cải cách truyền thông ở Việt Nam vào thập kỷ 1960 và hẳn ông đã hài lòng về các học trò của mình. Vì họ đã thực hiện những cải cách của ông, vốn chưa từng có ở Việt Nam. Điển hình như ngừng chương trình phát thanh thường lệ để phát một bài tường trình từ mặt trận thu qua điện thoại, hay một sự kiện thời sự quan trọng vừa diễn ra, nó có bóng dáng hình thức Breaking news bây giờ.

Thời đó những cải cách như thế bị giới lãnh đạo bảo thủ làm khó dễ rất nhiều. Có lẽ họ muốn an toàn, họ sợ ‘mất ghế’, vì làm truyền thông tranh nhau cái nhanh, đa dạng, hấp dẫn, năng động, đồng nghĩa với dễ sai sót.

Vũ Ánh là một trong những nhân tố góp phần vào các cải cách đó, khi anh nhanh chóng từ một phóng viên trở thành một cấp chỉ huy trong vai trò người điều hành.

Tôi có thể nói gì về Vũ Ánh? Một phóng viên mang tinh thần xung phong, một nhà bình luận có những phân tích sâu sắc các sự kiện và ảnh hưởng của nó, một điều phối viên có những quyết định đúng lúc và hợp lý trong tổ chức hoạt động của khối thời sự, bao gồm tin tức, phóng sự và bình luận của Hệ thống Truyền thanh Quốc gia.

Còn trong đời thường, bên ngoài công việc, trước những năm 75, Vũ Ánh như thế nào? Anh đặc biệt không bia không rượu, thích hội hoạ, nghe nhạc, đọc sách, chơi tennis và bơi lội. Những sở thích lành mạnh. Chúng phù hợp với tính cách của anh, một con người trong sáng, hiền lành và tốt bụng nhưng khi cần sẽ quyết liệt như một cú smash trong tennis.

Có những lúc cả phòng phóng sự rủ nhau đi nhảy đầm, Lê Phú Nhuận nhảy giỏi lại có nhiều bạn nhảy, Vũ Ánh cũng tham gia với anh em nhưng có lẽ đây là những cuộc vui anh không thích lắm.

Lúc còn độc thân, Vũ Ánh tỏ ra không chú ý gì tới các đồng nghiệp nữ dù chỗ chúng tôi có không ít những biên tập viên, phiên dịch viên, phóng viên, nếu không gọi là xinh đẹp thì cũng rất mặn mà. Chính vì chỗ anh không dòm ngó, đùa cợt với các đồng nghiệp nữ, nên tôi thường nghe chị em nói: “Ai lấy được ông bụt Vũ Ánh là phúc cả đời”. Song cũng có cô đáp trả: “Phải ở với nhau thì mới biết có ‘bụt’ hay không ạ”.

Vũ Ánh nằm trong số rất ít cấp chỉ huy không bỏ công việc, không bỏ anh em, nhân viên, ở lại nhiệm sở đến giờ cuối cùng.

Khi miền Trung thất thủ, anh đã cùng chúng tôi nghe qua máy liên lạc giai tần đơn với Đài Phát thanh Đà Nẵng, tiếp nhận những lời tạm biệt nghẹn ngào của Quản đốc Huỳnh Quy, báo cáo địch đã vào đến hàng rào.

Là người nắm vững tình hình – một bình luận gia sắc sảo, Vũ Ánh hẳn biết kết thúc thế nào nhưng anh vẫn bình thản chờ nó đến cùng các đồng sự. Giờ chót, điều khiến anh bận tâm là số phận của ba phóng viên trẻ, nếu tôi nhớ không lầm là Hoàng Hà, Nguyễn Thanh Nghiệm và một bạn nữa được cử đi lấy tin ở Long Khánh và các nơi khác.

Bên ngoài dẫu hỗn loạn, Vũ Ánh vẫn hiện diện để điều phối công việc. Khi chúng tôi thực hiện cuộc trực tiếp truyền thanh cuối cùng từ Dinh Độc Lập vào trưa ngày 28/4/1975, tường thuật lễ “trao nhiệm” giữa Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Dương Văn Minh.

Vũ Ánh vẫn ở tại Đài vào buổi chiều 28/4/1975 khi máy bay đã oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất.

Vũ Ánh là cấp chỉ huy duy nhất đã cử các phóng viên trẻ Lê Phú Bổn, Nguyễn Vĩnh Lộc cùng chuyên viên kỹ thuật đi thực hiện những cuộn băng cuối cùng, thu lời cụ Nguyễn Văn Huyền, Giáo sư Vũ Văn Mẫu trong ngày 29 tháng 4.

Sau này, tôi được các bạn trẻ kể lại, cho đến trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Ánh và nữ phóng viên trẻ Yến Tuyết, người 17 năm sau trở thành bạn đời của anh vẫn đứng bên ngoài vòng concertina, nhìn những người đeo băng đỏ tiến vào trụ sở Đài Phát thanh Saigon.

Giống như một thuyền trưởng, Vũ Ánh là người cuối cùng rời khỏi con tàu của mình.

Nguyễn Mạnh Tiến
18-3-2014


****************

Vũ Ánh, bạn tôi, một CON NGƯỜI


LTS: Nhà báo Nguyễn Thiên Ân đã nhận lời đề nghị của Sống Magazine, chia sẻ những kỷ niệm, suy nghĩ của ông về đồng nghiệp Vũ Ánh qua bài viết bên dưới.
Tác giả từng là Phóng viên, Biên tập viên của Đài Phát thanh Sài gòn, Biên tập viên của nhật báo Đuốc Nhà Nam, Chánh Sự vụ Sở Nghiên Huấn Kế của  Cục Vô tuyến - Truyền thanh VNCH. Năm 1974, sang làm việc cho Ban Việt ngữ Đài BBC. Khoảng giữa thập niên 1980 chuyển sang làm việc cho Ban Việt ngữ Đài VOA ở Washington D.C, Hoa Kỳ và nghỉ hưu cách nay khoảng mười năm. Ông đang sống tại Oklahoma...


Nhà Phật lúc nào cũng khuyên chúng sinh phải cố lánh xa tam độc. Tham, sân, si - theo các trưởng tử của Phật, là đầu mối cho mọi phiền não, thậm chí dẫn đến sa đọa trong đời này và địa ngục cho đời sau.

Nhà Chúa thì khuyên giữ đức nhẫn qua một câu nói vẫn được dùng làm phương châm ứng xử trong cuộc sống: "Kẻ tát má nầy, hãy chìa má kia nữa; người đoạt áo choàng, cũng đừng cản nó lấy lấy áo lót. Phàm ai xin, ngươi hãy cho; và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại" (*).

Đó là những lời khuyên của các hiền triết. Người trần mắt thịt có phần chắc là khó mà làm theo một cách trọn vẹn.

Làm sao để đừng tham khi vàng bạc, dê béo, rượu nồng, gái đẹp được dâng hiến ngay trước mắt mình? Làm sao để đừng thù hận khi cứ phải nhận hứng những hành hạ đớn đau đến tận cùng sức chịu đựng của thân xác? Làm sao để có thể bình tĩnh đến mức thản nhiên chấp nhận hầu như mọi đòn vọt trên xác thân, lẫn mọi nhục nhằn trên tinh thần mình từ những kẻ mà thường ra đều thấp kém hơn mình nhưng lại bạo thô gấp trăm lần người bình thường?

Nhà Phật khuyên một tình yêu tuyệt đối bằng lời khuyến cáo mọi tín đồ hành hạnh bồ tát. Nhà Chúa bảo hãy tha thứ cho kẻ khác đến bảy mươi bảy lần bảy. Tất cả, nói cho cùng, đều là những lời khuyên mà mục đích tối thượng chỉ là để tất cả chúng ta - vốn mang đầy cả nguyên tội lẫn kỷ tội - đừng hành xử quá gian ác đối với mọi loài đang cùng chia sẻ cõi trần ô trọc này với mình.

Đa phần đều không màng nghĩ đến những khuyến cáo thánh thiện đó trong lúc buồng phổi vẫn còn hít thở dưỡng khí và trái tim vẫn dư khả năng đều đặn bơm máu nuôi thân. Nhưng, nhìn một cách ít bi quan hơn thì chung quanh chúng ta vẫn còn có một số ít, rất ít, đã cố gắng sống và làm theo. Đấy chính là những người thuộc thành phần xứng đáng được tuyên dương và khâm phục.

Có quá chăng khi nói rằng bạn tôi thuộc số rất ít những người như thế?
Quá thì quả là có quá dưới tầm mắt quan sát sơ sài của người bàng quan. Nhưng trong tư cách hai người bạn, thân thích hơn anh em cật ruột từ non nửa thế kỷ qua, tôi có thể khẳng định điều vừa ghi. Và bên dưới tình thân thương, sự khâm phục, nỗi cảm thông lẫn nhau vẫn được chúng tôi chân thành dành cho nhau, tôi cũng có thể tự nhủ rằng tôi không hề quá lạm khi nghĩ như thế về bạn mình. Dĩ nhiên tôi cũng mong mọi người chung quanh nhìn bạn tôi y như thế.

Sinh ra và lớn lên vào thời chiến trong một xã hội nghèo khó và lúc nào cũng đong đầy hoạn nạn, khó có thể trách cứ người ta bon chen, kèn cựa, tranh giành, sang đoạt, bóc lột... kẻ khác để chiếm phần lợi cho mình và gia đình mình. Cái đó là bản chất của giống thấp hèn. Nhưng nếu tất cả đều như thế, chỉ như thế thì làm gì còn có hi vọng và còn có ai nói đến tình yêu và lòng từ bi hỉ xả? Sự kiện yêu thương từ bi hỉ xả vẫn được nói đến, dĩ nhiên phải xuất phát từ những hành vi đích thực hiển hiện.

Tuổi trẻ nào cũng xốc nổi và bồng bột. Thành thử nếu một kẻ đồng trang xuất hiện trước mặt mình, cao lớn, đẹp trai, cười cười nhỏ nhẹ và khi lên tiếng thì chứa chan những trầm ấm, dường như chỉ muốn nhường những hành động vừa bồn chồn, vừa có phần lớn lối cho những bạn trẻ vừa diện kiến lần đầu với mình thì sẽ rất khó mà không nhận ra sự khác thường đó. 

Lần gặp đầu trong Đài Phát thanh Saigon giữa hai chúng tôi là như thế. Tuy cũng chỉ là như thế nhưng nó cơ hồ đã trở thành một dấu ấn trong mọi liên hệ giữa chúng tôi suốt một thời gian dài sau này.

Bạn chịu khó, rất xông xáo và đa năng nhưng hình như chưa ai nghe bạn tôi phàn nàn chuyện gì, hay trách chê một ai khác.

Lần duy nhất trong đời, nghe đến tức cười là khi bạn tôi than đói, do bị bắt phải chờ đợi từ sáng sớm cho đến giữa trưa để theo dõi, ghi nhận và làm cho xong phóng sự buổi trình diện "nội các của người nghèo" vào ngày 19/6/1965 tại hội trường Diên Hồng. "Mẹ, đói quá!" Chỉ có vậy. Không nói gì hơn. Không thêm thắt chút nào nữa cho đến khi hoàn tất công tác.

Những lần đi theo các đơn vị quân sự để làm phóng sự chiến trường cho đài thì cũng y như thế. Vác cái máy Uher xệ vai, cộng thêm một mớ băng từ tính leo lên máy bay C47 nóng như lửa, hoặc bám theo những trực thăng tải quân mà khoảng trống dành cho phóng viên nhà nước chỉ vừa lọt thân người,... là những chịu đựng mà cam đoan các thính giả nghe qua làn sóng điện không thể nào hình dung nổi.

Thảng hoặc nghe, hay đọc thấy, tin một phóng viên, một nhiếp điện ảnh viên hi sinh trong khi theo dõi các cuộc hành quân thì quá lắm cũng chỉ thốt được nửa câu yên ủi: "Ờ thì sinh ư nghề tử ư nghiệp".

Cái chết và đám táng Khuất Duy Hải vì rơi trực thăng trên cao nguyên đã không hề được báo chí Saigon đăng tin. Anh Tử, cũng rớt trực thăng nhưng may chưa chết, rồi lẫn trốn, rồi lặc lè băng rừng tìm ra đường sống cũng chỉ được bạn bè chung quanh nghe biết, rồi thôi.

Những nhọc nhằn và nguy hiểm cận kề phóng viên chiến trường không bao giờ được người dân hậu phương ý thức hay biết đến. Quan trên chẳng màng. Huy chương tuyên dương không hề có.

Dạo đó dường như chỉ có một thượng cấp cảm thông được hoàn cảnh nguy nan của những phóng viên chiến trường, mà nếu so ra thì cũng không kém các chiến binh bao nhiêu để thỉnh thoảng xuất Quĩ Xã hội của đài ra trao tặng một tí tiền làm quà.

Sáng kiến đáng tri ân đó của Trung tá Vũ Đức Vinh. Sáng kiến này còn được ông sử dụng cho cả những phóng viên săn được tin và phát trên đài sớm hơn mọi cơ quan truyền thông khác. 500 đồng bạc thật chẳng đáng bao nhiêu khi đồng tiền cứ ngày một giảm giá. Nhưng ít nhất thì bạn tôi cũng có đôi chút ấm lòng khi ngồi ăn một tô phở trước khi nhâm nhi ly cà phê trong tiệm "Phở 44" ngay cửa đài. Tất nhiên bạn tôi không ngồi ăn một mình. Tiền thưởng công của bạn được chia đều. Vui vẻ, xuề xòa thưởng thức cho bằng hết "món tiền trời cho" rồi trở vào đài chuẩn bị cho chuyến đi sắp tới, có thể trở thành chuyến đi gọi là định mạng.

Bạn tôi lúc nào cũng thế, chấp nhận công tác đã giao cho mình, không ưu tư, không tính toán, không chạy làng, không tìm cách "bàn giao" cho người khác. Và bao giờ cũng viên mãn hoàn thành.

Đi làm phóng sự chiến trường thực ra chỉ là "chuyện nhỏ". Xây dựng lại cả một đài phát thanh, tuy tạm thời, ở Đà Nẵng, sau khi bị phá tan vào thời mệnh danh là "bàn thờ xuống đường", mới là một kỳ công. Nếu không có các kỹ thuật viên đa năng trong đài và không có bài vở, tiếng nói của đám phóng viên, trong đó đương nhiên có mặt bạn tôi thì công lao dựng đài của Sở Kỹ thuật Cục Truyền thanh cũng chỉ là công cốc.

Bạn bè chúng tôi vẫn cùng các anh trong Sở Kỹ thuật hợp tác tuồng như vui chơi cùng thế sự kiểu đó. Khi làm thì làm cho đến kiệt sức, khi ngưng làm thì quay sang chè chén với nhau cho đến khi hết khoản tiền còm trong túi.

Cũng cần nói thêm, “chè chén” là một từ ngữ mang tính thậm xưng đối với bạn tôi bởi đương sự - tuy rất đa năng, đa hiệu và không nề hà tham gia mọi thứ với bạn bè - nhưng lại không có khả năng uống rượu ("đa năng" cũng là một từ ngữ thậm xưng chăng?). Trong lúc vui đùa, bạn tôi hay bào chữa: "Ừ tụi bay một ly rượu thì tao theo một ly cô ca, tới đâu thì tới". Thời đó,"thằng say cô ca" là biệt danh vẫn được dùng thay cho tên bạn tôi mỗi khi chúng tôi hò nhau đi ăn nhậu.
Bỏ ngoài cái tệ không biết nhậu rất đáng dung thứ thì có phần chắc là cái tài viết lẹ, viết hay và viết đúng đã dẫn bạn tôi tới chức Chủ sự Phòng Bình luận. Trong những năm cuối mùa, bạn được giao cho Sở Thời sự (gọi là Trưởng Phân khối vào thời ngành Truyền thanh Truyền hình và Điện ảnh nằm dưới quyền điều hành của ông Hoàng Đức Nhã).

Bình luận trong đài vào thời gian đó chẳng khác chuyện ăn cơm bữa. Các cây viết bình luận trong đài ngày nào cũng phải cung cấp đủ bài cho các xướng ngôn viên đọc mỗi đầu giờ. Cái hay của bạn tôi là tuy phải đảm trách một công việc nhàm chán nhưng nếu tôi nhớ không lầm thì chúng tôi chưa bao giờ bị khiển trách vì tội viết sai chính sách.

Một đôi lần Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến đài đọc trực tiếp một thông điệp "Cùng quốc dân" hoặc "Cùng các sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ các cấp". Quần chúng khán thính giả khó mà tưởng tượng được là bản văn bài bình luận đã được viết cùng một lúc với lời trực tiếp truyền thanh và phát hình của Tổng thống Thiệu.

Rõ hơn, nguyên thủ quốc gia nói tới đâu thì bạn tôi ghi nhận và bình luận theo tới đó. Tuyên đọc xong thông điệp thì ông ra ngoài phòng vi âm và... chỉ sau một bản hùng ca, bài bình luận do bạn tôi viết ngay tại chỗ, lập tức được đọc lên. Cũng may mà chưa lần nào ông Thiệu tỏ ra không hài lòng. Cái mẫn tiệp của bạn tôi đã nhiều lần được tưởng thưởng bằng... một cái bắt tay. Bạn tôi chẳng màng. Công việc nào rồi cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành... như một công tác thường ngày như một chuyến bay theo các đơn vị quân sự thời còn làm phóng viên chiến trường.

Tới đây, tôi cũng xin phép mở một ngoặc đơn để đính chánh một chi tiết không được đúng, cho rằng, bạn tôi có thời đã chấp bút soạn các diễn văn và thông điệp cho Tổng thống Thiệu. Trên thực tế thì bạn tôi chưa hề có vinh dự giữ vai trò đó tuy có thừa khả năng. Và dĩ nhiên cũng thừa ý thức trách nhiệm để sẽ điềm đạm và nhún nhường khước từ vinh dự và trọng trách đó. Biết tính bạn, tôi đoán vậy nhưng có lẽ cũng không sai.

Thỉnh thoảng, dạo đó, bạn tôi đôi khi được gọi lên Bộ để được giao trực tiếp các chỉ thị phải viết những bài bình luận theo đúng đơn đặt hàng của Phủ Đầu Rồng. Lên đó, nhận lịnh, lẳng lặng viết rồi... thôi, không khoe khoang vinh dự vừa nhận được mà cũng chẳng than vãn vì đã bị buộc phải qua mặt người trực tiếp chỉ huy mình trong đài.

Tính bạn tôi muôn thuở vẫn trung thực, chiều chuộng bạn bè nhưng luôn luôn thẳng thắn. Với cấp trên thì chẳng ngại bày tỏ ý kiến của mình. Có thể vì vậy mà bạn tôi được trọng nể bởi bè bạn lẫn các giới chức cao cấp trong hệ thống chỉ huy.

Vào những năm ông Hoàng Đức Nhã đảm trách bộ Dân Vận, hình như đã có lần bạn tôi được đề cử Chương Mỹ Bội Tinh cùng với vài nhân viên khác trong đài, mà nghe đồn là có cả Nguyễn Mạnh Tiến và tôi. Nhưng huân chương làm kiểng đó cũng chỉ hững hờ đứng yên ở vị thế được đề cử. Dù vậy tôi vẫn lạc quan coi đó là một bằng cớ chứng tỏ sự thương mến, hay ít nhứt cũng là quan tâm, của nhân vật mà dạo đó được coi là đệ nhị thẩm quyền trong chính giới.

Tôi đã suýt quên tính chung thủy của bạn tôi. Đã là bạn bè thì liên hệ đó không bao giờ thay đổi. Và là người bạn tôi yêu thì đã đành là muôn thuở nhưng vẫn chẳng ngại khuyên người mình yêu hãy tìm đường tự cứu, khi biết mình đã sa cơ và có phần chắc là sẽ rũ tù sau cái ngày cuối tháng tư định mệnh.

Tính chung thì cũng đến cả 13 năm từ lúc mang tấm thân đầy mủ máu đứng trong tù nhìn người mình yêu đổ lệ rời đi, cho tới khi gặp và nối lại ân tình cũ.
13 năm xa cách, cộng thêm 20 năm đằm thắm trong tình cũ nghĩa xưa, phải nói là biết bao mặn nồng để đáp đền cho lòng chung thủy của cả hai người.

Chính nỗi nuối tiếc cho cái ân tình mà đáng lẽ bạn tôi đã phải hưởng được từ trước 1975 đã khiến bọn tôi nhiều khi cứ cật vấn: "Làm cái quái gì mà mày cứ ngồi trong đài vào những ngày vô vọng ấy để phải chịu cảnh lết lê tấm thân tù tội từ Nam ra Bắc như vậy?". Bạn tôi chỉ cười khè khè: "Mẹ, bỏ chạy thì những nhân viên còn trong đài đó làm sao?"

Ý thức trách nhiệm ấy chỉ thiếu một ly là đã giúp bạn nằm đội một nấm mồ vô chủ đâu đó trên đất Bắc hay gần trại A20. Cũng may mà bạn đã không bại liệt sau nhiều năm cùm gông trong xà lim biệt giam. Nhưng dù sao thì cũng phải nhận rằng ơn trên đã đền bù bạn tôi trong mấy chục năm cuối đời. 13 năm tù vẫn giữ nguyên được một hàm răng cứng chắc không hư cái nào, nhờ đó mà chén cơm do người mà bạn tôi yêu cung phụng suốt hơn 20 năm qua chắc đã ngon hơn nhiều.

Nhiều lần gặp nhau hàn huyên trong những năm sau này, bạn tôi dường như đã quên hẳn những năm dài lao lung. Những bài báo hàng ngày do bạn tôi viết từ mấy chục năm nay cho thấy bạn dường như chẳng còn ôm chút hận thù nào.

Hình như bạn tôi đã nhìn thấy ở học giả Hoàng Liên một tấm gương rất sáng khi cụ chỉ một mực ôn tồn, chẳng hé một lời ta thán trong tác phẩm mặc dù cụ đã bị bắt và đọa đày từ dạo Tết Mậu Thân. Người như cụ Nguyễn Văn Đãi và bạn tôi có lẽ đã đọc qua và thấu hiểu một châm ngôn của người Ái Nhĩ Lan:

Always remember to forget the things that made you sad
But never forget to remember the things that made you glad

Người mà bạn tôi đời đời yêu dấu, người cũng đã đời đời yêu dấu bạn tôi và người mà từ ngày 14 tháng 3 vừa qua đã thành một sương phụ, hơn ai hết, sẽ xác nhận với tất cả rằng, bạn tôi quả đã sống một đời như thế: Không bao giờ tham lam sân hận mà chỉ luôn nhớ những gì làm mình vui thú trong đời.

Nguyễn Thiên Ân
(*) Luca 6:29, bản dịch của LM Nguyễn Thế Thuấn, Dòng Chúa Cứu thế


****************

Miếng cơm cháy, sẽ cùng anh ra biển


Bữa cơm trưa Thứ Sáu thường lệ tại tòa soạn Sống Magazine từ nay thiếu bóng anh.

Tôi điện thoại cho anh Vũ Đình Trọng khi vừa về đến nhà, sau khi rời tòa soạn chỉ cách đây 10 phút, định dặn dò thêm một vài việc liên quan tới bìa báo tuần này, anh cắt ngang, "Khoan, tin động trời!", chưa kịp hỏi, anh lắp bắp nghẹn ngào, "Anh Vũ Ánh mất rồi!". Tôi hét toáng, "Cái gì? Cái gì? Cái gì...?"
Đó là cuộc đối thoại cực ngắn, cực shock, cực tai ương chưa từng có trong đời tôi, đã xảy ra vào lúc 6 giờ 45 phút tối Thứ Sáu, 14 tháng Ba, năm 2014.

"Chúng ta phải đến gặp chị Yến Tuyết ngay." Tôi nói nhanh với anh Vũ Đình Trọng, "Không, cô con gái trả lời phone nói mẹ dặn không ai đến trong lúc này cả", anh trả lời yếu ớt. Tôi dứt khoát, "Không, với ai thì khác, chứ với mình, phải đi thôi, phải gặp để biết chuyện gì đã xảy ra với anh Vũ Ánh." Anh Trọng đồng ý.

Anh lái từ tòa soạn, tôi từ nhà, chúng tôi ra đi từ hai hướng...

Trời tối sập toàn phần bên ngoài, phủ tràn một màu đen trong lòng tôi từ đó.
Trên đường đi, tôi khóc, tôi lái xe, tôi bức đầu nát ruột. Gọi khẩn cấp báo cho Thái Hoàng, cho Liêm, anh Ngọc Hoài Phương, Bích Nga, chị Huỳnh Lưu, sau khi chia phần anh Trọng báo gấp cho Hằng Nguyễn. Người bắt máy, người không, người nói bị lộn số... Mặc kệ, tôi hành động như người vô thần mất trí. Một tay lái xe, một tay chóng cằm, thân tôi rũ như tàu lá, miệng nhấp nháy làm xàm với chiếc điện thoại để trên đùi, xe loạng choạng di chuyển khập khễnh lấn lane, thiếu tập trung. Bên sau bóp còi, bên hông quay kiếng tò mò nhìn, người lái xe say rượu... Mặc kệ, có gì quan trọng hơn chuyện sét đánh vừa xảy ra...

Chị Yến Tuyết và tôi ôm chầm nhau ngay cửa bếp, khóc, gào, thét nghèn nghẹn, "Anh Ánh đi rồi em ơi!". Tiếng thổn thức rõ mồn một, "Em không tin. Em không chấp nhận. Anh hẹn trưa nay như thường lệ ra ăn cơm với tụi em mà..."

Đến hẹn, nhưng sao anh lại không đến...?

Lần đầu tiên anh thất hứa. Lần thứ nhất anh không giữ lời. Và là lần duy nhất từ ngày quen biết. Tôi thất vọng về anh!!! Anh đã hẹn và cuối cùng mang lời hẹn về bên kia thế giới, để người còn ở lại, mãi mãi chờ đợi, bóng dáng anh...
Anh Trọng ngồi ủ rũ nơi bàn ăn, "Không biết làm sao mà anh lái xe tới đây được nữa", anh thiều thào với tôi. Con cái, đứa ngồi, đứa đứng, đứa đi lòng vòng. Ba người cảnh sát yên lặng khô khan làm phận sự. Không khí lao xao xáo trộn trong cái yên tĩnh rợn người. Bốn bàn tay vẫn nắm chặt, sụt sùi, cố từ chối một sự thật.

Đồng hồ chỉ 7 giờ 50 tối...

Tôi xin phép chị Yến Tuyết vào phòng nhìn anh lần cuối. Mùi nhang tỏa nhẹ khắp phòng. Anh nằm trên sàn nhà ngay ngắn, thân phủ tấm mền mỏng, mắt nhắm, mặt thanh thản, không một nét đớn đau, lưu luyến. Anh ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng vậy sao anh Ánh?

Nhìn khuôn mặt đĩnh đạt dù không còn cặp kiếng tròn, mái tóc bạc lưa thưa gọn gàng... Giọng nói Hải Phòng anh như cuồn cuộn ập tràn về, "Chúng tôi là những người viết báo, còn cô là người làm báo. Tuổi thọ của tờ báo dài được bao nhiêu là do sự điều hành của cô đó, Trọng nó không có khả năng quản lý đâu nhé!" Lời, vừa nhắn nhủ, vừa dặn dò, còn hôi hổi như mới hôm qua. Giờ anh nằm yên bất động. Người cố vấn mà chúng tôi kính trọng như bậc thầy, đang thẳng giấc thiên thu. Người anh cả trong gia đình chăn dắt chỉ dạy đàn em, đâu là lề phải, lề trái, trong công việc quảng bá truyền thông, đang an ngủ. Sẽ không còn bao giờ thức dậy...

Tiếng lào xào di chuyển trong căn nhà yên tĩnh, không khí ảm đạm nặng nề, tiếng nấc nghẹn sụt sùi hòa cùng tiếng điện thoại reng tới tấp, khẩn cấp, vẫn không thúc dục người và thời gian đi nhanh hơn...

Nhà quàn đến làm thủ tục. Người ta nhấc anh lên băng ca, chừa mặt cho chúng tôi nhìn lần cuối. Đây có lẽ là giây phút cực kỳ khó khăn nhất mà tôi chưa từng trải nghiệm qua trong đời. Chị Yến Tuyết nấc nghẹn trên vai tôi, tay chúng tôi vẫn nắm thật chặt, "Người ta mang anh Ánh đi rồi em ơi!" Phải, chị ạ, người ta mang anh rời khỏi căn nhà, nơi anh chị có quá nhiều kỷ niệm, hạnh phúc, mà có lần chị chia sẻ, "Anh Ánh, my blessing". Và tôi cũng có thể quả quyết một điều, không ai có thể mang anh, người bạn đời cùng đồng hành trong khăn khó của nửa quãng cuối, ra khỏi tâm hồn chị, người mà chị luôn hãnh diện và tự hào...
Nhà quàn ra dấu cho chúng tôi tránh xa, chiếc khăn trắng phủ kín mặt anh, băng ca từ từ lăn bánh ra cửa. Một sự chia ly não nuột, đứt lòng.

Đồng hồ chỉ 8 giờ 30. Và hình như đứng lại ở đó...

Tôi thèm chiếc đồng hồ quay ngược lại, một lần thôi, và cuốn lịch lật trở lại, chỉ nửa trang, để tôi được:

Sống lại quãng thời gian, mới cách đó chừng...

Nơi có căn phòng nhỏ, làm chỗ họp hành, vạch vẽ đường đi cho một sự Sống. Và mặn mà nhất là chỗ của mỗi trưa Thứ Sáu, 12 giờ, "Đến hẹn lại lên". Nơi đó, anh Trọng luôn phụ trách bới miếng cháy tận cuối nồi, phần cơm anh thích nhất. Tụi tôi, thèm lắm cũng chỉ được ngắt lẹm một miếng nhỏ, mà dành hết phần nhiều cho anh. Anh vừa nhai miếng cháy, chậm rãi kể đủ chuyện, Nam - Trung - Bắc, chuyện ngày anh làm ở đài phát thanh Sài Gòn, đi làm phóng sự chiến trường, chuyện tù, v.v... Mà vùng nào, việc nào, thứ nào, anh cũng rành thau tháu. Bích Nga, Hằng, tôi trố tròn thán phục, "Trời ơi! sao cái gì anh cũng biết hết vậy", trong đó Bích Nga và tôi là hai đứa ngố tận cùng, nhất là về các món ăn đặc sản từng miền. 

Anh sống đơn giản, ăn uống dễ tánh không cầu kỳ. Và đặc biệt nhất, tôi chưa từng nghe anh trách cứ, kết tội ai, kể cả những người đã đưa anh vào gông cùm xiềng xích, những người nhận xét hời hợt phiến diện về anh, về những bài Sổ tay viết đúng, viết thẳng của anh. Sau buổi ăn, anh luôn ngồi lại rất trễ với anh Trọng và tôi, dặn dò nhiều chuyện, về đường hướng, tôn chỉ, và nhất là nhiệm vụ của người làm truyền thông, phải: Thẳng thắng, trung thực, tôn trọng mọi ý kiến đóng góp, v.v...

Sống Magazine đi và đứng thẳng được ba năm nay, là do sự dìu dắt tận tâm, trách nhiệm của người cố vấn...

Anh Vũ Ánh ơi!

Thứ Sáu tới đây, chưa ai nói, nhưng tôi biết chắc không còn ai đủ can đảm để rủ rê, nhắc nhở về bữa ăn "đến hẹn lại lên" có từ 3 năm nay. Vì làm sao mà không khóc được, khi từ Thứ Sáu tuần rồi, chúng tôi đã bắt đầu thiếu anh, thiếu anh mãi mãi trong bữa cơm đã thành thông lệ. Và cũng từ đây, miếng cơm cháy, chúng tôi biết để dành cho ai, khi phần này đã thuộc về anh...

Thôi thì ....

Xin cho phép tôi, gởi miếng cháy này theo anh, ra biển. (kh.)


************************


Vũ Ánh: Món Nợ Văn Hoá & Tình Chiến Hữu


Sáng nay dậy sớm check mail, tôi thấy bàng hoàng về cái tin “Thương tiếc chiến hữu Vũ Ánh” của anh Võ văn Sáu (Góp Gió), người bạn cùng trại tù A20 Xuân Phước với anh. Tôi không mấy tin vào sự thực của tin tức trên mạng.
Nhưng khi đọc bài chia xẻ tâm tình của anh, thấy nhắc tin anh Tống Phước Hiến “ chia buồn” tôi mới lặng đi và tin đó là sự thực...

Đúng ra tôi với anh Vũ Ánh không quen biết nhau nhiều. Anh chỉ là người bạn của chú em tôi Phạm đức Nhì, bạn tù với anh ở Trại Trừng giới Xuân Phước mà chú tôn là bậc đàn anh rất thân thiết và tôn qúy. Từ đó qua giao tiếp của em tôi, tôi có dịp gặp gỡ đôi lần.

Trước đây khi còn trong quân ngũ ở bên nhà, tôi biết rất ít về anh vì mỗi người phục vụ ở mỗi môi trường riêng. Tôi thực sự biết đến tên anh qua bài phóng sự về một đơn vị Nghĩa quân thuộc Vùng Bốn Chiến Thuật. Chuyện kể về anh trung đội trưởng nghĩa quân ở vùng quê “xôi đậu”. Gia đình có hai anh em đã trưởng thành, vẫn sống chung với mẹ. Anh là lớn rất cương nghị có lập trường quốc gia sắt thép, đã đối xử với người em theo CS một cách rộng lượng nhưng cũng rất cương quyết, khiến bà mẹ vì thương con phải cưu mang, vô cùng khó xử. Đã lâu lắm rồi không còn nhớ hết tình tiết câu chuyện, nhưng qủa thực bài viết của anh đã tạo ấn tượng sâu sắc trong tôi về những giằng vặt và ngang trái của những đứa con khác chính kiến cùng một mẹ, và những đớn đau thổn thức của bà mẹ Việt Nam.

Sau này tôi có biết tên và vai trò chứng nhân của anh những giây phút cuối cùng của Miền Nam Việt Nam, qua việc thu băng lệnh đầu hàng của TT Dương văn Minh tại Đài phát thanh quân đội như anh Võ văn Sáu đã kể, nhưng tôi vẫn chưa từng biết mặt.

Trong những năm sau này, chú em tôi có gởi cho tôi những bài viết về những hoạt động báo chí văn nghệ phản kháng trong trại A20 với những bài thơ nhạc nức lòng tranh đấu của những người trẻ, dù bị ngược đãi  tận cùng, nhưng vẫn hiên ngang không biết sống chết là gì.  Trong những tác phẩm đấu tranh viết bằng máu và nước mắt đó có những bài Thơ Chống Cộng hừng hực chí căm hờn và bài viết của chú: “ Những Tiếng Hát Bừng Sáng A20.” Qua đó tôi biết được vai trò của anh Vũ Ánh, một người gương mẫu gan dạ, được sự tín cẩn, khâm phục, nể vì của các anh em trong vai trò lãnh đạo văn nghệ và báo chí đấu tranh. Tất nhiên trong hoạt động phản kháng anh em đã phải chịụ đựng sự đàn áp khát máu của cai tù, nhưng theo chú, mỗi khi gặp tai ương anh đều nhận hết trách nhiệm thay cho các anh em khác. Đây là một điểm son mà anh em ghi nhận và khâm phục ở phong cách, lý tưởng và bản lãnh nơi anh.

Rồi một lần, cách nay có đến trên mười năm, chú em tôi Phạm đức Nhì từ Texas qua chơi, chú có mời anh chị Vũ Ánh đến nhà. Lúc ấy anh Vũ Ánh có lẽ khoảng sáu mươi, tóc còn đen và trông rất chững chạc.

Đây là lần đầu tiên tôi được hân hạnh biết anh chị Vũ Ánh. Lúc ấy gia đình chúng tôi qua Mỹ cũng chưa lâu, chị Yến Tuyết đã làm ở cơ quan an sinh xã hội nên rất sốt sắng trao đổi với chúng tôi những thông tin hữu ích mà chị biết. Riêng anh, dù chỉ mới sơ giao nhưng qua câu chuyện trao đổi, tôi nhận thấy ở anh một mẫu người điềm đạm, hiểu biết và chân tình. Điều làm tôi cảm động và lúng túng, đã giữ mãi ấn tượng đến nay là ở chỗ cá tính khiêm cung, trung thực trong cách xưng hô mà tôi gọi là “món nợ văn hoá.” Tôi mong ước được thanh thoả khi có dịp gần gũi hơn, nhưng chuyện đã không bao giờ có thể...

Số là, vốn biết tôi vai anh của chú Nhì nên khi gặp mặt, anh rất vui vẻ tự nhiên. Anh “xưng em” với chúng tôi một cách thoải mái, chân tình mặc dù tuổi tác lúc ấy tôi được Nhì cho biết, trên tôi vài tuổi.

Tất nhiên tôi rất e ngại và cảm thấy lúng túng ngại ngùng. Tôi thành thực xin anh coi như bè bạn, vì anh cũng là một chiến hữu, còn chú Nhì là trong thân tộc họ hàng. Anh chậm rãi trả lời, vì anh chơi với chú em tôi như anh em trong gia đình nên cũng coi tôi như anh.

Câu trả lời và cách cư xử của anh rõ ra là một người đôn hậu và thấm nhuần văn hoá dân tộc. Mặc dù tôi rất ngại ngùng, không thuyết phục được anh thay đổi cách xưng hô, nhưng tôi phải nhìn nhận tính khiêm cung nhân hậu của anh là một ưu điểm hiếm thấy nơi những thế hệ sống tại hải ngoại “qúa dồi dào lòng tự hào” như chúng ta. Tôi trộm nghĩ, nếu như mọi người đều trong lòng thành thực cư xử tử tế vơi nhau như anh, chắc hẳn cộng đồng chúng ta phải khác nhiều như chúng ta hằng mong ước.

Lần thứ nhì cách nay không xa, anh đến tôi để đón chú em đi dự buổi hội ngộ các bạn tù A20 tổ chức tại Cali. Lần này tóc anh đã bạc nhiều. Trông anh khá bận rộn nhưng vẫn còn khoẻ mạnh. Tranh thủ gặp anh, tôi có hỏi về câu chuyên ông thày bói và báo xuân Người Việt dạo nào, anh rầu rĩ tâm sự, quả là lỗi của anh. Là chủ bút tờ báo xuân anh chiụ hoàn toàn chịu tràch nhiệm. Lý do là, bận rôn quá anh ngủ thiếp đi không kìểm soát hết được bài vở lên khuôn, nên đã có kẻ lợi dụng. Anh rất ân hận về việc làm tắc trách đó và xin chịu trách nhiệm trước độc giả.

Hôm nay anh đã vĩnh viễn ra đi ở tuổi bảy ba. Với anh, tôi nghĩ lương tâm không có gì phải ân hận dù anh trong khi làm việc có phạm một vài sai sót ngoài ý muốn. Tôi thành tâm nghĩ rằng một người có tấm lòng nhân hậu với bạn bè và tha thiết với quê hương như anh, phải được đối xử công bằng; đừng để những ngộ nhận làm nản lòng và che phủ những tầm lòng cao đẹp đã có một thời cùng chung chí hướng hiến dâng cho quê hương đất nước khổ đau. Xin hãy trả lại cho gia đình anh niềm hạnh phúc và tự hào đã cùng anh chia xẻ.

Vĩnh biệt anh Vũ Ánh! Món nợ văn hoá tôi không bao giờ được trả, nhưng những tình cảm qúi mến trong tôi vẫn mãi hướng về anh.

Xin nguyện cầu ơn trên ban hồng phước cho anh được an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng,

Xin chân thành chia xẻ sự mất mát to lớn của chị Yến Tuyết và các cháu.
Một chiến hữu qúi mến và thương tiếc anh, 

Phạm Đức Khôi
Khóa 1, ĐH/CTCT/ĐL




 ************************ 


Vũ Ánh, một chiến sĩ cầm bút nghiêm chỉnh 

Friday, March 21, 2014


Nguyễn Tuyển

Khi tôi từ chiến trường Long Khánh đeo theo một chiếc Chinook vừa thả một đơn vị Nhảy Dù quay trở ra Long Bình, tôi thuê xe Honda ôm chạy về Ðài Sài Gòn. Hôm đó, tôi cũng không ngờ đó cũng là ngày cuối cùng của mặt trận Long Khánh mà lúc sáng sớm, tôi còn ngồi với tư lệnh mặt trận, Tướng Lê Minh Ðảo, ở bìa rừng cao su.
Trước khi bước qua vọng gác an ninh, một sĩ quan Cục An Ninh Quân Ðội đối diện với Ðài Phát Thanh Sài Gòn mà tôi quen biết cho hay “chúng nó” bao quanh Sài Gòn đông lắm.
Nhà báo Vũ Ánh (phải) và nhà báo Trần Công Sung. (Hình: Nguyễn Tuyển cung cấp)

Vào Sở Thời Sự của đài, tôi nhìn thấy dấu hiệu có vẻ không bình thường. Nhiều người không có mặt và cũng không biết ở đâu. Riêng Vũ Ánh, chánh sự vụ Sở Thời Sự thì ngồi ở đó, nghiêm chỉnh làm việc.

Tôi cho Ánh hay là tôi không mang được gì khả dĩ hữu ích cho một bản tin hay một phóng sự về mặt trận Long Khánh dù tôi ở đó 4 ngày đêm. Từ những lời Tướng Lê Minh Ðảo nói với tôi đến những gì tôi phỏng vấn người dân đều không dùng được khi mà dân cả nước đang thật cần các tin tức tình hình chiến sự.

Tôi hỏi Ánh tính sao khi có người lo tìm cách chạy. Nếu tôi nhớ không lầm, Ánh nói với tôi rằng Ánh không đi đâu cả. Ánh đã chuẩn bị một khẩu Carbine báng gấp, vài băng đạn và hai bộ bà ba đen với một ít đồ cần thiết bỏ trong ba lô. Thủ ở đài và tiếp tục làm việc nếu có đơn vị quân đội nào đến tăng cường giữ đài. Còn nếu phải chạy đi đâu với cơ quan, đơn vị nào, thì Ánh đã sẵn sàng.

Không may, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng ngày 30 tháng 4, 1975. Rồi Ánh bị bắt đi tù suốt 13 năm trời trong cái địa ngục trần gian.

Khi được chuyển từ một phòng khác sang Sở Thời Sự làm phóng viên thời sự sau những ngày đi làm phóng sự chiến trường dịp Tết Mậu Thân (1968), tôi mới biết Ánh. Cho tới nay, dù ở cương vị nào, Việt Nam hay làm báo ở hải ngoại, lúc nào tôi cũng thấy một Vũ Ánh nghiêm chỉnh làm việc, chu toàn nhiệm vụ. Tôi không hề thấy Ánh đổ lỗi cho ai. Kể cả trường hợp khẳng khái nhận trách nhiệm vì mình là cấp chỉ huy mà xảy ra cái chuyện bất như ý, tai hại như thế, do người cấp dưới làm.

Ở Ðài Phát Thanh Sài Gòn, dù khi làm chánh sở, với các nhân viên cấp dưới nhưng cùng trang lứa mà chức vụ chỉ là phân chia trách nhiệm để chỉ huy điều hành, Vũ Ánh với chúng tôi, biên tập viên, phóng viên lúc nào cũng “mày tao” với nhau. Tôi không thấy Ánh lấy chức vụ để “đì” hay “bắt nạt” cấp dưới.

Tại nhật báo Người Việt ở Quận Cam, khi làm tổng thư ký hay chủ bút, Vũ Ánh vẫn cách cư xử bạn bè không thay đổi sau cuộc “đổi đời.” Cung cách làm việc cũng vẫn chăm chỉ, nghiêm chỉnh không đổi. Vẫn mày tao. Vũ Ánh là một chiến sĩ khẳng khái, cương nghị, nhìn thấy cái gì bất bằng hay cần phải viết là viết theo đúng lương tâm của một người cầm bút có tinh thần trách nhiệm. Không sợ hãi, không bỏ chạy.

Tôi không theo kịp được Vũ Ánh.

Nguyễn Tuyển



**********************


Vũ Ánh, một nhà báo, một chứng nhân, một nạn nhân, và một anh hùng 


Friday, March 21, 2014

Triều Giang

Tin nhà báo Vũ Ánh qua đời đột ngột làm 
sửng sốt giới truyền thông Việt hải ngoại. Vũ Ánh, người có tuổi nghề trên 50 năm và tuổi đời ở luống “thập cổ lai hy” nhưng còn rất năng động. Mọi người thấy như mới hôm qua, ông xuất hiện trên truyền hình phân tích thời sự thế giới, hoặc đọc được một bài bình luận của ông trên một tờ báo, hoặc một bài nhận định trên Internet với lý luận sắc bén, và còn đầy nhiệt huyết của tuổi 30, 40.

Nhưng một cơn tai biến đã xảy ra. Ông đã ra đi như một cái chớp mắt. Chuyến đi cuối cùng không bao giờ trở lại không mang một dấu chỉ từ trước khiến cho gia đình, người thân không khỏi bàng hoàng, thương tiếc, khó tin. Nhiều người đã nghĩ rằng, nếu được chọn một cách chết; chết như ông thật là nhẹ nhàng và hạnh phúc vì không phải chịu đớn đau, người thân không phải vất vả. Nhưng với tôi, Vũ Ánh đã không chỉ biết chết, mà ông cũng đã biết sống. Sống một đời oanh liệt của “người trai thời loạn.” Sống với một tinh thần trách nhiệm của “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách,” đáng kính, đáng nể.

Tôi được biết Vũ Ánh khi tôi vào làm việc tại nhật báo Sóng Thần năm 1971. Vũ Ánh lúc bấy giờ đang làm tại Ðài Phát Thanh Sài Gòn, nhưng vì lương công chức eo hẹp nên ông phải làm “job” thứ hai tại nhật báo Sóng Thần. Mỗi sáng ông đến tòa soạn rất sớm để dịch tin của các hãng tin ngoại quốc như Reuter, UPI, AP hay AFP của Pháp. Khoảng 9 giờ sáng, ông rời tòa soạn vội vã để đi làm “job” thứ hai. Lúc nào cũng thấy ông bận bịu, hối hả. Nhưng vì thích thể thao nên ông thường mặc quần xọc xanh đậm, áo “pull” và giày Adidas màu trắng, vai luôn đeo túi vợt “tennis” để sau khi đi làm, ông ghé vào sân tennis vẫn được gọi là “xẹc,” tại vườn Tao Ðàn để đánh banh. Với dáng cao, da trắng, gương mặt thanh tú, tánh tình hiền lành, ít nói, ông lại có nụ cười hiền hậu, ông đã là một trong những “người hùng” của nhiều bóng hồng Sài Gòn ngày đó.
Tuy làm cùng sở nhưng tôi và ông rất ít trao đổi, chuyện trò. Ngoài mỗi đầu tháng và giữa tháng ông ghé lại bàn viết của tôi để nhận chi phiếu tiền lương, vì tôi còn giữ một chân trong ban trị sự, phụ tá quản lý Nguyễn Ðức Nhuận, ngoài việc trông coi trang Thiếu Nhi “Khu Vườn Của Em” qua bút hiệu Trâm Khanh và sau đó là trang Sinh Viên ký tên Triều Giang như hiện nay. Trang báo này do nhà báo Ðỗ Ngọc Yến vì nhận công việc khác nên đã trao cho tôi. Do đó, tình cảm giữa tôi và Vũ Ánh trong những ngày tháng đó, chỉ là tình đồng nghiệp, đồng sở, dù tôi cũng như mọi người đều rất nể nang ông vì tư cách chững chạc, và cũng vì ông là một trong những nhà báo trẻ được huấn luyện bài bản có khả năng chuyên môn và cách làm việc nhanh nhẹn, hữu hiệu. Phải nói, Vũ Ánh là một trong những ký giả trẻ sáng giá nhất vào thời đó.

Nhà báo Nguyễn Tuyển, bạn lâu năm của ông cho biết: Vũ Ánh là một trong vài phóng viên trẻ lúc bấy giờ được chọn để học khóa nhảy dù để có thể đi sát với các mặt trận. Với 7 năm làm phóng viên chiến trường, ông đã từng có mặt tại hầu như tất cả những trận đánh lớn và đầy máu lửa nhất như Ðồi 159, Ðồi Hamberger Hill, Mậu Thân,... đến những địa danh xa xôi ít người biết đến như: Phú Giáo, Giáo Ðức, Hòa Ðồng,... Ông đã có mặt ở đó, chứng kiến cảnh Cộng quân đánh phá bao làng mạc, giết hại bao người dân, phụ nữ, trẻ em và chứng kiến cảnh bao nhiêu chiến binh VNCH chiến đấu và hy sinh anh dũng để bảo vệ dân lành. Hầu như không vị tướng, tá, sĩ quan tác chiến của VNCH nào mà ông Vũ Ánh không biết và không từng làm việc với. Những bài tường thuật của ông thật nóng hổi, thật xuất sắc với những chi tiết độc đáo và cái nhìn thật sắc bén nhưng nhân bản. Vì thế, ông đã được cất nhắc thành Giám Ðốc Sở Thời Sự tại Ðài Phát Thanh Sài Gòn vào năm 1971.

Ông được gửi đi nhiều hội nghị quốc tế như cuộc tháp tùng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăm viếng Hoa Kỳ năm 1973, sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết, ông đã kể lại trong buổi phỏng vấn dài trên hai giờ đồng hồ với hội VAHF cách đây khoảng hai tháng: “Khi mà tôi đi hội nghị ở San Clemente thuộc quận Cam cùng ông Tổng Thống Thiệu để dự hội nghị cuối cùng, hội nghị thượng đỉnh, lúc đó ông Nixon không tiếp ở phái đoàn tại Washington DC. Lý do là cả Thượng Viện, lẫn Hạ Viện họ nhất định phản đối việc viện trợ thêm cho Việt Nam Cộng Hòa, cho nên họ muốn tránh. Cách đây 2 năm tôi có quay lại căn nhà mà tôi chứng kiến cái giờ phút mà người Mỹ họ chính thức dứt khoát quay lưng với Nam Việt Nam, tôi đã đứng chờ thông cáo chung giữa ông Nixon và ông Thiệu ở đây. Khi có bản thông cáo chung, tôi đã rất thất vọng, nó chỉ có 1 trang, trong đó, họ nói rất mông lung về một điểm chúng ta cần, đó là vũ khí, xăng nhớt, bom để chúng ta có thể có đủ vũ khí để bình định chiếm đất giành dân, và họ nói rằng, chúng tôi hoàn toàn ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa nhưng họ không nói rõ là họ sẽ viện trợ bao nhiêu cả. Sau hội nghị tại đó Tổng Thống Thiệu đi thăm các quốc gia khác và họ đón tiếp mình lạnh nhạt lắm, sang Ðức bị phản đối dữ dội. Lúc đó người trong nước không nhìn thấy nhưng bên ngoài họ đã nhìn thấy chuyện đó rồi. Ngay khi rời khỏi Quận Cam trong những ngày đó, tôi nghĩ cuộc chiến đã chấm dứt rồi...”

Biết rõ và biết sớm kết quả của cuộc chiến như thế, và với sự quen biết rộng rãi, Vũ Ánh thừa cơ hội để cùng hàng trăm ngàn người trong làn sóng di tản rời VN một cách an toàn trong ngày 30 tháng 4, 1975. Nhưng ông đã từ chối ra đi. Ông quyết định ở lại để giữ tiếng nói Việt Nam Cộng Hòa tới giờ cuối cùng. Sau khi lo cho Tổng Thống Dương Văn Minh đọc bài diễn văn đầu hàng. Ông đau đớn trở về nhà.

Sau đó ông không đi trình diện, không chờ bị bắt, ông đã cùng với một số bạn kéo vào trong bưng để lập cơ sở kháng chiến. Nhóm của ông đã có người đứng đầu là cố Thủ Tướng Phan Huy Quát. Họ có cả ngân quỹ nhờ sự đóng góp của gia đình Thủ Tướng Quát và một số mạnh thường quân. Tiếc thay, tổ chức bị CS xâm nhập. Họ bị bắt và tổ chức bị phá vỡ. Phần lớn anh em đã bị bắt. Có người bị tử hình. Một số đông bị tù hàng chục năm. Riêng Vũ Ánh, ông đã bị gần 13 năm với gần 6 năm bị biệt giam. Một trong số những anh em bị bắt là Nguyễn Tân Dân mà tôi quen biết, đã bị bắn chết trong một lần vượt ngục.

Trong tù, ông tỏ ra bất khuất, ông nói thẳng, đứng thẳng, không đầu hàng và không chịu khuất phục. Ông đã chia sẻ trong cuộc phỏng vấn: “Ðối với tôi, mình sẵn sàng chấp nhận những cái xấu nhất đến với mình. Thành ra, trong những năm trong tù, tôi chỉ gặp mẹ tôi một lần, đi với bà xã tôi bây giờ khi tôi còn ở Chí Hòa... Tôi phải nhấn mạnh một điều là: khi chúng ta chấp nhận một điều gì đó đối với mình, thì mình sống tự do lắm, tôi đã thoát chết là nhờ cái đó.”

Chính vì thế mà trong tù, ông vẫn làm báo. Ðó là những tờ báo chui chép tay của một nhóm tù nhân trong đó có nhà văn Doãn Quốc Sĩ, cùng viết về những tin tức mà những bạn tù cần thông báo để giữ vững tinh thần cho nhau. Chẳng may, vì một người muốn đem tờ báo tay bất hủ này ra hải ngoại, ông ta bị bắt, CS tìm được tờ báo và quay trở lại trại tù tra tấn và đẩy nhà báo không biết sợ, không biết khuất phục, không đầu hàng vào trại biệt giam hơn 2 năm nữa. Họ quyết tâm đày đọa ông cho tới chết. Nhưng ông đã sống, sống anh dũng trong tù khiến các bạn tù phải vị nể cho đến ngày hôm nay. May thay lúc đó, cuộc tranh đấu ở hải ngoại, đặc biệt là của Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ đã có kết quả, ông được chuyển từ biệt giam của trại A 20 sang trang biệt giam của Z30A. Tuy còn là biệt giam nhưng đã thong thả hơn nhiều. Một năm sau, năm 1988, ông được thả và đến Mỹ năm 1992, theo diện HO.
Sang tới Hoa Kỳ, ngay ngày đầu, ông trở lại với ngành truyền thông. Ông cộng tác với nhiều báo, đài phát thanh, truyền hình. Chức vụ khiến ông gặp phải nhiều khó khăn nhất là khi làm Chủ Bút Nhật Báo Người Việt. Ông đã bị chụp mũ bằng nhiều tội danh: từ cộng sản, đến tay sai cộng sản, cộng sản nằm vùng..., ông còn bị thóa mạ bằng những ngôn từ dơ bẩn nhất bởi những người tự xưng là chống cộng sản độc tài để tranh đấu cho một Việt Nam tự do, dân chủ, một xã hội tốt đẹp, công bằng,... nhưng họ lại độc tài không kém cộng sản. Họ giành độc quyền chống Cộng. Nếu ai không chống theo kiểu họ, không theo bè đảng của họ, họ sẽ chụp mũ, sỉ nhục không nương tay. Và nhà báo Vũ Ánh đã trở thành nạn nhân của những kẻ độc tài chống Cộng này.

Có một lần cách đây vài năm, tôi vô tình mở TV và thấy một phóng sự biểu tình chống báo Người Việt vào một buổi tối. Nếu không nhớ lầm thì tôi thấy một nhóm đại diện nhật báo Người Việt ra trước cửa tòa soạn gặp đoàn biểu tình. Một nhóm người la hét giận dữ đứng chung quanh, trong khi một bà mặt sát khí đằng đằng xỉa xói vào mặt những người đại diện báo Người Việt, và dùng những ngôn từ đao to, búa lớn, lên án, sỉ nhục không tiếc lời. Cảnh tượng không khác gì cuộc đấu tố thời Cải Cách Ruộng Ðất năm 1953-1956 tại Bắc Việt hay cảnh xử tội “phản động” của các tòa án nhân dân của CS sau năm 1975 của miền Nam. Tôi cảm thấy hoa mắt, ù tai và tự hỏi: Chuyện gì đã xảy ra cho công cuộc chống Cộng của người Việt hải ngoại? Vì sao lại ra nông nỗi này?

Tôi chắc chắn rằng tất cả những người từng cầm bút dù người Việt hay bất kỳ ai trên thế giới, ít nhiều cũng có những sai lầm. Nhưng khi biết sai họ đã nhận lỗi sửa đổi thì vì lý do gì để phải tiếp tục lên án? Mặt khác, có những cây bút, tờ báo, đã và đang thách thức cộng đồng người Việt mỗi ngày, vì sao họ lại không bị đối xử như vậy?

Tôi chắc chắn rằng người cộng sản bên kia bờ đại dương vì muốn bắt tay với người Mỹ để sống còn, sau hơn 30 năm “chống Mỹ cứu nước,” họ phải thả tù nhân chính trị theo điều kiện của Mỹ. Nhưng để đối phó với những tù nhân không biết sợ, không biết đầu hàng và có thể nguy hiểm cho chế độ của họ, họ sẵn sàng làm đủ mọi mưu chước để vô hiệu hóa những người này. Trong danh sách những người được coi là nguy hiểm cho chế độ, Vũ Ánh phải nói là một trong những người đứng hàng đầu.

Nhưng đối với Vũ Ánh, một người ngồi trong tù mà coi như mình đã chết, không biết sợ là gì. Ông thà chết chứ không chấp nhận đầu hàng, không chịu nhục. Ông vẫn hiên ngang dùng ngòi bút của mình ngay tại trong tù mà không sợ đòn roi, nhục hình, thì, những cảnh chụp mũ chửi bới, thóa mạ, của những người ganh tị cá nhân, những người không chịu tìm hiểu để biết đâu là sự thật, những kẻ a dua, đã tiếp tay với cộng sản trong việc làm yếu đi lực lượng chống Cộng của người Việt hải ngoại.

Và nhà báo Vũ Ánh, người đã giữ vững tiếng nói của VNCH đến giờ phút cuối cùng đã luôn vững vàng, vững vàng cho tới giờ cuối cùng. Báo Người Việt cho biết qua một bản tin: Vào lúc 11 giờ 37 phút sáng ngày 14 tháng 3, tòa soạn Người Việt còn nhận được bài của nhà báo Vũ Ánh. Nhưng chưa đầy một giờ đồng hồ sau thì bạn bè được tin ông đã ra đi. Như vậy cũng có thể, sau cái nhấn chuột để phóng đi tác phẩm tim óc của mình, ông đã gục trên bàn viết và ra đi thanh thản. Quả thực Vũ Ánh đã sống và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Ông đã sống 73 năm anh dũng với tinh thần của anh hùng Yên Bái Nguyễn Thái Học: “Không thành công, cũng thành nhân.”

Triều Giang
(Tháng 3, 2014)




************************************


Một nén hương tưởng nhớ Vũ Ánh


Sáng nay (16 tháng 3 – 2014) vào mạng, Huy Đức báo tin Vũ Ánh đã mất mà bất ngờ quá. Quá nhiều cuộc ra đi. Và quá nhiều cuộc ra đi bất ngờ. Như Nguyên Hồng. Như cha tôi. Như Vũ Bão… Không thể nghĩ một người cao lớn sung sức như Vũ Ánh lại đã ra đi. Tưởng anh còn có thể sống khoẻ mạnh và làm việc nhiều chục năm nữa.

Vũ Ánh là cháu gọi tôi bằng cậu.

Tôi là con bà cô, còn mẹ Vũ Ánh là con ông cạu. Mẹ tôi và ông ngoại Vũ Ánh là hai anh em ruột. Chúng tôi mới biết nhau non chục năm gần đây. Những lần vào Sài gòn, tôi chỉ biết mẹ Vũ Ánh, bà giáo Ninh, bà chị cả của các con cậu tôi, ngồi bán thuốc lá vỉa hè. Thấy tôi, chị cười:

-         Cậu mới vào…

Họ hàng bên ngoại tôi đều là dân Bắc 54 (Di cư vào Nam năm 1954). Tất cả đều biết tôi đã bị tù và tỏ lòng quí mến, nhưng chúng tôi không nói với nhau về đề tài đau buồn ấy. Tôi không biết mình có một người cháu tên là Vũ Ánh bị tù 13 năm, đã từng là một phóng viên có hạng ở Sài gòn, ra khỏi tù sống bằng nghề đạp xích lô, như tôi đi kéo xe bò, làm bốc vác ngoài Cảng Hải Phòng.

Chỉ đến khi Chuyện kể năm 2000 được xuất bản, có chút tiếng vang, các anh chị bên ngoại đọc mới nói với tôi về một người cháu cũng viết văn làm báo như tôi đang sống ở Mỹ có tên là Vũ Ánh.

Vũ Ánh và tôi trao đổi e mail. Nhiều email tôi đã xoá, nhưng vẫn còn nhớ nội dung. Vũ Ánh như reo lên khi tôi nói về quan hệ họ hàng giữa chúng tôi: Thế là cháu với cậu máu mủ ruột thịt thật rồi. Ngay khi nhận được thư cậu cháu đã thức đọc lại tập 2 Chuyện kể năm 2000. Biết cậu là cậu cháu, cháu đọc với một cảm xúc khác. Đọc mà chẩy nước mắt dù cháu cũng khổ như cậu có khi còn hơn cậu.

Hôm nay, nghe tin Vũ Ánh về trời, lục tìm những mail lưu trữ may sao vẫn còn một bức thư tôi gửi Vũ Ánh dưới đây, không biết ngày tháng gửi. Và vài bức thư của Vũ  Ánh, cùng với mấy bức ảnh ngày tôi sang Cali, cậu cháu gặp nhau tại nhà anh Hoàng Khởi Phong.



Vợ chồng Vũ Ánh và nhà văn Nhật Tién với Bùi Ngọc Tấn tại California
  
Thư Bùi Ngọc Tấn gửi  Vũ Ánh: 
 Vũ Ánh thân. Hôm nay 25 tháng chạp ta, cậu viết thư sang chúc Tết cháu và qua cháu, gửi lời chúc năm mới tới tất cả họ hàng nhà ta bên ấy. Cái năm Tuất gì đó sắp tới này là cậu bước sang tuổi 73. Một tuổi mà người ta nói rằng không tốt, cần phải giữ gìn. Mợ và hai em gái (Giáng Hương, Hải Yến- nay Giáng Hương mất rồi chỉ còn em HY thôi) vẫn cứ tính những năm nào sao Kế Đô rồi năm nào La Hầu….Thì ra nhà cậu năm nào cũng có người bị coi là năm hạn. Cậu bảo: Tôi thì không năm nào tốt cả. Năm nào cũng xấu. Mặc cho số phận. Việc nó nó làm, việc mình mình làm. Nếu cần thì chống chọi với số phận. Có lẽ cậu cũng nói qua về cậu và gia đình cậu đôi chút. Cậu tuổi Tuất (sinh năm 1934). Năm 1946 tác chiến ở HP, bên ngoại (Lôi Động) tản cư lên Câu Tử, không biết cháu còn nhớ không chứ cậu Lãng, cô Tổng, cô Hiệu chắc chắn còn nhớ. Đến năm 1947 Thuỷ Nguyên bị chiếm, nhà ông bà sinh ra cậu bị Tây đốt đầu tiên. Cả nhà tản cư lên Đông Triều, rồi cứ thế nhích lên Bắc Giang, rồi Thái Nguyên. Năm 1954, cậu học xong phổ thông trung học, vào thanh niên xung phong rồi về tiếp quản Hà Nội. Sau tiếp quản cậu về báo Tiền Phong làm phóng viên.  ở HN cậu quen mợ là nữ sinh trung học, cũng từ kháng chiến về và kết hôn. Đến năm 1960 cậu chuyển về Hải Phòng làm phóng viên báo HP đến năm 1968 thì bị CAHP bắt với tội danh tuyên truyền phản cách mạng. Năm 1973 được tha. Sau hai năm thất nghiệp, làm bốc vác, thợ sắt, kéo xe bò, đi buôn… cậu được ông Tổng cục trưởng tổng cục Thủy sản Hoàng Hữu Nhân (nguyên chủ tịch kiêm bí thư HP) xếp cho đi làm ở một xí nghiệp đánh cá. Cũng may, khi còn ở HP ông Nhân biết cậu và rất quý.  
Cậu đã nhất định không viết gì nữa, bởi viết những điều giả dối thì viết làm gì. Nhưng rồi sự thế chuyển vần. Bức tường Bá Linh, phe XHCN đổ. Tháng 3 năm 1990 cậu lại viết trở lại. Cậu có bốn em: Hai trai, hai gái. Em trai đầu tên là Hiến sinh năm 1959, em Giáng Hương sinh năm 1960 (đã mất) Rồi đến em Hải Yến (gái) sinh năm 62. Em út là trai tên Dũng sinh năm 1969, khi cậu vào tù được 8 tháng. Các em đều đỗ đại học dù rằng người ta muốn chúng đứng đường.  
Mợ đang học đại học thì bị đuổi vì cậu bị bắt. Nói chung giống như cậu viết trong CKN2000. Mợ kém cậu 5 tuổi. Cũng đã hưu và sức khoẻ yếu. Hiện nay cậu mợ ở riêng trong một căn buồng mà anh Hoàng Khởi Phong đã đến. Cậu cũng đang viết một quyển tiểu thuyết cho đỡ buồn. Vì không viết thì cũng chẳng biết làm gì. Cái máy (tính) cháu cho cậu sẽ giúp cậu có thể tiếp tục liền mạch khi đi nơi này nơi nọ. Đại khái là như vậy. Nói chung cậu cháu mình giống nhau. Cậu đọc cái đoạn cháu đạp xích lô trong Nếu đi hết biển mà thông cảm quá. 
 Cháu đang viết gì đấy. Và có thể tìm cách nào gửi về cho cậu một sáng tác của cháu để cậu đọc được không?  
Cậu rất muốn sang bên ấy chơi một lần nhưng e rằng sức khoẻ hơi bị sa sút. Còn đang tập trung nâng cao thể lực.  
Cậu ao ước tập CKN2000 được dịch quá. Cháu thử bàn với các anh bên ấy xem có giúp cậu được không. Cậu cũng muốn liên hệ bằng email với chị Lâm Thu Vân ở Canada. Cháu có thể giúp được không? 
 Thôi, viết cái “lí lịch trích ngang” để cháu hiểu và một lần nữa chúc cháu năm mới tốt đẹp, như ý. 
Bùi Ngọc Tấn
16-3-2014




 ************************************* 


Giữa Việt Dzũng và Vũ Ánh

Vũ Ánh

A20 Trần Yên Hòa

Ngày…

Cũng trong một buổi sáng, mở trang Người Việt online, tôi cũng thật sự bàng hoàng khi đọc tin nhà báo Vũ Ánh mất. Theo tin, buổi trưa ông bị đột quỵ tại nhà rồi chết luôn, đến 5 giờ PM, người vợ đi làm về phát hiện, thì ông đã chết.
Thế là ông thua Việt Dũng, Việt Dũng còn cố gắng điện thoại được cho 911, kêu chở vào nhà thương cấp cứu, còn Vũ Ánh thì không, ông bị đột quỵ và chết ngay, điều này cũng lả một điều rủi mà cũng là một điều may cho ông, là ông không bị vật vã, bán thân bất toại, hay sống đời sống thực vật, như nhiều người vẫn bị…Ông chết đi như vậy cũng buồn cho gia đình, vợ con, nhưng cũng đỡ cực cho người thân hơn.

Tôi bàng hoàng vì Vũ Ánh chết gấp quá, không ai lường trước. Và ông là một nhà báo mà tôi là người đọc, rất nễ phục và tâm đắc. Ông là một trong những nhà báo trí thức mà tôi yêu thích.

Có một chuyện đáng ghi nhớ là, có một thời gian tôi ở tù chung với Vũ Ánh ở trại Xuân Phước, khoảng những năm 1978-1981.

Xin nhắc lại một chút, là Noel 1978 ở trại tù Suối Máu, Biên Hòa, có cuộc nổi dậy rật đáng ghi nhớ của anh em tù. Vì Noel năm đó, lệnh của trại là cấm không cho anh em tổ chức lễ Giáng Sinh. Nhưng tối hôm đó, anh em công giáo vẫn tụ họp cầu kinh và làm thánh lễ, nên cán bộ quản giáo, vệ binh trại đã vào bắt 5 người tù mang đi. Ngay tức thì, dưới sự phát động của anh Trần Đình Ngọc, một đại uý Nhảy Dù, cùng một số anh em khác, phát loa kêu gọi các anh em tù toàn trại ra ngồi trước sân yêu sách thả 5 anh em vừa bị bắt. Anh em tù hưởng ứng rất đông, chỉ trong vòng khoảng 30 phút mà anh em các trại khác cũng cùng ra tranh đấu. Cuối cùng bên cán bộ trại phải nhượng bộ thả người.

Sau đó là những cuộc tranh đấu tiếp theo, anh em thành lập “Ban Hành Động”, tổ chức những đêm hát nhạc phá cùm, phá xiềng… Nhưng chỉ được một thời gian, sau đó cũng bị cán bộ trại lần lượt bắt một số anh em cầm đầu về Chí Hòa, và tiếp tục đưa những anh em khác đi các trại khét tiếng nhất miền Nam như là Gia Trung (Kontum) hay Xuân Phước (Tuy Hòa).

Mấy tháng sau, ở nhà 8, trại 1, Suối Máu, một buổi chiều, quản giáo và vệ binh ào vào trại, tập họp từng nhà và kêu danh sách, nhà 8 có 58 người, chỉ kêu mình tôi gọn gàng đồ đạc ra xe. Ai cũng nghĩ tôi được thả về, nhưng không, tôi được tống vào một xe molotova bít bùng chỡ ra Xuân Phước.

Trại Xuân Phước, (tức là Trại Kiên Giam mà Nguyễn Chí Thiệp đã viết). Khi xuống xe bước vào cổng, tôi mới biết đây là nhà tù xây kiên cố nhất, bên trong những khu nhà có cửa sổ bằng sắt, lố nhố bạn tù trong đó vẫy tay. Tôi đã nhận ra được nhiều bạn tù ở Suối Máu “cộm cán” cũng ra đây, như Trần Đình Ngọc, Phan Lạc Giang Đông, Võ Văn Sáu (tức sáu hồ hởi). Bạn cùng trường ĐH/CTCT/ĐL với tôi có NT1 Đỗ Văn Phúc, NT1 Trần Đức Long, NT2 Nguyễn Đại Loại, NT2 Huỳnh Ngọc Thành, NT2 Nguyễn Xuân Tùng, NT2 Phạm Tuế, NT3 Bằng, NT5 Bằng (cả 2 tôi đều không biết họ).

Ở đây tôi biết có những nhân vật lớn của chế độ VNCH như  ông Võ Văn Hải, bí thư cho TT Ngô Đình Diệm, ông Huỳnh Thành Vị, chủ tịch Tổng Công Đoàn VN, ông Khúc Thừa Văn, dân biểu quốc hội, ông Nguyễn Chí Thiệp, đốc sự hành chánh, phó tỉnh Quảng Nam, ông Trần Danh San, luật sư, ông Lê Sáng, võ sư, ông Minh, trong vụ nổi dậy nhà thờ Vinh Sơn. Những người khác thì bị ghép tội “phản các mạng”, bị kêu án từ 20, 25 năm như những anh em trong lực lượng Phun Rô. Nghĩa là thành phần ở đây đều là những người tù “nặng ký”, nên chuyện ngày về thật xa tít mù khơi.

Tôi được “biên chế” vào đội thợ nề, do anh Nguyễn Thanh Phương làm đội trưởng. Nguyễn Thanh Phương nguyên là trung sĩ sư đoàn 18 BB. Sau 1975, anh tham gia trong lực lượng phục quốc, được làm tư lệnh binh đoàn Lê Văn Duyệt, với cấp bậc đại tá. Trong đội còn có anh Chẩm, cũng là người trong binh đoàn Lê Văn Duyệt, nguyên là lính SĐ 18 BB, cũng được phong trung tá. Còn có ông Tường, nguyên là trung sĩ cảnh sát quốc gia, cũng tham gia lực lượng phục quốc, được “tổ chức” phong cấp đại tá.

(Ôi! những “trung sĩ - đại tá” này cũng là một thảm họa cho bọn tù chúng tôi, họ vừa làm an-teng, vừa làm ông chủ cai trị chúng tôi đến ngạt thở.)

Đội cùng ở chung nhà với tôi là đội thợ mộc, đội trưởng là ông Huỳnh Cự, nguyên là thượng úy VC  hồi chánh, được tôn thêm lên là trung tá, làm ở bộ Dân Vận Chiêu Hổi. Có ông Bùi Như Sơn làm đội phó. Ông Bùi Như Sơn rất hăng say trong chức vụ của mình, luôn thúc hối anh em lao động phải cật lực. Hằng tuần lúc nào ông cũng là cá nhân xuất sắc, cá nhân tiên tiến.
Ở trại Xuân Phước có những vụ xãy ra đáng nhớ sau đây:

- Vụ vượt trại của 2 anh Phạm Văn Hải (Hải cà) và Nguyễn Hạnh. Sau khi bị bắt lại, Hải, Hạnh bị 6 tháng biệt giam.
- Vụ 7 anh em tù cướp súng của vệ binh vượt trại nhưng thất bại. 6 bị bắn chết, 1 bị bắt đem về biệt giam.
- Vụ vẽ cờ VNCH trong cầu tiêu nhân ngày 19-6 (Ngày Quân Lực/VNCH). Một số anh em bị điều tra và bị biệt giam.
- Vụ quăng phân (cứt) lên trên mùng nằm của ông Huỳnh Cự, đội trưởng đội mộc. Vụ này cũng có nhiều bí ẩn, có nhiều người bị điều tra và biệt giam.
Có thể nói, trại Xuân Phước là một trại giam khét tiếng của VC dành cho những thành phần chống đối “nặng ký” và cũng là trại tù khắc nghiệt nhất.

*

Sau khi qua Mỹ, đọc báo, biết ông Vũ Ánh có ở Xuân Phước cùng thời gian đó. Ông có làm tờ báo chui Hợp Đoàn.

Như vậy là can đảm quá rồi.

Sau này đọc thêm tiểu sử của ông, tôi thấy ông ở tù những 13 năm, trong đó có 6 năm biệt giam, cũng là thêm một điều “dễ nể” nữa. Những tướng lãnh của ta cũng ở tù chừng đó thời gian (hay hơn chút đỉnh) là cùng.

Qua đây, ông tiếp tục làm nghề báo, và với nghề này, ông đã trãi biết bao điều vinh nhục…

Tôi chỉ đọc ông thôi và thấy bài nào ông viết cũng công phu, văn phong trác tuyệt, hấp dẫn. Dĩ nhiên về quan điểm chính trị, mỗi người có một ý thức riêng. Chỉ một điều duy nhất chúng ta cần thấy, là Vũ Ánh đã từ một phóng viên chiến trường thời trước 1975, ông đã đi suốt trong những chặng đường của đất nước và chứng kiến tận mắt những chuyện vật đổi sao dời trong dinh Độc lập ngày 30-4-1975. Sau 1975, đã bị đi tù CS 13 năm, qua Mỹ theo diện HO, thì không có lý nào nói ông “thiên cộng” được.

Hãy đọc tâm tư của anh Phạm Đức Khôi, tốt nghiệp Khóa 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Đà Lạt, viết về Vũ Ánh như sau: 
“Tranh thủ gặp anh, tôi có hỏi về câu chuyên ông thày bói và báo xuân Người Việt dạo nào, anh rầu rĩ tâm sự, quả là lỗi của anh. Là chủ bút tờ báo Xuân anh hoàn toàn chịu trách nhiệm. Lý do là, vì bận rộn quá anh ngủ thiếp đi không kìểm soát hết được bài vở lên khuôn, nên đã có kẻ lợi dụng. Anh rất ân hận về việc làm tắc trách đó và xin chịu trách nhiệm trước độc giả.” Vũ Ánh: Món Nợ Văn Hoá & Tình Chiến Hữu - NT1 Phạm Đức Khôi
Như thế là ta đã rõ, một lời xin lỗi chân thành.

Với một bề dày hoạt động của Vũ Ánh như vậy thì anh rất đáng được Vinh Danh lắm chứ?

*

Bài viết này tôi không có ý nâng ai hay hạ ai. Việt Dzũng hay Vũ Ánh tôi đều rất có cảm tình và thương mến. Tôi chỉ viết để nêu lên ý nghĩ của mình, chỉ mong mọi người nên đánh giá công bằng cho cả hai.

Cầu nguyện hai anh sớm về an nghỉ nơi cõi Vĩnh Hằng.

A20 Trần Yên Hòa





******************************************





************************************

Cái ác

Nguyễn Thiên Ân

Người đời định nghĩa cộng sản
Cộng sản: là gian là dối ...
Xã hội chủ nghĩa: là thối là tha ...
(Nguyên Thạch, blog Dân Làm Báo)

LTS - Tòa soạn xin đăng tải nguyên văn bài viết dưới đây của cựu ký giả Thiên Ân về tập hồi ức “Thung Lũng Tử Thần: Hồi Ức Của Một Người Tù Cải Tạo” của cố ký giả Vũ Ánh. Buổi ra mắt tác phẩm “Thung Lũng Tử Thần” sẽ được tổ chức vào lúc 2 pm ngày 19 Tháng Bảy, tại Phòng Sinh Hoạt Người Việt.

***

Vài tuần trước, một người tự xưng là thuộc một đơn vị tình báo của Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam công bố trên mạng một bản văn với đầy đủ hình ảnh ghi lại những vụ tàn sát dã man của lính Tàu nhắm vào các nữ tù binh Việt Nam trong trận chiến xâm lăng vùng biên giới. Người đọc bài và nhìn thấy những hình ảnh cho là nữ tù binh Việt Nam bị cắt xén các bộ phận sinh dục, lõa lồ phơi thây sau khi bị trục ra khỏi các quân y viện trên biên địa và bị hãm hiếp tập thể trước khi bị giết, đều không khỏi cảm thấy ghê rợn trong óc lẫn đau xót trong tim. Bài viết và những hình ảnh đó, nếu thật, cho thấy một thảm trạng mà có lẽ không ai còn chối cãi nổi, chứng minh thực chất tàn ác của những người cộng sản đối với những người được coi là các đồng chí cùng theo thánh Mác để xiển dương và thành đạt cuộc cách mạng nhắm đưa thế giới tiến lên chủ nghĩa xã hội đen.

Poster buổi ra mắt sách “Thung Lũng Tử Thần: Hồi Ức Của Một Người Tù Cải Tạo” tại Nhật Báo Người Việt chiều 19 Tháng Bảy, 2014.
(Hình: Triết Trần/Người Việt)


Nhưng thật ra thì đấy không phải là lần đầu tiên người ta được biết tới tâm địa độc ác của người cộng sản. Người đọc lịch sử đã biết chuyện Lenin và Stalin sát hại đến cả 20 triệu dân Nga sau khi cuộc cách mạng Bolsheviks thắng lợi năm 1917; hay chuyện Mao Trạch Ðông sát hại đến cả 10 triệu dân Tàu ngay từ thời cộng sản Tàu còn lâm chiến với Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch cho tới sau khi Mao chiếm trọn Hoa Lục năm 1949 và thành lập nước cộng sản Tàu, được mỹ miều mệnh danh là Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc. Thậm chí ngay trên quê hương Việt Nam thì chính các đảng viên cộng sản cũng xác nhận cuộc cải cách ruộng đất được Hồ Chí Minh và đảng cộng sản của ông ta mang ra thi hành sau khi chiếm được nửa đất nước, đã giết, và giết oan, đến cả 200 ngàn người theo lệnh giết người đúng tỉ số do Mao chỉ thị.

Thành thử có thể nói rằng cái ác của người cộng sản đã là một sự thật đương nhiên, đối với người khác chủng tộc, đối với đồng bào mình, đối với đồng chí và ngay cả đối với anh em ruột thịt. Ðối tượng truy sát của người cộng sản không cứ phải là đối thủ (thí dụ như Leon Trotsky bên Nga) mà có thể là chiến hữu (thí dụ như Lâm Bưu bên Tàu hay Nguyễn Bình ở Việt Nam), bạn bè, anh chị em (thí dụ như Ðinh Ðức Thiện) nếu những người đó dám chống đối, hay ngay cả chỉ dám bất đồng với đám chóp bu cộng sản. Bởi thế, những hành động cực ác mà người cộng sản làm đối với những người bị họ coi là kẻ thù không còn là chuyện đáng ngạc nhiên. Nhất là khi đó lại là những kẻ cựu thù thuộc hàng ngũ “phe thua trận,” nghĩa là những người không còn một mảy may khả năng chống đối hay tự vệ nào. Ðây có lẽ là đại ý của 270 trang sách tóm lược 13 năm tù gọi là “cải tạo” của ký giả Vũ Ánh. Quyển “Thung Lũng Tử Thần: Hồi Ức Của Một Người Tù Cải Tạo” là tập hợp những bài báo của ký giả Vũ Ánh viết đăng trên nhật báo Người Việt trước khi anh từ giã gia đình và thân hữu đi về miền miên viễn hôm 14 tháng 3 năm 2014. Sách với khổ 15x23cm do các thân hữu của anh trong tờ Người Việt ấn hành và bán với giá 20 Mỹ kim, do vậy không phải là một tác phẩm dài, hay trường thiên, tỉ như “Một ngày trong đời của Ivan Denissovitch,” hay “Trại Ung Thư” hay “Quần Ðảo Ngục Tù” của Aleksandr Solzhenitsyn. Người đọc, nếu muốn, và nếu thấy hấp dẫn, có thể đọc liên tục và đọc trọn trong chỉ một ngày. Ðó chính là điều tôi đã làm.

Một chi tiết có thể bị trành tròn ở đây. Vì nghịch lý. Ấy là làm thế nào mà một quyển sách viết về tội ác lại có thể hấp dẫn? Tội ác; được điểm xuyết bằng bệnh tật, bằng xương thịt rã rời vì bị đòn vọt và cùm gông suốt đêm ngày, bằng nước mắt kết tụ do cả đau đớn nhọc nhằn lẫn hận thù dằn vặt và bằng xác chết của người tù lẫn đôi khi là của thân nhân họ. Những hình ảnh đó cố nhiên là dễ gây kinh tởm, khiến nhiều người đọc có thể thở dài lau nước mắt rồi gấp sách. Ấy là nếu tác phẩm không kèm theo những chi tiết, rất nhiều chi tiết, về tình người, tình chiến hữu, tư cách và nhân tính của người tù. Nói cho rõ hơn, đó là tư cách và nhân tính của chính tác giả Vũ Ánh và những bạn đồng tù của anh trong các nhà giam từ Nam ra Bắc, nhất là trong trại trừng giới khổ sai A-20 Xuân Phước. Những đoạn ngắn, chỉ chiếm một phần nhỏ nội dung quyển sách, đã mô tả tình người bàng bạc của các cựu quân nhân VNCH sa cơ, của các tu sĩ Phật Giáo lẫn Công Giáo và nhất là của người dân thường cũng thuộc “bên thua trận” ở miền Nam Việt Nam dành cho những người tù khốn khổ này. Hấp dẫn là bởi thế. Chớ còn mô tả cái ác và lòng tham của những kẻ thắng trận thì sách vở từ thập niên 1980 tới nay đã trần tình không thiếu. Các bài báo và sách loại này nhiều đến mức không thể ghi lại đầy đủ nếu không chịu khó ngồi kiểm điểm và liệt kê mọi tài liệu đã được in ấn từ 35 năm nay của các cựu tù nhân. Tuy nhiên đấy không phải là mục đích của một bài viết ngắn, tóm tắt vài ý nghĩ và, thế tất là thiếu sót của một người đọc.

Trước hết, xin hãy nói về cái ác. Con người - hơn nữa, lại là người cộng sản - thì đúng như Freud đã xác nhận, vốn có tính tàn ác, thích gây đau khổ cho đồng loại để thưởng thức nỗi đau của đối tượng nhằm thỏa mãn bản chất hung ác của chính họ. Thiếu Tá Vũ Mộng Long, TÐT/TÐ82BÐQ kể lại trong một bài của ông chuyện một bạn tù trốn trại chẳng may vướng lại bên hàng rào kẽm gai chỉ để bị một cán bộ cộng sản ngồi cách đó không xa, tay cầm AK cứ thỉnh thoảng lại nâng súng lên bắn nát từng khớp xương trên tấm thân người tù. Người cộng sản chiến thắng, đầy quyền lực, cứ ngồi đó thưởng thức nỗi đau kèm tiếng rên la của một người lính thua trận và rồi bỏ mặc nạn nhân chảy máu cho đến chết. Những ví dụ chứng minh cái ác của người cộng sản đối với các chiến binh sa cơ của miền Nam có lẽ không còn cần phải được đưa ra thêm nữa. Nhưng gần đây thì còn những hình ảnh mới xuất hiện, và ngày một nhiều, trên mạng, lại cho thấy bên thắng trận ác như thế nào đối với những người - và đây là các thường dân không hề mang một chút nợ máu nào đối với nhân dân - chỉ chẳng may đứng trong hàng ngũ khối dân miền Nam bị xâm lăng mà thôi.

Hình ảnh một cụ già 90 tuổi, cầm một tấm bảng cầu cứu sau khi được báo cho biết căn nhà vách tôn cụ đang ở đã bị cưỡng chế, không thể không gây chấn động trong lòng người xem. Cũng trong thời gian này, hình ảnh trọn một gia đình ở Thạnh Hóa thuộc tỉnh Long An vừa than khóc vừa lớn tiếng tố cáo tội ác của người đang là bí thư huyện ủy và đám “công an” nơi họ ở, hùng hổ kéo tới trục xuất họ ra khỏi nhà. Nhiều trường hợp tương tự cũng đã được phơi bày, bởi chính các lão bà lưng còm má hóp lẫn con cháu họ trong những cuộc biểu tình công khai của dân oan mất đất, mất nhà, mất ruộng, mất vườn, mất hết. Tất cả căn nguyên đưa tới thảm nạn có thể được tóm gọn trong chữ tham. Và từ tham mà dẫn tới cái ác vô biên và tuyệt đối của những kẻ có quyền năng tuyệt đối. Xin hãy đọc một chi tiết ác, nhẹ nhất đối với những người tù, ở trang 70 trong sách của nhà báo Vũ Ánh.

... mọi thứ thực phẩm của những anh em có gia đình thăm nuôi mang lên từ Hàm Tân Z30C đều bị ném vào mấy chiếc cần xé lớn. Viên cán bộ trực trại ra lệnh cho tù hình sự mang xuống nhà bếp của tù nhân với lệnh 'Ngày mai đem nấu để phát cho trại viên ăn chung.' Và đúng như lời ông ta, nhà bếp của tù nhân phải bóp bụng tuân lệnh nấu một thứ thực phẩm chè không ra chè, cháo chẳng ra cháo. Mỗi người được phát một nửa tô bằng nhựa một loại thực phẩm loãng gồm cơm khô, bột, lẫn vào đó là những cọng mì ăn liền. Thực ra, bình thường người dễ tính nhất cũng khó ăn, nhưng tù cải tạo đã 4 năm đói khát triền miên chúng tôi cũng vui vẻ thưởng thức món ăn mà trong đời chúng tôi chưa bao giờ được thấy này ...”

Tôi đoán đám tù khi ăn cái món tả pí lù quái dị đó đã phải “nhăn mặt mỉm cười” và tôi cũng võ đoán Vũ Ánh khi viết đoạn này cũng phải mang nét mặt y như thế. Khác chăng chỉ là lúc phải ăn ở Xuân Phước thì bấm bụng ăn cho đỡ đói, vừa ăn vừa chửi thề; còn khi ngồi tả lại ở Mỹ thì nhăn mặt vì tưởng tượng tới cái bụng đau nhừ sau khi ăn và rồi mỉm cười ghi nhận hạnh phúc của một cựu tù đang sống ở Mỹ và được thưởng thức các món cao lương mỹ vị ở những nhà hàng vùng Nam California. Quí vị có thể tự hỏi, “Tù, có ăn là may rồi, còn nhăn mặt chửi thề chi nữa.” Quí vị nghĩ đúng nếu chưa đọc đoạn kế tiếp, để nhờ đó mà biết rằng trong mấy cái cần xé đựng thực phẩm tiếp tế của gia đình cho người tù, còn có cả những hũ thịt ram mặn, những gói lạp xưởng hay thịt muối kiểu Tàu được nấu theo tiểu táo (bếp nhỏ) dành cho trưởng phó trại và an ninh!!! Nên nhớ là từng ấy “cao lương mỹ vị” đã được mẹ và vợ con các tù nhân đưa tới trại sau nhiều ngày trèo đèo vượt suối, đánh đố với chính sinh mạng họ. Những món ăn đó là kết quả của bao nhiêu tháng năm hi sinh dành dụm chắt mót của họ ... rốt lại đã lọt vào bụng những kẻ đang hành hạ con, chồng và cha họ bên trong vòng rào. Thật không còn nỗi xót xa và đắng cay nào hơn cho người tù khi nghĩ tới người thân và khi nhìn thấy đám cán bộ cộng sản hể hả thưởng thức công lao mồ hôi nước mắt của thân nhân mình. Nhất là sau năm bảy năm dài mà trong đó người tù chỉ hàng ngày được hưởng chế độ hai muỗng cơm, hai muỗng nước và hai muỗng muối trong biệt giam. Ðây là một hình thức tra tấn mà tác giả cho là vượt xa Ðức Quốc Xã (đối với dân Do Thái thời Ðệ Nhị Thế Chiến). Bởi muối thật nhiều trong thực đơn chỉ nhắm duy nhất một mục đích là làm người tù khát rã họng suốt ngày đêm và thân thể họ mau bị phù thũng để chết lẹ hơn mà thôi. Ðám cai tù cộng sản rõ ràng là phải rất sung sướng khi chứng kiến kết quả của những hành động tra tấn tâm thần lẫn thân xác người tù do họ chủ động. Niềm vui sướng kỳ quặc đó có thể được coi là một hiện tượng tâm lý phổ quát của đa số cán bộ trông coi các trại trừng giới trên cả nước Việt Nam sau ngày 30 tháng 4, 1975 nếu nhìn vào bằng cớ trưng dẫn trong sách vở và các bài báo của những cựu tù may mắn sống sót.

Tôi nghĩ cái hay của ký giả Vũ Ánh, căn bản, nằm trong lối mô tả các thực kiện suốt 13 năm tù của anh, kể cả hơn 6 năm bị cùm trong xà lim, đôi khi cùm cả tay lẫn chân. Tất cả các bài viết trong sách, gồm tổng cộng 30 tiểu mục không kể lời tác giả mở đầu và kết thúc cuối sách, đều được viết một cách nhẹ nhàng đến bình thản - đôi khi còn có cả nét cợt cười - không ai oán, không than van và nhất là vắng cả những thù hận đúng ra phải có đối với những kẻ đã cướp mất một phần đời trai trẻ và đáng sống nhất, chưa kể thiếu chút nữa đã tước đi mạng sống, của anh. Người đọc quyển Hồi Ức của Vũ Ánh có cảm tưởng anh đã mô phỏng văn phong trong “Ðiên” của một bậc tiền bối đã ở tù cộng sản trước anh, đã gánh chịu những cơ cực chẳng thua gì anh và đã bị hạ nhục có khi còn hơn cả anh vì địa vị của ông trong chính quyền VNCH trước khi bị cộng sản cầm tù ngoài Bắc từ Tết Mậu Thân. Chỉ khác là tác giả Hoàng Liên (Nguyễn Văn Ðãi) ở tù ngắn hơn anh mà thôi.

Cụ Hoàng Liên, cũng như Vũ Ánh, đã bị cộng sản cầm tù; nhưng đã vượt khỏi ngưỡng chết để sống nốt quãng đời còn lại của mình. Tôi cho đó là một cái may do trời đất, tổ tiên và ý chí của chính họ hơn là do lòng nhân của những người đã bắt bớ, kìm kẹp và lưu đày họ trong tình trạng sống không ra sống mà chết chẳng được chết. Nghĩa là không hề do sự khoan hồng mà đám cán bộ cộng sản luôn miệng nhấn mạnh trước các tù nhân, coi đó là một đặc trưng của chế độ cộng sản. Trong một đoạn (trang 175, 176), ghi lại những đối đáp, có thể coi là một cuộc đấu trí, giữa Vũ Ánh và một cán bộ trung ương tới trại thẩm vấn anh, Ánh đã định nghĩa rất chính xác lượng khoan hồng đó bằng một hình ảnh tỷ giảo “... khoan hồng mà nhà nước nói như kiểu này thì thà các ông đưa chúng tôi ra ngoài đồng, cho mỗi đứa một viên đạn, như thế mới đúng là khoan hồng ....” Lập luận tương tự cũng đã được ông Huỳnh Cự, Trung Tá (VC) trước ngày hồi chánh, khi trả lời trưởng trại giam “lẽ ra đem tôi ra bắn ở cầu Bình Triệu thì mới là khoan hồng” khi y nói với ông rằng ông được sống cho tới lúc đó là nhờ nhà nước khoan hồng. Các thành phần chống cộng đã nói tới cảnh tắm máu nếu cộng sản chiếm được miền Nam. Cảnh đó đã không thực sự xảy ra như ở Kampuchea khi Khmer Ðỏ vào tới Phnom Pênh. Nhưng lừa bịp tất cả các quân nhân và công chức VNCH, bị gọi một cách miệt thị là bọn “ngụy,” vô tù để buộc họ lãnh một cái án vô hạn kỳ mà có khi đã kéo dài đến hơn 17 năm đối với một số tù - mà loại uyển ngữ giả nhân giả nghĩa của cộng sản bắt phải gọi là “trại viên” - thì tình cảnh đó đôi khi còn tệ hơn là tắm máu.

Chính Vũ Ánh đã kể trong những lần bị thẩm vấn và khảo tra, anh đã thẳng thắn nói với cán bộ cộng sản thẩm vấn anh rằng với tấm thân “xác ve” tiều tụy anh đang mang thì có đem anh ra bắn cũng thế thôi; bởi anh “coi như đã chết rồi.” Anh viết rất rõ một nhân tố đã giúp người tù sống và giữ được phần NGƯỜI trong thân xác héo mòn của họ” ... muốn giữ được nhân phẩm, duy trì nhân cách và khí tiết, một người tù cải tạo phải biết chấp nhận phần xấu nhất cho đời tù của mình, đó là sẵn sàng ra nằm ở Ðồi Thông (nghĩa địa của tù nhân cải tạo) ... ” (trang 107). Tôi võ đoán rằng đó không chỉ là kết luận của Ánh mà còn là của tất cả những người tù kiên cường khác. Tôi cũng mạn phép võ đoán thêm một chút nữa rằng quyết định như thế không hề là một lối phát biểu kiểu anh hùng Tàu, khinh thường sinh mạng mình. Trái lại, đối với những người tù không có ngày mai thì “coi như đã chết” chỉ là một phương tiện để giữ cái sống cho mình. Nếu xét kỹ thì sẽ thấy tính thuận lý của việc coi như đã chết để còn được sống. Trường hợp những người quá u buồn, quá lo lắng cho vợ con đến nỗi co ro khúm núm luồn lụy kẻ thù với hi vọng sẽ được nhẹ tay và nhờ đó mà sống sót, thì cái sống của họ hình như không đáng mang ra so với những người coi như chết mà vẫn sống. Ấy là chưa kể trường hợp những người quá lo rồi thực sự lìa đời do đau ốm thân xác và bệnh hoạn tâm thần trong tù, hay đi làm ăn-ten ton hót cho cai tù biết hành trạng các bạn tù của mình đến độ bị khinh ghét, bị hành hung và chung cuộc đã chết thảm ngay cả khi đã ra khỏi tù. Những trường hợp đại để như vừa kể cho thấy rằng khi những người cộng sản thuộc “bên thắng cuộc” không tạo ra những biển máu đúng theo ý muốn của Lê Duẩn bằng cách giết toàn bộ sĩ quan từ cấp tá trở lên và công chức từ trung cấp trở lên, để thay bằng cách giết họ lần mòn trong các nhà tù, không chứng tỏ người cộng sản chủ trương khoan hồng hay hòa hợp hòa giải gì cả với đồng bào mình bên “phe thua cuộc.” Người cộng sản trong thời gian sau 30 tháng 4, 1975, theo thiển ý, không hề ý thức mức độ gian ác của họ; loại gian ác mà Ánh cho là “... không thể tưởng tượng nổi trên thế gian này lại có sự dối trá, che đậy đến mức phi nhân như thế ...” khi đám cán bộ lừa dối vợ của một người tù đang ngồi chờ chồng trong giây phút họ đưa xác chết người tù ra nghĩa địa ngang qua chính chỗ mà bà này đang ngồi chờ. La Rochefoucault từng nhận xét là “khó có người nào khôn ngoan đủ để biết hết những cái ác mà y làm” (*). Rõ ràng là chẳng sai chút nào đối với người cộng sản. Dĩ nhiên cũng đáng mừng là đã có tù nhân sống sót về với gia đình. Nhưng bù lại thì cũng đã có rất nhiều người được cho về chỉ cốt để trại tù đỡ phải chôn họ. Và như thế là đỡ mang tiếng sát hại tù nhân. Người cộng sản không khôn đến độ ý thức cái ác của họ nhưng đủ khôn đến mức giả vờ nhân đạo cho những tù nhân gần chết về với gia đình.

Nhà báo Vũ Ánh không nằm trong số này. Phần chính, theo như tôi đã lạm bàn, là nhờ anh đã dứt khoát coi như mình không có gia đình, không cha mẹ vợ con, không cả thân mạng, không còn gì ráo. Anh đã thậm chí từ chối ra gặp Mẹ mình khi cụ bà cày cục đi thăm và có lẽ nhờ vậy mà đã không bị các cán bộ cộng sản dùng Mẹ và người anh cả làm áp lực truy bức anh. Có lần tôi hỏi xem anh phải sống làm sao trong tình trạng đó? Và nhất là làm sao giữ được đầu óc đừng phát điên và thân thể đừng bị phù thũng khi chỉ được cho ăn mấy lát khoai mì mỗi ngày với 2 muỗng nước muối bên trong xà lim? Câu trả lời của Vũ Ánh, đơn giản đến mức cộc lốc “đã chết rồi thì còn lo gì chuyện sắp chết?” Người đọc sẽ hiểu được lý do khiến anh và vài tù nhân gốc lính VNCH cả gan làm tờ báo chuyền tay mang tên Hợp Ðoàn ngay trong tù, trước mặt những tay điềm chỉ mà anh gọi là bọn “lá lúa PRC25” (**) khi hiểu được cái tâm cảm đã chết lúc vẫn còn thở của họ. Tôi không muốn nhắc lại những hành động đáng cho là can đảm và bất khuất của những người này trong trại tù (mà Vũ Ánh đã ghi trong sách) để mệnh danh họ là anh hùng. Chính họ thật sự cũng không hề muốn mạo nhận như thế. Tuy nhiên nếu không có một tâm lực cực nóng đối với điều mình tin tưởng và một ý lực cực mạnh đối với điều mình muốn làm thì đã không có những người liên tục kiếm đường trốn trại bất kể nỗi lo bị bắn chết (hay bị đánh chết) mà họ biết chắc là sẽ gặp nếu không thoát. Cũng đã không có cảnh một tù nhân nguyên là sĩ quan trẻ dám đứng lên, ngay trước mặt cai ngục và cán bộ cộng sản , để làm “quản ca” đốc thúc tất cả tù nhân hát vang bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” của Nguyễn Ðức Quang như được tả lại ở trang 65 “... ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người, làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam ...”; cũng đã không có chuyện một sinh viên 19 tuổi bị tù vì tội rải truyền đơn, can trường đấu khẩu tay đôi với cán bộ cộng sản và nhất định không quì gối theo lệnh của y, kèm theo khẩu CKC lên đạn mà hắn đã chĩa thẳng vào người anh khi ra lệnh (trang 115).

Tuy nhiên ghi nhận sơ lược về lòng quả cảm của đa số tù nhân trại cải tạo như thế đã đủ. Như xem một cuốn phim mà người xem chưa biết lúc mở gút (denouement) như thế nào, độc giả sẽ khám phá ra rất nhiều điều đáng ghi nhớ về cộng sản và những tù nhân VNCH nằm dưới tay họ khi đọc Hồi Ức của Vũ Ánh. Riêng đối với tôi, một bạn thân của Ánh, tôi còn muốn nhớ thêm, và nhớ mãi, hai sự kiện. Trước hết là mối tình đẹp muôn đời giữa Ánh và Ty như đã được chấm phá đôi nét ở trang 153. Ðẹp, và vui hơn nữa đối với riêng tôi, khi trong đám cưới, nhìn quanh quất không có ai, Ánh đã bảo tôi, “Mày đầu bạc đại diện đàng trai đứng chủ hôn luôn cho tao.” Vậy là tôi bỗng trở thành trưởng thượng của bạn mình trong khoảng 15 phút. Kế đó là bữa ăn thân hữu - loại bữa ăn mà tôi đã vui hưởng nhiều lần với nhiều bè bạn trong đời - diễn ra trong vòng non 1 tháng trước cái ngày định mệnh 14 tháng 3 năm nay. Ðây, do thâm tình giữa hai chúng tôi, là một kỷ niệm nhớ đời, bởi nó do chính tay bạn tôi nấu nướng cho tôi ăn. Lần đầu mà cũng là lần cuối. Nó mặn mòi, đơn sơ và hiền lành y như bản chất con người đích thực của bạn tôi. Tôi nghĩ tôi sẽ nhớ mãi bữa ăn đó, như sẽ nhớ mãi Hồi Ức của bạn tôi, coi như một tập văn kiện riêng, tuy rằng, như Ánh ghi trong lời kết “... tôi chỉ có mục đích duy nhất là để con cháu tôi và con cháu những bạn đồng tù với tôi ... dùng làm tài liệu tham khảo, đối chiếu và suy nghiệm khi cần thiết sau này ...”

Nguyễn Thiên Ân
(12 tháng 7, 2014)

(*) Il n'y a guère d'homme assez habile pour connaitre tout le mal qu'il fait
(**) Máy truyền tin của các đơn vị hành quân VNCH hồi thời chiến



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét