A20 Lê Phi Ô
(Những cứ điểm mà việt
cộng cần phải triệt-hạ trước khi tiến đánh Xuân-Lộc, Long-Khánh)
I/ Tháng 12/1974 Việt
cộng mở chiến dịch "Tánh-Linh & Hoài-Đức" với mục đích đánh chiếm
hai quận Tánh-Linh và Hoài-Đức thuộc tỉnh Bình-Tuy. Nếu thành công chúng sẽ cắt
đứt được Quân-khu II và Quân-khu III tại cây số 125 thuộc Quốc lộ 20 đường đi
Đà-Lạt và chúng cũng sẽ kiểm soát được ngã ba Ông Đồn nằm trên Quốc lộ I đây là
con đường huyết mạch đi các tỉnh miền Trung, đồng thời bao vây và cô lập trước
khi đánh chiếm thị xã Xuân-Lộc cửa ngỏ vào Saigon.
Nhưng ý đồ của việt
cộng thất bại vì chúng chỉ chiếm được quận Tánh-Linh nhưng không chiếm được
quận Hoài-Đức. Vì thế, Quân khu 6 việt cộng xin bổ sung thêm 2,000* quân (*tài
liệu của Dr. Nguyễn-đức-Phương tác giả "Chiến-tranh VN toàn tập").
Việt cộng tương đương cấp sư-đoàn mở cuộc tấn công Hoài-Đức đợt II bắt đầu từ
tuần lễ thứ nhì của tháng 03 năm 1975, lực-lượng phòng thủ của ta ban đầu gồm
có tiểu-đoàn 369/Địa Phương phòng thủ nội vi chi-khu, tiểu-đoàn 3/43 thuộc
sư-đoàn 18/BB tăng phái đóng quân tại phi trường L.19 nằm về phía tây của
chi-khu 1,000m. Khi áp lực địch trở nên quá nặng, tiểu-đoàn 344/ĐP đang nghỉ
dưỡng quân tại tỉnh lỵ sau trận đánh tháng 12/1974 được lịnh khẩn cấp nhảy vào
Hoài-Đức để tăng cường phòng thủ (cũng trong thời gian này việt cộng với nhiều
trung-đoàn chúng tấn công quận Định-Quán thuộc tỉnh Long-khánh). Địch quân với
quân số nhiều hơn ta năm lần với hỏa lực yểm-trợ của cả một trung-đoàn pháo,
trong khi đó phía ta chỉ có vũ-khí cơ-hữu của mỗi tiểu-đoàn. Hoài-Đức
(Bình-Tuy) và Định-Quán (Long-khánh) thất thủ rạng sáng ngày 20 tháng 03 năm
1975.
II/ LUI BINH: Sau khi
cứ điểm chi-khu Hoài-Đức bị địch tràn ngập, tôi cố gắng liên lạc với cánh B của
tôi, đồng thời liên lạc với các cánh quân khác gồm có TĐ3/43/BB, Bộ chỉ huy
chi-khu, trung đội Pháo binh 105 ly nhưng không nơi nào trả lời, tôi đoán là
các đơn vị bạn bị thiệt hại nặng nên mới mất liên lạc như thế và lợi dụng việt
cộng ngưng tiếng súng, cánh A do tôi chỉ huy đoạn chiến... lùi lại đồi đá thật
nhanh để sẳn sàng trận đánh cuối cùng.
Kiểm soát vũ khí đạn
dược, chỉ đủ để cầm cự được vài giờ vì không được tiếp tế. Chung quanh tôi bán
kính khoảng 70 cây số không có bạn, không có pháo binh và phi cơ yểm trợ, mọi
liên lạc vô tuyến đều im bặt, tôi mất liên lạc hẳn với cánh B... lương thực
cũng chỉ dùng được hai ngày, nước uống rất khan hiếm vì mùa nắng... và đang bị
địch bao vây kêu gọi chúng tôi đầu hàng !
Tôi khẩn cấp cho tu bổ
hệ thống phòng thủ nhưng vẫn sẵn sàng di chuyển bất cứ lúc nào. Tiểu đội Tình
báo còn được 7 người do sĩ-quan trưởng ban 2 tiểu-đoàn chỉ huy chia làm hai
toán nương theo đường thông thủy trườn xuống đồi theo hướng tây, hướng nầy toàn
gai tre và trũng nước... nhiều đoạn phải bò sát đất nên việt cộng không thể
phục kích ở đây được. Nhưng đây là tử địa, nếu địch phát giác mà nã pháo vào
thì chỉ có chết... không cách nào vùng vẫy được. Đến 06:00 giờ chiều các toán
cảnh giới báo đã vào vị trí an toàn, hoàn toàn không có dấu vết của địch
quân... tôi mừng rỡ vì đây là con đường thoát hiểm duy nhất. Nhưng muốn thoát
bằng lối nầy không phải là dễ, tuyệt đối không được gây tiếng động và cũng cần
phải rút thật nhanh, đoạn đường tử-thần này dài gần 1.000m. Tôi ra lịnh hai
toán cảnh giới này bám sát trận địa, mỗi một sơ hở cánh A chúng tôi chắn chắn
sẽ bị xoá sổ.
7:00 giờ tối, cảnh vật
bắt đầu lờ mờ, tôi cho gài mìn Claymore và lựu đạn tối đa xung quanh khu vực
đóng quân, tất cả lều võng đều giữ nguyên để địch không nghi ngờ mình bỏ đồi,
chọn một tiểu đội tình nguyện ở lại và sẽ rút sau khi có lệnh.
8:00 giờ, trời tối đen
như mực, chúng tôi bỏ đồi, từng người một nhẹ nhàng nương theo cỏ tranh trườn
xuống như một đàn rắn. Di chuyển được 500 thước, tôi bấm ống liên hợp ra hiệu
cho tiểu đội còn trên đồi rút bỏ... đến khi tiểu đội này theo kịp, tôi cho cánh
A tiếp tục di chuyển. Nửa đêm chúng tôi thoát khỏi rừng tre và tiếp tục di
chuyển thêm 500 thước thì dừng lại. Phía đồi đá, nơi chúng tôi vừa rút bỏ có
tiếng mìn claymore và lựu đạn nổ... ngưng chừng 10 phút lại có tiếng mìn và lựu
đạn nổ, nhưng lần nầy lại có cả tiếng súng AK.47 nổ vang cả góc rừng, tiếp theo
là tiếng hò hét xung phong. Tôi gọi các cánh quân của tôi để xác nhận thì không
ai chạm địch cả, có thể các cánh quân của VC khi tấn công lên đồi đã ngộ nhận
mà bắn lẫn nhau, như thế càng tốt.
Mờ sáng ngày 21/03/75
tôi cho rải mỏng quân với hy vọng đón nhận được quân bạn thất lạc... nhưng cho
đến chiều chỉ nhận thêm được 20 người thuộc gia đình quân nhân và vài người
lính của chi khu vẫn còn súng đạn. Không thể chần chờ thêm nữa, để đánh lạc
hướng địch, tôi cho cánh A nhắm hướng chính Tây di chuyển, gần nửa đêm chúng
tôi gặp sông La-Ngà ranh giới giữa Bình-Tuy và Long-khánh, tôi cho chuyển hướng
chính Nam (dọc theo sông La-Ngà) tiếp tục đi cho đến mờ sáng, như vậy chúng tôi
đã đi xa khỏi vòng vây của địch hơn mười cây số. Tôi lại lấy hướng Đông Nam
băng qua tỉnh lộ 333 thuộc ấp Trà-Tân 2 (nơi đây cách hơn hai tháng trước
LĐ7/BĐQ đã chạm nặng với địch) hướng này sẽ về căn cứ 6 nằm trên Quốc lộ I cách
đây 60 cây số. Đến 9:00 giờ sáng chúng tôi gặp suối Gia-Huynh, mùa này nước cạn
nên cố đào để lấy nước... ăn uống qua loa rồi tiếp tục lên đường.
Khoảng 2:00 giờ trưa
chúng tôi gặp đường rầy xe lửa ga Gia-Huynh với những toa tàu còn sót lại, cảnh
vật hoang phế vì lâu năm không có bóng người. Nhà ga, toa tàu và đường ray cỏ
và giây leo mọc che kín, nơi đây là vùng hoạt động tự do của việt cộng từ khi
đường xe lửa không còn xử dụng, tôi cẩn thận chia đoàn quân làm hai cánh. Đến
5:00 giờ chiều gặp vài đường mòn đầy vết giày và dép râu của địch. Đi thêm nửa
giờ trời bắt đầu nhá nhem tối... phía trước có nhiều tiếng động khả nghi, tất
cả trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Trong tình thế di tản chiến-thuật đơn độc,
tôi cố tình tránh né giao chiến với địch, vừa đổi hướng tiến quân, bất ngờ một
toán việt cộng đã nhìn thấy chúng tôi nên bắt buộc chúng tôi phải nổ súng.
Tiếng súng giao tranh
nổ vang cả một góc rừng, tôi cho lịnh xung phong bất kể địch quân là bao nhiêu,
những tên việt cộng gần nhất bị bắn hạ ngay loạt đạn đầu tiên... chúng tôi đánh
tràn qua thuận đường rút lui. Trên chiếc xe Truck chứa đầy thùng gỗ không biết
vũ-khí hay lương thực vì trời quá tối, xác vài tên việt cộng nằm vắt ngang... mặc
kệ chiến lợi phẩm, tôi chỉ tịch thu một chiếc cặp da chứa tài liệu và phóng đi thật
nhanh. Vì đêm tối, chúng tôi sợ lạc nhau nên chỉ đi một hàng dọc, cả hai cánh
liên lạc chặc chẽ với nhau, đoàn người cứ lặng lẽ đi như những bóng ma. Gần nửa
đêm, vì quá tối nên chúng tôi dùng những mảnh cây mục có lân tinh cắm vào ba lô
để người đi sau nhìn thấy người đi trước cho khỏi lạc. Khoảng 03:00 giờ sáng
chúng tôi dừng lại nghỉ vì quá mệt, đến 05:00 giờ sáng lại tiếp tục di chuyển.
Cuộc chạm súng lúc
chiều coi như chúng tôi đã bị lộ, tôi biết chắc là địch sẽ truy kích, vùng này
từ nhiều năm nay là của bọn chúng, nơi dưỡng quân của trung-đoàn 33 Quyết thắng
VC, chúng tôi phải thoát ra khỏi đây thật nhanh. Tôi cho lịnh đại-đội 1/344
đại-đội trưởng là trung-úy Quảng (gốc TQLC) cùng đại-bác 57 ly, cối 81 ly (cả
hai đều hết đạn) với 20 người dân cùng đại-đội Chỉ-huy đi trước sau khi đã dặn
dò những điểm tập trung trong trường hợp thất lạc nhau. Tôi và đại-đội 2/344
của trung-úy Vương đi sau để cản hậu trong trường hợp bị địch tập kích.
06:00 giờ sáng ngày
22/03/1975 rừng còn mờ sương, cánh quân đại-đội 1/344 vừa di chuyển được 15
phút thì chạm địch... bọn việt cộng bỏ chạy, tôi đoán đây chỉ là tổ báo động
của địch, như thế chúng tôi lại bị lộ lần nữa, chắc chắn địch cố truy lùng để
tiêu diệt chúng tôi, một trận ác chiến sẻ không tránh khỏi. Tôi cho đại đội
1/344, đại-đội Chỉ-huy và 20 đồng bào chạy thoát thật nhanh, tôi và đại-đội
2/344 của trung-úy Vương mở cuộc phục-kích chớp nhoáng... chờ địch.
Đúng như dự đoán, bọn
việt cộng đã theo kịp và một cuộc chạm súng ác liệt xảy ra. Vì đã chuẩn bị
trước nên chúng tôi đốn ngã từng đợt việt cộng xuất hiện dễ dàng. Việt cộng
muốn trả thù đồng bọn bị chúng tôi giết chết ngày hôm qua nên bọn chúng cứ tràn
tới, ngã lớp này lớp khác lại tiến lên như loài thiêu thân, xác địch nằm chồng
lên xác lính của ta. Trở ngại lớn là chúng tôi không còn nhiều đạn, không có
tiếp viện, không có phi pháo yểm trợ, mọi liên lạc đều bị cắt đứt... nếu tiếp
tục giao chiến chắc chắn sẽ bị địch tiêu diệt !
Lợi dụng khoảnh khắc
áp lực địch tương đối yếu, tôi cho đại-đội 2/344 thành lập nhiều tổ tam
"tam chế", áp dụng cá nhân chiến đấu và chỉ xử dụng lựu đạn đánh địch
để bọn chúng không phát hiện chúng ta ở đâu, vừa đánh vừa lui dần do đó bọn
chúng không dám bám gắt, nhưng cho dù đánh kiểu nào đi nữa thì chúng tôi cũng
không còn đủ đạn dược để cầm cự, địch đông cấp tiểu-đoàn hoặc nhiều hơn có thể
cả trung-đoàn 33 Quyết-thắng ở đây. Trung-úy Vương đại-đội trưởng bị thương,
ngực thấm máu nhưng không nặng vì tôi thấy anh còn di-chuyển được, chúng tôi
đau lòng khi thấy anh em mình bị thương nặng nằm chờ chết mà không cứu được !
Bọn việt cộng bắt đầu
pháo, trong rừng bị pháo rất nguy hiểm... đạn có thể chạm nhánh cây phát nổ và
mảnh đạn phủ chụp xuống... nhưng hình như bọn việt cộng không biết rõ đội hình
và hướng lui quân của ta nên đạn pháo nổ chệch hướng. Chiến trường khói lửa mịt
mùng, đạn pháo phá nát một vùng rộng lớn mà phần nhiều nổ chận đường rút lui
chúng tôi về hướng căn cứ 6 Bình-Tuy, tôi chợt hiểu, bọn việt cộng đoán biết
được hướng lui binh của ta, tôi ra lệnh đổi hướng, tất cả nhắm hướng căn cứ 2
thuộc Long-Khánh rút thật nhanh. Chúng tôi nương theo những con suối cạn rộng
khoảng 2 thước và sâu tới ngực... cố chạy thật nhanh, đến 02:00 giờ trưa không
còn nghe tiếng súng của việt cộng, tôi biết chắc bọn chúng bị lừa nên vẫn tiếp
tục truy kích chúng tôi theo hướng căn cứ 6.
Hết sức thận trọng
chúng tôi tiếp tục di chuyển về căn cứ 2. Đến 04:00 giờ chiều, cánh quân đi đầu
báo "có người", tôi cho dàn quân thật nhanh chuẩn bị trận đánh cuối
cùng vì đạn dược người có người không và tất cả hầu như kiệt sức.
Đại-đội 1/344 báo
không phải việt cộng mà là người dân đang bắt cá ở một con suối, anh này cho
biết ở đây thuộc căn cứ 2... từ đây ra đó hơn một cây số. Dân số ở đây khoảng
10 ngàn nhưng đã di tản chỉ còn lại vài trăm người (căn cứ 1 và căn cứ 3 đã lọt
vào tay việt cộng cách đây vài ngày), nơi đây vẫn còn lính Quốc-gia. Thật không
có nỗi vui nào bằng, bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến hết, chúng tôi uà xuống
dòng suối trong xanh như một đàn vịt. Sau khi uống và lấy nước xong, tôi thận
trọng cho một toán lính cùng người dân bắt cá đi trước, hai cánh quân theo sau
khoảng cách hai trăm thước. Không bao lâu chúng tôi đã nhìn thấy lác đác vài
mái nhà... tôi cho lịnh toán quân đi đầu bắn một quả chiếu sáng dù và giương
cao lá cờ Quốc-gia để tránh ngộ nhận. Phía bên trái cách chúng tôi vài trăm mét
là lá cờ vàng ba sọc đỏ đang tung bay trong gió chiều lồng lộng, lá cờ thật oai
nghiêm, lòng tôi rộn lên một niềm vui khôn tả ! Nén xúc động... tôi cho lệnh
rải quân thật mỏng, canh gác cẩn thận.
Dân chúng chạy ra xem
rất đông, họ mang cả bắp, khoai mì, khoai lang luộc, mì gói và cả cơm mới nấu
mà gia đình chưa kịp ăn đem cho lính... tình Quân Dân như thế đó ! Người lính
cảm thấy nhỏ bé trước tình cảm đồng bào dành cho họ !!! Trong số đồng bào còn
có vài anh lính của căn cứ 2, tôi theo họ vào gặp vị Thiếu-tá Tiểu-đoàn trưởng
để xin nhờ máy gọi về Tiểu-khu Bình-Tuy. Tôi nhận được lịnh ngày mai 23/03/1975
trực-thăng sẽ bốc chúng tôi. Kiểm điểm quân số chúng tôi còn 200 người, như thế
chúng tôi đã mất 40 người trong trận chạm súng ngày hôm qua và sáng nay với
việt cộng.
(Vài ngày sau tôi được
biết cánh B của tôi gồm có đại-đội 3/344 của Đại-úy Trương-Kiêm trực thăng tìm
thấy trong rừng và bốc về Long-khánh tổng cộng 36 người. Đại-đội 4/344 của
Đại-úy Nguyễn-châu-Luyện về được căn cứ 5 tổng cộng 15 người. Tiểu-đoàn 369/ĐP
phòng thủ bên trong Chi-khu về được 99 người, Thiếu-tá Xinh Chi-khu trưởng chỉ
một mình. Ông về tới căn cứ 6 thuộc Bình-Tuy cách xa Hoài-Đức 70 cây số. Riêng
Tiểu-đoàn 2/43 của Sư-đoàn 18BB tăng phái cho Hoài-Đức về được Long-Khánh,
thiệt hại không rõ. Như vậy Tiểu-đoàn 344/ĐP của tôi thiệt hại hơn phân nửa,
khoảng 260 người).
08:00 giờ tối ngày
23/03/1975, chúng tôi về đến Bình-Tuy, tôi vào trình diện Đại-tá Trần-bá-Thành
Tiểu-khu trưởng (Ông hiện định cư tại nam California, trước khi về BT làm Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu-khu trưởng, Đ/tá Thành là Trung đoàn trưởng Tr/đoàn 48/18BB).
Tôi trình bày sơ lược tình trạng hiện nay của tiểu-đoàn, sau đó Ông bảo tôi về
nghỉ ngơi mai sẽ tính... nhưng khi ra tới cổng tiểu-khu tôi bị ngất xỉu phải
chở vào bệnh viện vì kiệt sức. Đêm đó, bạn tôi Đại-úy Lê-Hùng tiểu-đoàn trưởng
TĐ341/ĐP vào bệnh viện mang tôi về hậu-cứ của anh ấy cho y-tá chăm sóc mặc
tiếng phản đối của nhân viên bệnh viện và Bác-sĩ (anh Lê-Hùng hiện đang cư ngụ
tại nam California).
Địa-phương quân
"đứa con không được chăm sóc của QLVNCH" người dân thành thị hầu như
quên lãng họ, đã chiến-đấu trong cô-đơn, trong điều-kiện trang-bị và hỏa-lực
yểm-trợ quá thiếu thốn... nhưng họ vẫn phải chiến-đấu để bảo-vệ Tổ-quốc và đồng
bào, chiến-công không ai biết và cái chết của họ cũng lặng lẽ theo tiếng kèn
truy-điệu. Tiếc thương họ có chăng là những tiếng nấc nghẹn-ngào của vợ, con và
những người thân thuộc, của những đồng đội đứng cúi đầu với dòng lệ tiếc thương
!
"Họ là những anh-hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can-đảm và tận tình giúp nước !”
(thơ Giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy)
Viết tại San Jose,
California cuối Thu 2011
Lê Phi Ô
Tiểu-đoàn trưởng
TĐ344/ Địa phương
Tiểu-khu Bình-Tuy -
(cựu tù A20).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét