Chuyện kể về một người Lính VNCH trước và sau 30 tháng 04 năm 1975.
A20 Lê Phi Ô
----------------------------
Tôi biết Nó từ khi hai đứa
còn cắp sách đến trường ở bậc Tiểu Học, rồi cả hai chúng tôi cùng vào năm Đệ Thất
trường Trung Học công lập Phan-Bội-Châu, Phan-Thiết.
Quê Nó tận ngoài xứ Huế xa
xôi, Mẹ nó... một cụ bà khoảng tuổi 50, sở dĩ tôi gọi là cụ bà vì với tuổi tác
của một đứa trẻ hơn 10 tuổi như tôi, thì người lớn cỡ tuổi 50 đối với chúng tôi
phải gọi là Bà. Bà cụ dáng vóc nhỏ nhắn, khi ra đường lúc nào cũng mặc chiếc áo
dài, đôi khi người ta thấy Bà đeo một chiếc vòng nơi cổ theo như cách phục sức
của hầu hết đàn bà xứ Huế. Bà có tài về gia chánh, Bà nấu những món ăn xứ Huế
ngon tuyệt, nghe nói Ông Ngoại nó khi xưa làm Quan ở Triều Đình nên con cháu,
nhất là con gái phải đi học về nữ công gia chánh. Ba nó lớn hơn Mẹ nó một con
giáp, Ông cụ là một nhà Nho và là bạn rất thân với Cụ Tản-Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu.
Năm 1945, Ông Hồ-chí-Minh mời Ba nó làm cố vấn cho Việt Minh ở Liên-khu 5 (Quảng-Nam,
Quảng Ngãi, Bình-Định và Phú-Yên), Ông cụ không thích cộng-sản nên từ chối
khéo. Khuyến dụ không được, bọn chúng bắt cóc Ông đưa vào vùng "kháng chiến".
Mãi cho đến khi Ông lâm trọng bệnh bọn chúng mới cho Ông về Đà-Nẵng để chữa trị...
và Ông đã tìm cách trốn vào Sài-Gòn, Ông sống với nghề viết Báo và dạy kèm chữ
Nho (môn Cổ Ngữ) cho những người chuẩn bị thi Cử Nhân. Thời Pháp thuộc, ở
Sài-Gòn có một tờ Nhật Báo "Thần Chung", tên nầy do Ông đặt ra.
Khi Ba nó trốn đi, bọn Việt
Minh cộng-sản bắt mẹ con Nó làm con tin và giữ hai mẹ con trong vùng rừng núi
Quảng-Nam, dân địa phương gọi nơi đó là trên "Nguồn". Lúc đó Nó chỉ mới
5 tuổi, Chi bộ Việt Minh ở đó, gom tất cả trẻ em từ 5 đến 12 tuổi, dạy cho bọn
trẻ cách canh gác và báo động khi thấy lính Lê-Dương đi ruồng bố. Một hôm, vì
ham chơi, bọn Lê Dương đến rất gần... Nó vừa kịp đưa nón lá lên quạt (ám hiệu
báo động có lính Pháp) thì nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Thằng nhỏ cùng tuổi với
Nó trúng đạn chết ngay tại chỗ, riêng Nó bị té xuống mương nước nhưng ráng chịu
đau... đứng dậy chạy dưới lằn đạn. Bọn lính Lê Dương mang đồ nặng và giày Đinh
chạy dưới ruộng nước chậm chạp nên không bắt kịp Nó. Tai nghe văng vẳng tiếng Mẹ
nó gào khóc từ xa: "Chạy con ơi !... chạy !". Cả xóm độ vài ba chục
người gồm người già, đàn bà và trẻ con chạy trối chết vào sâu trong núi trốn, mấy
ngày sau mới dám mò về làng vì đói. Còn Việt Minh CS thì không thấy thằng nào cả,
bọn nó bỏ cả dân chúng chạy trước để thoát nạn.
Vì rừng thiêng nước độc,
đau yếu không có thuốc men, hai mẹ con bị sốt rét rừng đầu rụng hết tóc, da
vàng như nghệ và coi bộ không sống nỗi. Bọn Việt Minh CS mới cho mẹ con Nó về Nam-Ô
(Quảng-Nam) để chữa trị, trên đường về phải luồn lách qua nhiều cánh rừng. Khi
ngang qua một trảng trống có vài miếng ruộng nhỏ... máy bay Pháp thấy nên sà xuống
bắn. Mẹ nó trốn trong bụi Dứa, còn Nó nằm nép sát bờ ruộng giả chết (theo lời dặn
trước của Việt Minh). Khi máy bay đi xa, cả hai mẹ con chạy trối chết đến chiều
mới ra được bờ sông, từ đây phải chờ ghe của mấy người đi vớt củi trên sông để
đi nhờ về chợ Nam-Ô khoảng 5, 6 cây số.
Lợi dụng cơ hội hiếm có, cả
hai mẹ con trốn thoát bằng đường biển vào Phan-Thiết sống nhờ bà con. Thời gian
ở Phan-Thiết, mẹ con Nó nhiều lần vào Sài-Gòn tìm Cha. Ông giờ đây già yếu, Nó
sống với Cha không bao lâu thì Ông chết. Dạo đó, báo chí Sài-Gòn trên tờ
Phân-ưu có viết: "Cụ Lê C. Ph. nhà Nho cuối cùng của làng báo Việt-Nam
không còn nữa !", trong lúc hấp hối, Ông cụ có viết để lại hai câu đối:
"Bể trầm luân theo chúng
lội ra khơi, sáu mươi năm nào giận... nào cười... nào khóc... nào thương, lăn
lóc vở tuồng trên vũ trụ -
Cuộc phiền não khiến
mình qua đủ cửa, ba thước đất hết dại... hết khôn... hết ngu... hết trí, rõ
ràng hạt bụi giữa tang thương !".
Số phận Nó long đong, ở
Phan-Thiết cũng không bao lâu. Người bà con là một viên chức Chính-Phủ bị Việt
Minh CS sát hại, người khác bị thương nặng trong một cuộc phục kích. Gia đình
ly tán từ đó, mẹ con Nó dìu dắt nhau vào Sài-Gòn sống nhờ một gia đình bà con
khác. Ông nầy là dân nhà Binh nên nay chỗ nầy mai chỗ khác. Nó đã từng theo Ông
sống ở Thủ-Đức (trong trường Bộ Binh), rồi Vũng-Tàu, Cà-Mau, Cần Thơ, Mỹ-Tho,
Gia-Định rồi Thủ-Đức..v..v.., do đó việc học nhiều lần cũng gián đoạn. Khi hai
đứa chúng tôi còn học chung ở bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp, vào những dịp trại hè
hoặc liên hoan ở trường, Nó thường lẻn trốn ra ngồi một mình nơi chỗ vắng, khi
tìm thấy... Nó vội quay đi để dấu hai hàng nước mắt. Tôi hiểu bạn tôi, tâm trạng
của kẻ nghèo, mồ côi Cha... nhất là khi nhìn những người khác, cha mẹ đủ đầy,
đi có người đưa... về có người đón. Mẹ nó tuy sống với bà con nhưng cũng phải
làm việc vất vả để có tiền nuôi Nó ăn học, lúc nào Nó cũng chỉ đi, về một
mình...!
Năm 1962, hai đứa gặp nhau
ở Sài-Gòn, Nó cho biết là đã nộp đơn tình nguyện vào Khóa 15 Liên Trường Võ-Khoa
Thủ-Đức. Mẹ nó già yếu lại mang bệnh suyển, chút ít nữ trang dành dụm khi trốn
thoát Việt Minh CS vào Phan-Thiết, tuy sống tiết kiệm tối đa nhưng nay cũng đã
cạn kiệt... không còn đủ để nuôi Nó ăn học. Trước đó 2 năm, Nó đã xin gia nhập
vào "Biệt-Kích Nhảy Bắc": Sở Bắc hay SB (Special Branch). Vì nghe đồn,
đơn vị nầy trước khi đi vào lòng Địch (ở miền Bắc) sẽ được nhận trước 12 tháng
lương tiền Tử-Tuất. Nó nghĩ, đi lính trước sau gì cũng chết... nhưng ít ra, trước
khi chết Nó đã có 12 tháng lương tiền Tử để lại cho Mẹ nó sống khi không còn có
Nó ! Nhưng là người Nam, muốn được chọn thì phải là người miền Bắc và nói giọng
Bắc, nên Nó không được tuyển dụng.
Khi còn học ở Vũng-Tàu
1959, Nó quen một cô bạn cùng trường tên Ph... khá xinh. Nhưng không lâu sau
đó, ông Chú nhà binh của Nó đổi đi tận Cà-Mau, Nó phải đi theo. Cuộc đời của Nó
là cả một chuỗi dài bất hạnh nối tiếp nhau, đôi khi muốn viết thư cho cô bạn
nhưng sợ gia đình cô ấy biết được sẽ phiền phức cho cô ấy, nên Nó đành câm nín
!
Đầu năm 1963, lúc còn đang
học trong Quân trường Thủ-Đức, Nó viết thư cho Ph., và chờ đợi với niềm hy vọng
mong manh... thời gian xa cách quá lâu, không biết Ph. còn ở Vũng-Tàu hay
không, có còn nhớ đến người bạn mà, đã có lần hai đứa đã nép sát vào nhau dưới
mái hiên dài vắng lặng trong một đêm mưa nặng hạt, với tiếng sóng biển rì rào
và tiếng gió rít rợn người vọng về từ đỉnh núi... khiến Ph. sợ hãi nép sát vào
người Nó hơn. Rồi cả hai thẹn thùng... khi nhận ra rằng vòng tay hai người ôm
nhau không biết tự bao giờ !!!
Hơn một tháng sau, trước
giờ ra bãi học chiến-thuật Nó nhận được thư hồi âm của Ph., "May quá Ph. vẫn
còn ở chỗ cũ !" thảng thốt gọi tên Ph. và với thái độ không được bình tĩnh,
Nó mở thư ra xem... bỗng người Nó chao nghiêng, lá thư rơi xuống đất. Anh bạn đứng
kế bên cúi xuống lượm lên trao cho Nó và, đột nhiên anh ta nói lớn với viên
Sĩ-quan cán bộ: "Thưa Chuẩn-Úy, Anh (...) trúng gió !". Tai Nó ù lên,
nhiều tiếng nói lao xao... rồi tiếng xe Hồng Thập Tự thắng gấp, Nó được hai anh
Quân Y dìu lên xe đưa về bệnh xá.
Lá thư trong tay Nó là một
thiệp cưới báo tin ngày Ph. lấy chồng !!! cuối tấm thiệp cưới Ph. viết một câu
ngắn: "Ph. lấy chồng, (...) có buồn lắm không ?!". Từ đó, cho dù những
buổi học Chiến-thuật hoặc Địa hình ngoài bãi tập mệt đến nhoài người... Nó vẫn
cứ đều đặn mỗi tối xuống Câu-lạc-bộ "Diệm-Song", gọi ly café đen với
một gói thuốc lá, ngồi hút liên tục. Trước khi trở về doanh trại, Nó thường yêu
cầu cô Cashier cho Nó nghe bản nhạc "Tà Áo Cưới" của Hoàng-thi-Thơ và
Nó khe khẽ hát theo đoạn cuối: "Bâng
khuâng trong gió bay tà áo, gió hỡi làm sao bớt lạnh lùng ! - Tôi đi, đi mãi
theo màu nắng, nắng để lòng tôi với quạnh hiu !"
Sau ngày mãn khóa, Nó theo
học khóa căn bản Tình Báo ở trường "Cây Mai" Sài-Gòn, và xin về phục
vụ tại Phòng 2 Tiểu-khu Phước-Tuy. Lúc đó Vũng-Tàu chưa tách rời thành Thị Xã
mà là một Quận của Tỉnh Phước-Tuy. Mỗi cuối tuần Nó thường thơ thẩn ở bãi trước
đường ra bãi Dứa gần Dinh Thượng. Nơi đây bãi cát trắng phau xen kẻ những ghềnh
đá mà mỗi cơn sóng vỗ làm tung những bọt nước trắng xóa. Nó, vẫn chỉ một mình
ngồi cho đến khuya trong không gian tĩnh lặng nghe sóng nước rì rào, nghe tiếng
Thùy-Dương vi vu vọng về từ bãi trước... những vết chân tình in trên cát thuở
nào nay đã mất dấu, cảnh cũ vẫn còn nhưng người xưa mãi mãi biền biệt phương
nào !!!
Chiến cuộc lan tràn... trận
đánh lớn nhất xảy ra tại Làng Bình-Giã, Quận Đức-thạnh đã gây một số tổn thất
cho quân của Chánh Phủ, trong đó Tiểu-đoàn 4 TQLC là thiệt hại nhiều nhất.
Phòng 3 Tiểu-khu Phước-Tuy
quyết định thành lập những toán Thám-sát lấy tên là Quyết Tử, lính được tuyển
chọn là những quân nhân gan dạ và tình nguyện từ các Đại-đội biệt lập hoặc
thành phần cựu binh từ các Quân, Binh Chủng bị báo cáo đào ngũ với nhiều lý do
khác nhau như Dù, TQLC, BĐQ..., Nó được chọn để chỉ huy đơn vị Thám-sát
"Quyết Tử" nầy, ban đầu quân số chỉ ở cấp Trung-đội sau lên đến Đại-đội
(-) khoảng trên 60 người.
Đang phục vụ trong nghành
Quân Báo tương đối it nguy hiểm, nhưng không hiểu sao Nó làm đơn xin ra khỏi ngành
và tình nguyện phục vụ bất cứ đơn vị tác chiến nào với lý do đơn giản:
"Thích đánh giặc" ! Trong thời gian còn làm việc ở ngành Quân Báo, Nó
chỉ huy chỉ một Tiểu-đội Tình Báo, đột kích vào sào huyệt việt cộng như Mật khu
Minh-Đạm, Dinh Cô, Long-Mỹ, Núi Đất... nhất là vùng Long-Tân thuộc Quận Long-Lễ
Tỉnh Phước-Tuy, nơi mà quân đội Úc hãnh-diện có một trận đánh để đời. Chỉ với một
Tiểu-đội 10 người Nó đã gây hoảng loạn và tổn thất đáng kể cho các đơn vị địa
phương việt cộng trong vùng mà bọn VC gọi là "Vùng giải phóng", vì thế
Nó được chọn chỉ huy đơn vị Thám-sát Quyết Tử.
Tình hình chiến sự trở nên
tồi tệ sau ngày đảo chánh 01 tháng 11 năm 1963, những cuộc chỉnh lý tiếp theo của
cấp Tướng Lãnh ở trung ương khiến tình hình ở địa phương càng thêm bi đát. Ấp
chiến lược bị dẹp bỏ, lính tráng tự động rã ngũ hoặc đào ngũ, mỗi Đại đội quân
số lúc đó không tới 40 người. Bọn cộng-sản lợi dụng tình hình rối ren của miền
Nam mở rộng hoạt động phá hoại từ "Chiến tranh Du Kích" chuyển sang
"Trận Địa Chiến", điển hình là trận đánh Bình-Giã tháng 12 năm 1964.
Mẹ nó, đêm đêm hướng mắt về vùng có Hỏa Châu soi sáng hoặc có tiếng Đại-Bác vọng
về, Bà cầu nguyện cho đứa con duy nhất của mình được an lành trên đường dài chiến
chinh. Trong một trận đánh lớn tại Xuyên-Mộc tháng 03 năm 1965, Nó bị thương
nhưng không nặng. Sau khi xuất viện, Mẹ nó thường ước ao mong sao Nó lấy vợ sớm
để Bà có cháu nội. Trong thâm tâm Bà, súng đạn vô tình, lỡ có mệnh hệ nào xảy
ra cho Nó... Bà sẽ sống với ai ! - Thương Mẹ, Nó lấy vợ và tháng 07 năm 1966...
Bà đã có cháu nội để ẳm.
Cũng cùng thời gian đó, với
bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, với một lý tưởng Quốc-gia trong sáng và với bộ
quân phục mặc trên người mà Nó luôn luôn hãnh diện. Thì cũng có, một vài cấp chỉ
huy bất xứng, phe phái, chèn ép... Nó đã đụng độ với một sĩ-quan đồng cấp
"người nhà" của "Xếp" lớn. Và, Nó bị thuyên chuyển đi nơi
khác... nơi mà, rừng núi bạt ngàn, nơi mà việt cộng nhiều hơn lính, nơi mà có
hai Quận (Chi-khu) hắc ám nhất: Tánh-Linh và Hoài-Đức (Võ-Xu, Võ-Đắt).
Cuộc chiến Việt-Nam chấm dứt
ngày 30 tháng 04 năm 1975 với sự "Chiến-thắng" của quân đội cộng-sản
miền Bắc. Một cuộc chiến thắng không vì độc lập Dân tộc, không vì quyền lợi Quốc-gia.
Một cuộc chiến thắng do sự sắp xếp, đổi chác của các thế lực ngoại bang.
Theo cùng vận nước nổi
trôi... Nó cùng nhiều trăm, ngàn Quân, Dân, Cán, Chính VNCH khác mà con số lên
đến hàng triệu người... trở thành người tù của chế độ mới, chế độ cộng-sản man
rợ trên tất cả sự man rợ. Bọn việt cộng muốn trả thù người miền Nam qua mỹ từ
"Trại cải tạo".
Năm 1978 Tù "cải tạo"
được giao cho công an cộng-sản giam giữ. Giáng sinh năm đó, tại trại tù Suối
Máu, Biên-Hòa. Anh em tù nổi dậy, phá rào ngăn cách các trại giam, ca nhạc
Giáng-sinh và nhạc Chính-Huấn VNCH suốt đêm. Nó tham gia tổ chức trừng phạt
Ăng-ten, dạy bài học đích đáng cho những tên phản bội anh em, hoặc những người
có thân nhân là việt cộng muốn lập công "để được cho về sớm" ?!.
Vài ngày sau, bọn công an
bắt đầu trả thù, Nó cùng 3 người khác, mỗi người bị nhốt riêng trong một thùng
sắt Container, trên người chỉ duy nhất một chiếc quần xà-lỏn, ban ngày nóng như
thiêu đốt, ban đêm lạnh cắt da của thời tiết mùa Đông. Cứ hai ngày thì bị công
an dẫn đi thẩm vấn một lần, thỉnh thoảng bị đánh đập... Công an tha hồ chửi mắng,
thoi, đạp bằng tay, chân và cả báng súng, riêng Nó bị đánh nặng. Anh Trương q.
Q. là bạn cùng khóa với Nó, hàng ngày mang cơm nước đến Container cho Nó, và
ngày nào cũng mang cơm thiu về vì Nó bị công an đánh ói máu không ăn uống gì được.
Anh Q. phải nấu cháo và hòa tan mấy viên thuốc trụ sinh vào trong cháo khuyên
Nó ráng ăn để sống. Đến ngày thứ tư, một người trong nhóm có tên là Long Ca-rô,
vì anh chỉ có độc nhất một chiếc áo ca-rô mặc trên người, bị đánh bằng báng
súng vỡ sọ chết. Từ đó những người còn lại không bị công an đánh nữa (các phân
trại khác thì không rõ).
Chừng hai tháng sau ngày
tù nhân Suối Máu nổi dậy, bọn công an thanh lọc những người tù có thành tích chống
đối nhiều nhất, trong đó có Nó, giải giao về khám Chí-Hòa Sài-Gòn. Nơi đây, người
tự xưng là cán bộ "chấp pháp" có tên là Trực, lần lượt thẩm vấn từng
người. Tù nhân bị dẫn đến phòng hỏi cung ban đêm, đầu bị trùm kín mít chỉ chừa
2 con mắt. Sau nhiều tháng nằm khu xà lim, tù được chuyển ra khu tập thể. Vào một
đêm nhà tù Chí-Hòa đang chìm trong giấc ngủ, đám tù nhân nổi dậy ở Suối Máu bị
đưa ra xe bít bùng, mỗi người được cấp phát một ổ bánh mì nhỏ với 2 cục đường
tán, không có nước uống. Khi đọc đến tên Nó, thằng công an hằn học: "Anh
làm tới Tiểu-đoàn Trưởng, chắc là phải giết nhiều người lắm !", cũng nhờ
thế Nó đọc nơi trang giấy trên tay thằng công an: "Họ, tên 163 can phạm trại
Tân-Hiệp (Suối Máu)", đây chỉ là danh sách đợt đi có mặt Nó. Trên đường
đi, mỗi khi xe dừng lại để bọn áp tải tù nhân nghỉ ngơi ăn uống, đồng bào nghèo
buôn thúng bán bưng biết được xe chở tù "Cải tạo" là họ kêu ầm lên:
"Bà con ơi ! xe chở mấy anh tù cải tạo, bà con ơi...!", thế là, đủ loại
bánh kẹo, trái cây, bánh tét, bánh ú, đồng bào liệng tới tấp lên xe, kèm theo lời
nói làm anh em tù ứa nước mắt vì biết được rằng đồng bào vẫn còn thương những
người lính miền Nam sa cơ: "Ăn đi mấy anh, ăn đi các con...!", cảm động
nhất là các em bé tuổi từ 10 đến 12, trong cái Nia hoặc Rổ nhỏ vỏn vẹn vài chục
trái chuối nấu hoặc mía ghim, cả một "gia tài" nuôi sống gia đình
trong ngày, các em hất hết lên xe biếu các chú tù !
Xe chạy đến chiều ngày hôm
sau thì tới Xuân-Phước thuộc Huyện Đồng-Xuân, Phú-Khánh (tên gọi mới của việt cộng),
tù phải lội bộ vài cây số mới đến trại mang bí số A20, còn có tên gọi khác là
Trại Trừng-giới hoặc Trại Kiên giam... nơi kiên trì giam giữ những tù nhân
"không cải tạo được" từ các trại giam khác (muốn biết trại giam nầy
khắc nghiệt và tàn độc đến mức độ nào, xin tìm đọc cuốn sách: "Trại Kiên
Giam" của nhà văn Nguyễn-Chí-Thiệp cũng là người tù của trại A20).
Nó bị bộ đội cộng-sản bắt
lúc 09:00 giờ sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975 tại chợ mới Vũng-Tàu, trước khi
Ông DVM tuyên bố đầu hàng. Bị đưa về giam tại hậu cứ Trung-đoàn 43/SĐ18BB tại
Long-Khánh. Khi các người khác trình diện "Học tập cải tạo" (theo
cách nói của VC) thì Nó bị nhập chung vào và bị giam giữ ở trại Hố-Nai. Giữa
năm 1976 Nó bị chuyển về Suối Máu rồi Chí-Hòa. Từ 30 tháng 04 năm 1975 đến giữa
năm 1979 (4 năm), Vợ Nó thăm hoặc gởi quà tất cả 6 lần.
Đầu năm 1976, khi còn bị
giam tại Hố-Nai, Vợ nó báo tin Mẹ nó chết. Đau đớn đến tận cùng, Nó toan trốn
trại mấy lần. Bất ngờ bị chuyển về Suối Máu nên ý định bất thành... và cũng thời
gian nầy, những gia đình ở Bà-Rịa thăm nuôi chồng, các bà xầm xì với chồng cũng
là bạn tù của Nó về Vợ nó... ít gởi quà hoặc thăm nuôi Nó, và cuối cùng Nó cũng
hiểu được rằng: Vợ nó bây giờ không còn là của Nó nữa, tiếc rằng quá sớm, quá sớm
để thay lòng đổi dạ một con người, chuyện xảy ra chỉ hơn một năm kể từ ngày Nó
bước chân vào trại tù.
Nó lầm lì it nói hơn, suốt ngày anh em thấy
Nó may vá cái ba-lô lấy vải từ chiếc võng nhà binh đã cũ, nếu tinh ý sẽ thấy Nó
đang chuẩn bị cho một cuộc trốn trại. Và, lũ chó săn (Ăng-ten) cũng có đứa tinh
ý nên... chỉ trong vòng 4 tháng, Nó bị chuyển từ K2 đến K4, rồi K3 và về lại K2
(Trại tù Suối Máu có 5 khu, từ K1 đến K5). Cho đến đêm Giáng-Sinh năm 1978, cuộc
nổi dậy của tù nhân Suối Máu khiến cho bọn VC sợ hãi điều động bộ đội và cả
Trung-đoàn xe Tăng T54 bao vây bên ngoài... và, Nó có tên trong số tù nhân bị
chuyển về nhà tù Chí-Hòa như đã nêu trên.
Ở trại tù A20 Xuân-Phước,
mọi tù nhân đều bị lao động khổ sai, đào mương, vét cống, cuốc đất trồng khoai
mì, kéo cày thay trâu v..v.. Mỗi người chỉ nhận được 2 chén khoai mì H34 với nước
muối cho một bữa ăn, loại khoai mì H34 chỉ để dùng trong kỹ nghệ chế biến, cho
heo ăn, Heo cũng không thèm ăn.
Suốt 6 năm tù sau cùng... Nó
chỉ ăn toàn bắp, khoai mì H34 với nước muối. Vào dịp tết âm lịch, Nó cũng như mọi
tù nhân khác được ăn hai bữa cơm, mỗi bữa 2 chén cơm lưng, với một cục thịt heo
lớn bằng ngón tay, và chỉ có thế. Mẹ chết, Vợ bỏ, tứ cố vô thân không ai thăm hỏi,
sức lực không còn thêm vết thương tinh thần quá lớn làm Nó suy sụp thấy rõ. Một
hôm đang lao động, Nó ngã gục vì kiệt sức, may nhờ có Bác-sĩ Trần-Quý-Nhiếp Thiếu
Tá Nhảy Dù ở chung một nhà tù với Nó cứu chữa kịp. Không có thuốc men gì cả,
Anh Nhiếp châm cứu Nó bằng những cây kim làm bằng giây điện thoại lượm được khi
đi lao động. Tình trạng đói khát nầy nếu kéo dài... có lẽ Nó không thể nào sống
nỗi.
Một hôm đang đào ao cá
trong trại, Nó gặp anh Ph. ở đội Văn Thể (Văn nghệ - Thể thao) rủ Nó xin về đội
Văn Thể để đỡ phải lao động ngoài nắng. Anh Ph. là một kép hát cải lương (hiện
còn ở VN), bị án tù 10 năm về tội "Phản cách Mạng" khi tham gia vào một
phong trào phục quốc sau 30 tháng 04/1975. Anh Ph. biết rõ Nó có nghề Ảo thuật,
Nó là bạn của Nhạc-sĩ Bảo-Thu tức Ảo-thuật-Gia Nguyễn-Khuyến. Chỉ còn con đường
cuối cùng là vào đội Văn Thể may ra mới có thể sống còn để về với 4 đứa con, mà
đứa lớn nhất 13 hoặc 14 tuổi (1981).
Gần cuối năm 1981, một anh
trong đội Văn Thể gọi Nó lên nhận quà của gia đình gởi. Phản ứng đầu tiên là Nó
giận dữ và cay đắng nói với anh ấy: "Anh còn cách nào đùa giỡn hay hơn nữa
không ?!". Ai cũng biết, nhiều năm nay Nó là "con Bà Phước", những
ai không bà con, họ hàng thân thích, không hề nhận được chút quà bánh nào từ
bên ngoài gởi vào, anh em đều gọi là con Bà Phước. Nhưng thật tình Nó có quà thật,
quà của "Vợ" nó gởi ! một gói quà nhỏ chừng hơn 2 ký lô, trong chứa
thức ăn để dành được lâu ngày vì người tù không có điều kiện để nấu nướng. Một
anh bạn khác nhìn thấy Nó đang mân mê gói quà trên tay, anh mừng rỡ nói:
"Mầy cũng có... quà hả ?!", câu nói đầy thiện ý, mừng giùm cho bạn
nhưng sao Nó nghe như một lời mỉa mai: "Mầy mà cũng có quà nữa sao
?".
Năm 1982, Nó có tên trong
số người được thả về, trại tù cấp phát $70.00 tiền VC lúc đó, số tiền chỉ đủ để
đỡ đói lúc đi đường thôi. Nó được công an trại tù chở bằng xe ra tới Ga xe lửa
La-Hai, từ đây Nó đón Tàu về Biên-Hòa. Trên đường đi, mỗi khi Nó ăn uống gì
xong, khi gọi tính tiền, những người bán hàng đều trả lời: "Có người trả rồi",
năn nỉ mãi người bán hàng cũng không chịu nói là ai đã trả tiền giùm Nó. Nó
đành phải cám ơn người bán (người bán hàng có thể là một Ông già, một Chị, một
cô Gái hoặc một em nhỏ tuổi chừng 15, 16). Một chút xúc động về tình người làm
tim nó cảm thấy ấm áp, cái cảm giác mà Nó tưởng chừng đã tê liệt suốt những năm
tháng tù tội. Hành trang của Nó khi ra khỏi trại tù cộng sản chỉ vỏn vẹn một
bàn chải đánh răng đã cùn, một bộ đồ mặc trên người với hàng trăm mảnh vá, trên
lưng áo cũng như hai bên ống quần còn nguyên dấu hai chữ "cải tạo" bằng
sơn đen to tướng. Nhưng cũng nhờ thế, ai thấy cũng muốn giúp đỡ, ăn uống gì
xong người bán đều trả lời: "Đã có người trả tiền !".
Về đến chợ Biên-Hòa lúc
04:00 giờ sáng, có người chỉ cho Nó tìm mấy xe hàng chở Dưa Hấu, họ sẽ đi
Bình-Giả chở Dưa lúc 06:00 giờ. Người Tài xế tốt bụng cho Nó đi nhờ xe về
"quê vợ" Nó ở Bà-Rịa.
Hơn 08:00 giờ sáng xe tới
Bà-Rịa, Nó lững thững đi bộ về "Nhà". Khi ngang qua một tiệm bán Bún
Bò Huế, một người gọi tên Nó: "Ê (...) vào đây !", Nó quay lại thấy
Xê "Pháo-Binh", anh bạn nầy được thả về trước, trên tay cầm xấp vé số.
Xê lôi Nó vào quán, lần đầu tiên sau 7, 8 năm Nó mới được ăn một tô bún bò ngon
như thế. Hai người ăn xong, đang xỉa răng thì Xê ngập ngừng: "Trước hết, mầy
hãy bình tĩnh nghe tao nói !". Nó biết Xê sẽ nói gì... vì từ lâu Nó đã chuẩn
bị tinh thần để nghe chuyện nầy. Xê tiếp: "Sau khi tao nói xong, mày muốn
về thì... về, còn như không muốn về thì... mầy theo tao, ở tạm nhà tao rồi tính
sau !"... và, với giọng trầm buồn Xê kể những điều nghe, thấy về "Vợ"
nó. Nó ngồi nghe Xê kể với gương mặt giá băng và bất động, duy chỉ có ánh mắt
là không thể nào dấu được nét xúc động làm ướt bờ mi !
Thằng Xê thương bạn nhưng
không biết phải làm sao ! Xê gọi café sữa đá cho hai đứa. Nó không thể nào uống
nổi một hớp dù chỉ là một hớp nhỏ. Không gian như ngừng đọng, khi thằng Xê lay
khẽ tay Nó như chợt tỉnh, nói nhỏ với Xê như nói với chính Nó: "Tao phải về,
từ lâu... tao chưa được gặp con tao, tụi nhỏ bây giờ chắc... lớn lắm !"
Gần một tháng sau ngày về
"Nhà" gặp được mặt con, người ta thấy Nó khiêng vác ở chợ cá Bà-Rịa.
Ban đêm Nó ngủ ngồi ở sạp cá, dù mỏi mệt cách mấy Nó cũng không dám nằm, Nó
không muốn người ta thấy Nó... tàn tạ như vậy ! Vào những đêm trăng, mấy người
đi Chùa ở Xóm Cát, khi ngang qua Nghĩa-địa Việt-Hoa, thỉnh thoảng có người nhìn
thấy Nó ngồi... khóc trước Mộ của Mẹ nó... Nhiều người ở Bà-Rịa đều biết cái chết
thảm thương của Bà Cụ, nhất là hai mẹ con cô Thìn Y-tá làm việc trong bệnh viện.
Người ta nói, khi mẹ nó bị bệnh không biết nặng nhẹ, "Vợ nó" mang
vào, nói với nhân viên bệnh viện Bà-Rịa là: "Bà già nầy đi ngang nhà... bị
ngất xỉu, tôi mang vào giùm". Bệnh viện thời việt cộng (tháng 01 năm 1976)
không có trách nhiệm nuôi ăn bệnh nhân, các con của Nó thì còn quá nhỏ, đứa lớn
nhất chỉ mới 9 tuổi, vài ngày sau Mẹ nó chết... vì đói !!! Đám ma mẹ nó chỉ có một người duy nhất mang
hòm đi chôn, đó là Cậu em vợ của Nó. Người hàng xóm cho 4 tấm ván tạp để đóng
hòm, tạm gọi là hòm vì 4 tấm ván kích thước, dày, mỏng khác nhau.
Đôi khi uất ức về cái chết
thảm thương của mẹ nó, vì sự bất nhân của người đàn bà một thời là "Vợ hắn",
Nó đã gói sẵn con dao bén nhọn trong tờ báo... nhưng khi nghĩ đến những đứa
con, Nó không muốn các con của Nó mồ côi Mẹ hoặc Cha, hoặc cả hai !
Năm 1988, Nó vượt biên bằng
ghe và định cư ở California tháng 03 năm 1989.
A20 Lê Phi Ô
tháng 07 năm 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét