Chương Hai
Theo quân Bắc Việt, cán
bộ các ngành vào tiếp thu các cơ sở ở miền Nam, những người Cộng Sản Tập Kết
được ưu tiên vào Nam thăm gia đình. Người ta đã nói nhiều đến sự nghèo đói và
dốt nát của cán bộ miền Bắc, nói đến những sự giúp đỡ của bà con miền Nam đối
với thân nhân miền Bắc vào thăm. Người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng.
Trước khi vào Nam, các
cán bộ phải học tập những điều phải làm, phải nói để bà con miền Nam tin là
miền Bắc là ưu việt, là xã hội phát triển tiến bộ. Những buổi sinh hoạt công
khai cán bộ cứ theo chỉ thị mà nói, mà vẽ nên cái thịnh vượng của miền Bắc Xã
Hội Chủ Nghĩa, còn miền Nam chỉ là phồn vinh giả tạo. Từ đó đồng bào miền Nam
đã được nghe nói miền Bắc cái gì cũng có dư thừa như tủ lạnh thì chạy đầy
đường, kem thì dư quá phải đem phơi khô không hết. Cán bộ miền Bắc làm nhiệm vụ
của mình đối với Đảng, đối với nhà nước, nhưng với bà con trong gia đình thì họ
thì thầm nhỏ to nói hết sự thật. Họ dặn dò bà con không nên bán đồ đạc trong
nhà, nếu có tiền thì mua thêm, nên mua vàng bạc nữ trang cất giấu vì tiền giấy
không có giá trị và bị thay đổi thường xuyên, không nên tồn trữ cồng kềnh sẽ bị
kiểm tra tịch thu. Phải bám lấy Saigon và tỉnh lỵ, không đi vùng kinh tế mới,
nếu buộc phải làm thì trì hoãn. Lời dặn bám Saigon và tỉnh lỵ không đi kinh tế
mới là lời dặn có ích cho dân miền Nam.
Trong buổi giao thời, lòng hoang mang lo sợ, nhiều người chuẩn bị rời
thành phố về quê, bởi lẽ thay đổi cuộc sống đột ngột, hầu hết cứ tưởng ở Saigon
không phương kế sinh nhai, cực khổ gì cũng phải tìm mảnh vườn, đám ruộng làm
nếp sống cơ bản. Vả lại, ai cũng nghĩ lệnh của nhà nước Cộng Sản là nghiêm lệnh
không thể không thi hành.
Bà con miền Bắc còn dặn
không bao giờ tự giác nhận tội, tự giác nhận lãnh công tác như lời tuyên truyền
khuyến dụ vì “tự giác là tự sát”. Theo bài học sơ khởi của bà con, cái hạng
nhất là thái độ “ù ơ ví dầu” “nước chảy hoa trôi” dù có bị phê bình là tiêu
cực, luôn luôn nhất trí, không cãi lại, vì cãi lại là phản động - “nhất trí
nhưng cứ mỗi người một ý ”, nhất lý, nhì ù lì, đó là những thái độ sống thích
ứng do bà con có kinh nghiệm truyền cho.
Chú Bình đến nhà tôi
vào buổi chiều có mưa nhẹ, mới 5 giờ chiều mà mọi nhà đều đóng cửa. Đường Hùng
Vương, Thị Nghè một trong những con đường chính từ miền Đông và miền Trung vào
Saigon vắng tanh, thỉnh thoảng mới có một xe bộ đội hay công an chạy qua. Chỉ
có những con chó đói của những gia đình di tản bỏ lại chạy đi bới những đống
rác một cách tuyệt vọng, chỉ thời gian ngắn mà Saigon đã dè sẻn miếng ăn, không
vất bừa bãi như trước.
Khi thấy bóng dáng
người cán bộ Việt Cộng mặc áo mưa, đội nón cối đi lại trước nhà, ba tôi tái
mặt, ông bảo tôi mở cửa sau đi ra khỏi nhà. Mấy hôm nay có nhiều trường hợp bắt
bớ, nhất là những tên công an Liên Khu 5 vào Saigon bắt những viên chức phục vụ
các tỉnh miền Trung. Tuy tôi đã rời Quảng Nam hơn hai năm nhưng tôi người địa
phương ngoài đó, biết đâu không ở trong danh sách truy tìm của họ. Ai cũng biết
tính quá khích của Việt Cộng ở các tỉnh miền Trung. Cán bộ Việt Cộng có nhiều
quyền sinh sát nên họ tàn sát tùy tiện bừa bãi nhiều trường hợp chỉ là những
hiềm thù cá nhân. Trong những ngày đầu tháng 4-1975, các tỉnh miền Trung từ
Quảng Nam đến Phú Yên đã tắm máu, nạn nhân là viên chức cấp thấp như xã ấp,
cảnh sát không chạy được về Saigon trước khi toàn miền Nam sụp đổ.
Ba tôi ra mở cửa, người
khách giới thiệu lý lịch một lúc ông mới nhận ra bà con. Chú Bình là chú họ của
tôi. Lúc nhỏ gia đình khá giả, chú được cho vào “vùng tự do” để học ở trường Lê
Khiết - Quảng Ngãi. Năm 1954 chú tập kết ra Bắc. Ba tôi tiếp khách một cách
lạnh nhạt, ông không thích “những người bên kia” dù là bà con trong thân tộc.
Sợ mếch lòng khách, tôi bước ra cố gắng vồn vã chào hỏi. Câu hỏi đầu tiên của
chú làm tôi ngạc nhiên:
- Tại sao cháu không đi
Mỹ? Về đến Đà Nẵng, gặp chị (mẹ tôi) nói cả gia đình ở lại Saigon. Cháu không
đi nước ngoài thật vô lý.
Tôi không biết nói thế
nào cho phải. Chú nói tiếp:
- Cháu có biết có nhiều
cán bộ đi theo đoàn quân về Nam chỉ muốn mặt trận cầm cự được thời gian để họ
kịp ra hồi chánh, rồi chạy đi ngoại quốc không? Thà ra ngoại quốc hốt cứt ngựa
còn hơn là ở lại trong nước.
Tôi vẫn dè dặt:
- Đã có hòa bình rồi, ở
lại trong nước mà sống như người dân bình thường, họ nỡ giết chết sao?
Chú xẵng giọng:
- Làm sao sống như
người bình thường được, Xã Hội Chủ Nghĩa không có người dân nào là dân bình
thường cả. Tất cả đều phải ở trong một bộ máy, người bị gạt ra khỏi guồng máy
là phản động, phải bị chuyên chính, phải đi cải tạo thôi. Cháu là viên chức cao
cấp của chính quyền, sao không hiểu gì chế độ Cộng sản hết.
Bị chê trách kém hiểu
biết về Cộng Sản, tôi cảm thấy hơi tự ái nên tôi cãi lại:
- Cháu cũng có biết là
Cộng Sản độc tài, tàn ác, vô nhân đạo, nhưng chạy ra ngoại quốc thấy nhục và
phiêu lưu quá, vả lại chính sách 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng và Hiệp Định
Paris có quy định là không trả thù.
- Cháu đừng nghĩ trả
thù chỉ là giết chết - họ sẽ không giết nhưng họ sẽ đưa đi các trại tập trung
cải tạo không có ngày về. Chú tưởng người như cháu không nên tin vào sự hứa hẹn
trong chính sách hòa hợp hòa giải của chính phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam - mà
chính phủ này có quyền hạn gì đâu - tất cả đều được quyết định từ ngoài Bắc.
Cháu có biết là khi tin miền Nam được hoàn toàn giải phóng, dĩ nhiên ngoài Bắc
người ta mừng rỡ, nhưng bên cạnh những người vui mừng chiến thắng có những
người đã khóc. Những người họ mong chờ miền Nam ra giải phóng cho họ khỏi đời
sống tối tăm như trong ngục tù.
Những lời trách móc của
chú Bình làm cho tôi cảm thấy sững sờ và càng tăng thêm lo sợ.
Bữa cơm xoàng trong gia
đình làm chú xúc động. Thấy mấy em nhỏ vào bữa cơm chào mời lễ phép chú khóc.
Ngoài Bắc đã mất những hình ảnh đó từ lâu rồi. Giáo dục miền Bắc chỉ dạy trẻ
con trung với Đảng, hiếu với dân, họ muốn vô hiệu hóa gia đình nên chỉ dạy trẻ
con tinh thần đấu tranh, đấu tranh từ bản thân đến cha mẹ, anh em. Phần vì chủ
trương đường lối, phần vì cuộc sống, cha mẹ không gần gũi con cái trong sinh
hoạt của chúng nên trẻ em ngoài Bắc rất mất dạy, chúng không còn biết tôn trọng
cha mẹ hay thầy cô giáo. Nhiều đứa trẻ mới 13, 14 tuổi đã biết chọc cô giáo với
những lời lẽ tục tĩu. Tình trạng nhà ở chật chội, những gia đình đông đúc sống
chui rúc, nên trẻ con suốt ngày đánh lộn, chưởi bới nhau, học hành chỉ là một
hình thức không có phẩm chất bao nhiêu.
Chú Bình bảo tôi ngây
thơ và hiểu biết về Cộng Sản quá ít khi tôi hỏi về chủ trương một trăm năm
trồng người của ông Hồ tạo dựng con người Xã Hội Chủ Nghĩa, để xây dựng Chủ
Nghĩa Xã Hội. Chú nói Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa là làm cách mạng để thay đổi
quan hệ sản xuất trong xã hội, cách mạng văn hóa thay đổi tương quan giữa người
và người. Nên phải đả phá nếp sống cũ, thay vào tư tưởng mới, con người hy sinh
cá nhân cho tập thể . Tập thể, một chủ thể mơ hồ được gọi là nhân dân, nhưng
nhân dân không phải là mọi người mà là Đảng. Vì Đảng là tổ chức tiền phong của
giai cấp công, nông dân - thành phần cốt lõi của nhân dân.
Đảng chủ trương phá bỏ
luân lý cũ, phá vỡ trật tự xã hội, đưa trẻ con ra ngoài xã hội, nhưng Đảng lại
quá tham lam, họ muốn sử dụng đứa trẻ mà không cưu mang nó, bắt gia đình phải
nuôi nó, Đảng chỉ dạy cho nó hận thù và những phương pháp đấu tranh. Họ phủ
nhận tình thương giữa con người với nhau.
Kết quả là tạo nên
những quái thai của thời đại. Chú nói những con người Cộng Sản thế hệ kháng
Pháp còn chịu ảnh hưởng của luân lý cũ nhưng họ phải giấu kín cái đức tính đó,
còn người Cộng Sản ở thế hệ mới lớn lên sau Hiệp Định Genève, gọi là thế hệ trẻ
thì hoàn toàn hư hỏng.
Tôi hỏi: “Sau khi chiếm
được miền Nam, chính sách đối với lớp trẻ thế nào?”
Chú Bình: “May ra họ
tin vào lớp trẻ dưới 10 tuổi và dĩ nhiên là con cái của gia đình trong sạch,
không nằm trong giai cấp bị chuyên chính tức là những gia đình liên hệ tới chế
độ cũ và gia đình trí thức, tư sản”.
Tôi thấy nhói ở tim và
buốt trong óc. Những tài liệu đọc về Cộng Sản đều đúng, nhưng tôi không tin
mấy, vì nó quá tàn nhẫn và dã man đến độ khó tin, nhưng là sự thật. Những đứa
em nhỏ, những đứa con của tôi, chắc chắn sẽ không được tiếp tục học lên lớp
cao, và sẽ bị khó dễ rất nhiều trong việc đi tìm ngành nghề cho đời sống. Lúc
đó tôi mới biết hết hậu quả của một quyết định sai của tôi. Ở lại, không những
tôi bị tù đầy, mà gia đình tôi cũng bị trả thù bằng chính sách phân biệt đối
xử. Tôi đã nghĩ một cách sai lầm là nếu tôi có bị hoàn cảnh lịch sử bỏ rơi, thì
con em tôi còn nhỏ có thể được lớn lên như là một người Việt Nam bình thường.
Tôi bắt đầu thấy chính sách trả thù của Cộng Sản còn độc ác hơn là tắm máu.
Chú Bình tiếp: “Ở miền
Bắc người ta đều hiểu sai về miền Nam, hệ thống tuyên truyền của Hà Nội đã mô
tả xã hội miền Nam cực kỳ xấu xa, lạc hậu và nghèo đói”. Khi được phép vào Nam
chú lo lắng không biết lấy gì để đem về làm quà cho bà con - vì chú không có dư
dả. Chú thím bàn nhau mãi mới quyết định trích phần tiền nhỏ nhoi để dành mua
được 5 khăn tay, 4 hộp sữa nhãn hiệu Liên Sô viện trợ và hai ký muối, 5 khăn
tay để làm quà cho 5 người cháu ruột ở Đà Nẵng, 4 hộp sữa và 2 ký muối làm quà
cho gia đình anh ruột và gia đình tôi. Khi lên xe đò chú giữ nâng niu món quà,
tưởng tượng thân nhân sẽ vô cùng sung sướng. Đường quốc lộ số 1 lồi lõm đầy hố
bom Mỹ, xe chạy tung bụi mờ mịt, có đoạn xe phải băng xuống ruộng vì khoảng
quốc lộ đã bị bom phá nát không đi được. Qua khỏi Thanh Hóa chú mất cái khăn
tay. Đường còn xa, bụi dơ bẩn, không thể nào không dùng một cái khăn. Đầu óc
chú cứ phân vân, nếu dùng một cái khăn tay thì một người cháu ở Đà Nẵng không
có quà. Chú phấn đấu với bản thân, khi xe ngừng ở Vinh để hành khách rửa mặt
giải lao, chú quyết định xé ngang vạt áo sơ-mi làm khăn lau để đảm bảo đủ 5 cái
khăn cho 5 đứa cháu. Một quyết định lúc đó đối với chú thật quan trọng, chú
phải hy sinh một cái áo “còn tốt” của chú để bảo vệ quà đủ cho người thân ở
miền Nam. Xe qua Bến Hải vào đến Quảng Trị, chú Bình thoáng chút nghi ngờ,
đường quốc lộ rộng thênh thang, thẳng tắp, rồi thành phố Huế khang trang hiện
ra, chú tự hỏi nếu đời sống miền Nam cơ cực làm sao nhà cửa, phố xá, quốc lộ
đều to lớn, mới mẻ nói lên một cảnh ngược lại những gì chú được học từ bấy lâu
nay. Về đến Đà Nẵng, chú bắt đầu thấy rõ là mình bị lừa gạt. Về đến nhà người
anh, chú sững sờ trước một ngôi nhà đồ sộ hai tầng, chú sợ lầm địa chỉ, đi tới,
đi lui cả buổi không dám gọi cổng. Cuối cùng chú “đánh liều” bấm chuông cửa.
Hơn 20 năm chú còn nhận ra người anh ruột. Cuộc sống của gia đình người anh,
một thương gia hạng trung ở Đà Nẵng đã làm chú choáng ngộp, phương tiện vật
chất, xe hơi, xe Honda của các cháu, TV, tủ lạnh, quạt máy đầy đủ tiện nghi,
tương quan trong gia đình tôn ti trật tự cha con, chồng vợ, anh chị em không
khác thời nhỏ chú được dạy và giờ đây chú mới lại tìm thấy. Chú Bình đã khóc
ngon lành trước sự kinh ngạc của mọi người. Các món quà lúc đầu chú không dám
đưa ra, nhưng cuối cùng để cho mọi người hiểu chú đem ra tất cả để trình bày mà
không cần giữ lại 2 lon sữa và 1 kg muối cho gia đình tôi. Mọi người thương chú
và cười ra nước mắt. Đồng thời lúc đó gia đình còn phát giác chỉ cho chú một
điểm nhỏ của sự lừa bịp có hệ thống: Những lon sữa có nhãn hiệu Liên Sô thật ra
là sữa Foremost sản xuất tại miền Nam, người ta đem về Bắc bóc giấy in nhãn
hiệu Liên Sô dán vào nhưng chữ F đóng nổi ở dưới đáy hộp không xóa được.
Những ngày còn ở lại
Saigon, mỗi chiều chú thường tới nhà tôi để nói chuyện, để trao đổi nhau những
ý nghĩ của chúng tôi những người còn trẻ, tuổi tác gần nhau, có chút quan tâm
đến đất nước, dù chú và tôi đã ở hai chiến tuyến và hiện chú là kẻ chiến thắng,
tôi là người chiến bại.
Tôi lần lượt nêu những
thắc mắc của tôi. Chú trả lời theo những sự hiểu biết của chú, có thể chủ quan,
nhưng không xa sự thật.
Tôi hỏi chú, dư luận
cho là nếu Bác Hồ còn sống thì sau khi chiếm miền Nam, chính sách sẽ cởi mở hơn
vì Bác Hồ là người yêu nước và thương dân.
Chú Bình đáp ngay không
do dự: “Bác Hồ là người yêu nước, có thể đúng, nhưng phải là nước Việt Nam Xã
Hội Chủ Nghĩa. Bác Hồ là người cách mạng rất quá khích, càng về già Bác càng
quá khích hơn, Bác tha thiết muốn hoàn thành giải phóng miền Nam. Bác có hai
ước mong là chiến thắng miền Nam thống nhất đất nước, và giảng hòa được sự mâu
thuẫn giữa Liên Sô và Trung Quốc. Bác chết thì sự ước mong của Bác là được gặp
hai vị tiền bối là Karl Marx và Lénine”.
Chú hỏi tôi: “Cháu có
biết tại sao Bác Hồ chết không?”
Tôi lắc đầu, chú nói
ngay: “Vì Trận Mậu Thân”. Bác Hồ tin tưởng lần đó miền Bắc sẽ chiến thắng nên
Bác ra lệnh cho dồn hết lực lượng để Tổng Tấn Công. Kết quả thảm hại, có sư
đoàn bị tiêu diệt chỉ còn hơn 30 người chạy được về hậu phương. Được tin thất
trận, Bác Hồ đã thổ ra huyết, từ đó Bác yếu dần cho đến chết vào mùa Thu năm
1969.
Sau thất bại Mậu Thân,
Bộ Chính Trị họp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm bản phúc trình xin rút quân để
hòa đàm, vì ông ta nhận định không thể chiến thắng quân sự ở miền Nam.
Bác Hồ gọi ông Giáp
nói: “Tôi đã đọc tham luận của chú. Chú theo tôi chiến đấu đã lâu, nay chú đã
mệt mỏi, chú cần được nghỉ ngơi”. Tướng Giáp được lệnh lên nghỉ mát sáu tháng ở
Việt Trì, đó là hình thức cải tạo dành cho các nhân vật đầu não.
Tôi vừa ngạc nhiên vừa
thích thú, nói chuyện với chú Bình biết được nhiều sự việc quan trọng, nếu những
việc chú trình bày có chủ quan không chính xác đến 100% thì ý nghĩa của nó
khiến tôi cũng có thể nắm được điểm chủ chốt của xã hội miền Bắc mà không phải
tốn nhiều thì giờ tìm hiểu.
Tôi hỏi dò:
- Hình như người ta đồn
Tướng Giáp không còn nhiều thực quyền.
- Không những không còn
nhiều, mà đã mất hết thực quyền. Tướng Giáp có uy tín nhiều trong quân đội, dư
âm của chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn, vì người ta mãi khoa trương, nên nếu
loại bỏ Tướng Giáp lòng quân và lòng dân sẽ hoang mang. Vả lại họ đang tranh
thủ dư luận thế giới ủng hộ, mặt trận ngoại giao của họ rất quan trọng và quyết
định chiến thắng. Trong hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc, Tướng Giáp được công luận
Tây phương biết đến nhiều nhất. Nếu loại bỏ Tướng Giáp, báo chí Tây phương sẽ
viết ầm lên - dư luận sẽ bất lợi. Tướng Giáp còn bị tố cáo liên hệ đến một âm
mưu chống đảng, có nguy cơ bị tước mất đảng tịch.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Miền Bắc cũng có âm
mưu chống đảng hay sao?
- Chống đảng là một
hiện tượng hiếm có trong Xã Hội Chủ Nghĩa. Tướng Đặng Kim Giang và một số sĩ
quan cao cấp ở Bộ Quốc Phòng như Tướng Đỗ Đức Kiên Cục Trưởng Tác Chiến, Nguyễn
Minh Nghĩa Cục Trưởng Quân Báo, Lê Minh Nghĩa Chánh Văn Phòng Bộ Quốc Phòng,
Ung Văn Khiêm, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao bị tố là có âm mưu chống lại đảng.
Ông Khiêm không bị giam
vì không có bằng chứng xác thực, nhưng bị hạ tầng công tác và bị cô lập, các
Tướng thì giam ở Hỏa Lò.
Những người trên không
chủ trương dùng quân sự để thôn tính miền Nam, trái với chủ trương của Bác Hồ
và những người lãnh đạo cao cấp như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh. Năm 1972
Mỹ ném bom khốc liệt, miền Bắc hết sức chịu đựng, dân chúng thán oán, chính
quyền đã xử tử nhiều người để trấn an dư luận. Nhưng nếu Mỹ tiếp tục ném bom,
có lẽ bộ chính trị phải đầu hàng. Nhưng Mỹ ngưng đúng lúc để miền Bắc tồn tại
và ngày nay chiến thắng. Ngoài Bác Hồ ra, Trường Chinh là người quá khích. Nếu
Trường Chinh làm Tổng Bí Thư hay Bác Hồ còn sống, chắc miền Nam đổ máu nhiều
hơn.
Tinh thần quá khích của
Bác Hồ thể hiện qua chính sách dùng người. Bác ra chỉ thị “Hồng trước chuyên
sau”, “Hồng” tức là lòng trung thành với Đảng, “Chuyên” là khả năng chuyên môn.
Chính sách nhân sự đó
làm cho miền Bắc càng khủng hoảng quản lý. Có hai hệ thống đảng, mỗi cơ quan có
một đảng ủy, và hệ thống chính quyền - mỗi cơ quan, mỗi cơ sở dầy đặc cán bộ,
chưa kể những lủng củng vì tranh chấp lãnh đạo, tranh chấp quyền lực, vì kém
khả năng, vì tính cách thư lại, tính cách tập trung, nặng họp hành, trình báo
giấy tờ, bộ máy chính quyền cồng kềnh hao tốn tiền của mà không đạt được hiệu
năng. Dân thì đói nhưng nhà nước thì lãng phí, nhà nước hô hào tiết kiệm tăng
năng suất, công nhân cứ làm việc qua loa hết giờ vì làm nhiều họ vẫn không có
lợi, họ vẫn đói.
Bác Hồ cũng thực hiện
chính sách nhân sự như các vua chúa thời trước. Chúa Trịnh dùng lính Tam Phủ
Thanh Nghệ Tĩnh làm lính tâm phúc thì Bác Hồ cũng dùng người Khu Tư để lãnh
đạo, người Bắc nói “Khu Tư lãnh đạo, Khu Năm quản lý”. Lực lượng công an, Bác
chỉ thị phải có 50% là người Nghệ Tĩnh.
Qua lần nói chuyện với
chú Bình tôi rõ hơn về Hồ Chí Minh, khởi đầu ông là người yêu nước như những
người đồng thời với ông, ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng đất nước khỏi ách
thực dân Pháp. Khi ông đọc Karl Marx và Lénine, ông tin là con đường cách mạng
vô sản có thể đoàn kết toàn dân đuổi Pháp và xây dựng thành công một xã hội
công bằng. Ông gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp, qua Liên Sô để học ở Trường Huấn
Luyện Cán Bộ Quốc Tế Cộng Sản. Ông trở thành người Cộng Sản Quốc Tế mơ một thế
giới đại đồng không có cảnh người bóc lột người. Nhưng con người luôn luôn bị
giới hạn, giới hạn bởi hoàn cảnh môi trường sống, giới hạn bởi trí óc và lòng
ham muốn quyền lực.
Khi trở thành người
Cộng Sản Quốc Tế, nhìn Chủ Nghĩa Tư Bản là kẻ thù. Ông không thấy được Chủ
Nghĩa Tư Bản không giẫy chết mà có nhiều tiến bộ và biến cải. Các nước tư bản
lần lần giải quyết được nhiều vấn đề xã hội, hóa giải những mâu thuẫn đối kháng
trầm trọng. Nhất là sau thời Đệ II Thế Chiến, phong trào giải thực buộc các đế
quốc phải trao trả thuộc địa, nhiều quốc gia độc lập không cần phải đấu tranh
bằng võ trang. Tương quan giữa nước phát triển và nước chậm phát triển được cải
tiến nhiều, không còn là mối tương quan bóc lột lộ liễu nữa.
Quan trọng nhất là cuộc
Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật trên thế giới đã thay đổi tất cả bộ mặt của nhân
loại làm cho đời sống của người công nhân ở xã hội tư bản được nâng lên, hàng
hóa sản xuất cần người tiêu thụ mà khách hàng quan trọng của nhà tư bản không
ai khác hơn là chính công nhân của họ.
Sự cách biệt về đời
sống của nhân dân và công nhân thu ngắn lại, tương quan giữa chủ và thợ không
còn là tương quan đối kháng mà sự hỗ tương lưỡng lợi. Người ta tìm được công
thức hợp tác hai bên cùng có lợi.
Trên bình diện các quốc
gia cũng vậy, không còn tương quan giữa đế quốc và thuộc địa - mà các quốc gia
tiến bộ thấy cần phải giúp cho các quốc gia kém mở mang tiến bộ, trong sự tiến
bộ đó, nước phát triển cũng tìm ra nguồn lợi của họ. Từ những thay đổi đó, lý
thuyết Cộng Sản trở nên lỗi thời, hết đối tượng đấu tranh, nên chế độ Cộng Sản
không phát triển và bành trướng ở các quốc gia kỹ nghệ hóa nên chỉ còn đất dụng
võ ở các quốc gia nghèo đói, và các quốc gia chưa được độc lập.
Độc lập dân tộc là ước
vọng thiêng liêng nhất của mọi người dân ở nước bị đô hộ. Đảng Cộng Sản Việt
Nam của ông Hồ nắm được cơ hội đó tại Việt Nam nên đã thành công bước đầu.
Nhưng độc lập dân tộc chỉ là một bước chiến lược. Xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội mới
là cứu cánh. Nhưng Xã Hội Chủ Nghĩa đã lỗi thời, nên Đảng Cộng Sản thành công
trong việc đánh ngoại xâm, nhưng thất bại trong việc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội
ở miền Bắc. Miền Bắc tồn tại trong nghèo đói vì còn chiêu bài chống ngoại xâm ở
miền Nam.
Đến nay, sau khi thắng
miền Nam như Lê Duẩn đã nói Đảng Cộng Sản giương cao hai ngọn cờ, ngọn cờ độc
lập dân tộc và ngọn cờ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Thực tế ngọn cờ xây dựng Chủ
Nghĩa Xã Hội núp bóng ngọn cờ độc lập dân tộc. Chiến thắng quân sự ở miền Nam
nói theo từ ngữ là đỉnh cao của ngọn cờ giải phóng thì ngọn cờ xây dựng Chủ
Nghĩa Xã Hội chắc chắn sẽ thất bại.
Một hôm khác nói chuyện
với chú Bình, tôi hỏi về tình hình các đại học.
Chú hỏi tôi: “Cháu có
tưởng tượng một người lao công quyết định giáo án của giáo sư đại học không?”
Tôi lắc đầu không biết.
Chú nói: “Tụi nó (Đảng
Cộng Sản) ngồi xổm trên đại học. Vấn đề là mỗi năm giáo chức phải soạn giáo án
rồi trình cho Đảng Ủy duyệt xét. Khi duyệt xét giáo án, nếu người giáo viên
không có đảng tịch thì phải đứng ngoài. Trong khi Đảng Ủy gồm nhiều thành phần
đảng viên trong đại học, trong đó có cả những người lao công quét dọn và những
chị bán căng-tin. Chương trình học kém chất lượng, học sinh được tuyển lựa trên
lý lịch nhiều hơn trên trình độ học vấn. Do đó “Cái bằng cấp đại học không còn
có giá trị”.
Tôi hỏi: “Nếu cần tìm
hiểu về miền Bắc, cần đọc sách gì?”
Chú Bình: “Chỉ cần đọc
cuốn “Dưới Bóng Cờ Vẻ Vang Của Đảng, vì sự nghiệp cách mạng, vì chủ nghĩa xã
hội” do Lê Duẩn viết. Trong hệ thống Cộng Sản, lời phát biểu của Tổng Bí Thư là
chỉ thị, trong có những khẩu hiệu, các tác giả khác cứ theo đó mà viết, viết khác
không có lợi, nhiều khi còn bị tội phản động”.
Nhân nói về sách vở,
tôi hỏi qua về vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Chú nói: “Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là cơn ác
mộng mà hiện nay không ai dám nhắc tới”. Các tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm chống lại quan điểm lãnh đạo văn nghệ do Trường Chinh và Tố Hữu đề xướng.
Quan điểm của Nhân Văn
Giai Phẩm được đa số đảng viên ủng hộ, khi thấy cuộc tranh chấp có nguy cơ làm
tan vỡ tổ chức. Bác Hồ chỉ thị cho Trường Chinh dùng hệ thống nhân dân để chống
lại. Các tổ dân phố, các hội đoàn nhân dân được đảng viên công an hướng dẫn
thảo luận kết tội nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là phản đảng và lập kiến nghị lên Bác
thu đảng tịch, khai trừ đảng và đưa đi học tập cải tạo.
Bác Hồ không chỉ là
thần tượng, Bác là vị Hoàng đế đầy oai quyền, tên của Bác là một từ ngữ úy kị -
tiếng Người (viết hoa) chỉ dành riêng cho Bác.
Tôi hỏi: “Vậy bao nhiêu
phần trăm dân chúng miền Bắc ủng hộ Đảng Cộng Sản?”
Chú Bình: “Chỉ có đảng
viên cấp cao, những người có đặc quyền, đặc lợi thực tâm ủng hộ đảng - còn
những người khác chỉ làm nhiệm vụ. Mỗi người đảng viên Cộng Sản thường có hai
con người, con người đảng viên phải làm việc, suy nghĩ, nói theo lệnh của tổ
chức, và con người thực của họ, họ phải che dấu thật kỹ con người thật, nếu
không khi phát hiện một dấu hiệu sai lệch sẽ bị nâng quan điểm là phản động, họ
sẽ bị trừng phạt. Trong chế độ Cộng Sản cố len lỏi để khỏi sai phạm, sai phạm
phải cố che dấu để khỏi bị phát hiện, bị phát hiện phải chạy chọt cho khỏi bị
bắt. Nếu đã bị bắt thì hết phương cứu”.
- Tại sao người ta bất
mãn mà không có chống đối tích cực?
- Không chống đối vì
sức đối kháng đã bị tiêu diệt. Nghệ thuật cai trị của Cộng Sản là tiêu diệt sức
đề kháng của nhân dân. Chính sách công an nhân dân, và nhân hộ khẩu nhằm thi
hành mục tiêu đó. Kiểm soát người thật chặt, quản lý phân phối thực phẩm thật
kỹ, cột chặt mọi người vào tổ chức đảng, tổ chức chính quyền, nếu bị gạt ra
khỏi hai hệ thống đó, người dân sẽ muôn vàn đau khổ. Dân phải sợ và phải bám
lấy chính quyền, bám lấy đảng, hình thức cao nhất trong sự chống đối là một câu
hỏi mỉa mai kín đáo, một câu chuyện tiếu lâm. Đó là sự chống đối vô hại, nếu đi
xa hơn sẽ bị tù.
Nhân tôi đề cập đến
tình trạng tham nhũng làm sụp đổ miền Nam. Chú hỏi tôi:
- Cháu nghĩ miền Bắc có
tham nhũng không?
Tôi trả lời một cách
chung chung:
- Tham nhũng là một tệ
hại có bất kỳ trong thời gian nào, chính quyền nào, nhưng cháu nghĩ miền Bắc có
phê bình, tự phê, có đảng kiểm soát, chắc tình trạng tham nhũng sẽ ít đi.
Chú Bình:
- Chú không biết định
thế nào là tham nhũng nhiều ít, chú kể một câu chuyện, sau đó cháu tự lượng
định lấy. Chắc cháu biết thi sĩ Xuân Diệu, ông ta không có công tác gì nhiều,
“Cái cần câu cơm” của ông là bài thuyết trình “Đạo Đức Bác Hồ” và “Tiết Kiệm Để
Sản Xuất”. Hai bài thuyết trình nối với nhau bởi một đoạn kể chuyện Bác Hồ dạy
người cần vụ đặt miếng xà-phòng sau khi tắm lên viên gạch để xà-phòng ráo nước,
cứng, lâu hao mòn.
“Một hôm nhà máy phân
bón nơi tôi làm việc, được chỉ thị đón nhà thơ Xuân Diệu đến thuyết trình. Đảng
cử đồng chí giám đốc và tôi đi đón, trên đường thi sĩ Xuân Diệu nói: “Tôi nói
chuyện với nhà máy thì cũng quá trưa, vậy trưa nay nhà máy cho tôi ăn gì nào?
Thôi để các đồng chí dễ quyết định, tôi gợi ý các đồng chí nhé, tôi bị bệnh bao
tử, các đồng chí cho tôi ăn cơm nếp nhé, mà chẳng lẽ ăn cơm nếp suông, lẽ nào
các đồng chí không cho tôi ăn món mặn? Gà nhé? ừ, cơm nếp với gà, mà gà trống
thiến thì nhất”. Chúng tôi hứa với thi sĩ về sẽ hội ý với các đồng chí trong
ban lãnh đạo nhà máy mới quyết định, nhưng chắc là không trở ngại. Một lúc sau,
thi sĩ Xuân Diệu lại lên tiếng: “Có ăn trưa rồi thì phải có uống chứ? Mà ngay
lúc tôi nói cũng phải có gì cho tôi giải lao nhé, thôi để tôi gợi ý cho các
đồng chí là cho tôi uống bia nhé? Uống nước lã tôi hay đau bụng”. Bia là tiêu
chuẩn cao, giám đốc trở lên mới có, cán bộ kỹ thuật như chú chưa có tiêu chuẩn
bia, đồng chí giám đốc phải hứa dành phần bia tiêu chuẩn của mình để đãi khách.
Thi sĩ mới yên tâm. Sau buổi nói chuyện có ăn và uống, thi sĩ Xuân Diệu nhờ nhà
máy đưa về Hà Nội, về đến nhà thi sĩ mời chúng tôi vào nhà, tại phòng khách thi
sĩ nói: “Tôi đã làm việc với nhà máy, vậy nhà máy phải có tình gì với tôi chứ;
đây các đồng chí xem, cái tủ chè này là nhà máy dệt Nam Định biếu tôi sau buổi
nói chuyện đấy, có người đã trả tôi 800 đồng chưa bán, tượng Bác Hồ bằng thạch
cao do nhà máy Pin Văn Điển biếu đấy nhé, 200 đồng tôi chưa bán. Nhà máy biếu
tôi cái gì nào?”
Đó không phải là hình
thức tham nhũng, nhưng nó rất thê thảm. Một xã hội đói khó đến như một viên
chức cao cấp, vừa là một thi sĩ nổi tiếng mà phải gạ gẫm từng bữa ăn, món quà -
chắc chắn nếu có điều kiện thì vấn đề tham nhũng không thể nào ít đi được.
Sau khi phân tích nhiều
khuyết điểm của chế độ, tôi hỏi rằng có thể do chiến tranh, không thể sản xuất
được, kinh tế yếu kém, đời sống nhiều khó khăn v.v... Vậy theo ý chú, nếu loại
bỏ hết trở lực, liệu chế độ Cộng Sản có thể mang tiến bộ gì cho đất nước, hạnh
phúc cho toàn dân không?
Chú đáp: “Đừng mong đợi
tụi nó (CS) làm gì cho đất nước. Chú là đảng viên, chú được đi nhiều nơi, chú
có suy nghĩ - các khuyết điểm của chế độ Cộng Sản là bản chất không phải là
hiện tượng, vậy nên nếu có hy sinh cũng vô ích mà thôi”.
Chú so sánh khu
kỹ nghệ Thái Nguyên với khu kỹ nghệ Biên Hòa. Khu kỹ nghệ Biên Hòa máy móc hiện
đại, còn khu kỹ nghệ Thái Nguyên thì vất đi. Khu kỹ nghệ Thái Nguyên trang bị
máy móc cổ lỗ của Trung Quốc, máy móc từ thời Nhật chiếm Mãn Châu. Khi trang bị
máy mới thay máy cũ, Mao Trạch Đông gạ bán cho miền Bắc, sợ mếch lòng đàn anh
Bác Hồ phải nhận với giá 800 triệu miền Bắc thời giá năm 1958, Bác Hồ và Chính
trị bộ đau lắm, nhưng không dám nói ra, ngoài việc chỉ thị cho báo Nhân Dân
viết ca ngợi “Tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi” giữa hai nước “núi liền
núi, sông liền sông”.
Khu kỹ nghệ Biên Hòa - Thủ Đức cũng không có gì đặc sắc, cũng đủ làm
lóa mắt cán bộ kỹ thuật miền Bắc. Đa số các xưởng đều do người Trung Hoa làm
chủ, làm theo lối gia công, họ mua sản phẩm bán chế rồi làm ra thành phẩm bán
ra thị trường quốc nội. Lối sản xuất như vậy là một hình thức phục vụ cho kỹ
nghệ Đài Loan - Hồng Kông - Tân Gia Ba. Nhân công sử dụng đa số là người Việt
gốc Hoa.
Máy móc trang bị không
phải là máy mới, phần lớn là máy cũ, giúp cho Đài Loan cải tiến kỹ nghệ của họ.
Nghĩa là nền kỹ nghệ Đài Loan phát triển cần phải trang bị máy mới, những máy
cũ thay vì bỏ phải hao tốn, họ giúp cho người Trung Hoa Chợ Lớn đầu tư đem các
máy cũ về trang bị ở Việt Nam. Người Trung Hoa lợi ba bốn mặt. Cụ thể như nhà
máy cán sắt Vinacasa của Lý Long Thân, trang bị một lò hai cực cổ lỗ sĩ, các kỹ
sư cũng không biết được chế tạo thời kỳ nào - chuyên nấu sắt phế thải, dùng phế
liệu để đổi ra sắt cây bán trên thị trường xây dựng.
Lối đầu tư kỹ nghệ như
vậy, không giúp ích nhiều cho sự phát triển của quốc gia bản xứ.
Người Trung Hoa nắm hết
quyền lợi về kinh tế ở Việt Nam, điều đó ai cũng biết. Không những họ nắm chỉ
vì đầu tư vào chính sách kỹ nghệ chế biến, độc quyền thu mua nông sản và phân
phối nông sản, làm chủ thị trường thương mại và 18 ngành xuất nhập cảng.
Người Trung Hoa được
lãnh đạo bởi một Hội Đồng Ngũ Bang Hoa Kiều (Bang Triều Châu, Hẹ, Quảng Đông,
Hải Nam, Phúc Kiến). Hội Đồng Ngũ Bang ấn định các chính sách thương mại, ấn
định giá cả thị trường, cử người quan hệ mua chuộc các viên chức chính quyền
tới Tổng Thống. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có Mã Tuyên. Thời Nguyễn Văn
Thiệu có Lý Long Thân. Vấn đề người Hoa ở Việt Nam là một đề tài lịch sử rất
lớn, nước Việt Nam hơn ngàn năm lệ thuộc Trung Hoa mà không bị đồng hóa vì tổ
tiên ta có những chính sách uyển chuyển khi giao dịch, biến đổi những điều học
được của người Hoa thành một văn hóa riêng biệt. Sau khi lập quốc giành độc
lập, luôn luôn đề phòng Bắc xâm, nhưng giao hảo trong thế tương nhượng, chính
sách ngoại giao mềm dẻo nhưng nội trị ổn định vững mạnh. Sau mỗi lần chiến
thắng, tổ tiên ta thả tù binh, dâng biểu cầu hòa, cầu phong, chịu triều cống để
tránh chiến tranh. Dù sau chiến tranh ta chiến thắng cũng làm khổ nhân dân, tốn
hao tài nguyên, huống gì Trung Hoa là một nước lớn, mối đe dọa ngàn đời trước
và cả về tương lai. Chịu hòa hiếu với chính quyền Trung Hoa, nhưng trong nước
thì giữ độc lập và không để cho người Trung Hoa xâm nhập. Khi bị nhà Thanh
chiếm đóng, người Hoa tràn xuống các nước Đông Nam Á, họ không di cư lẻ tẻ mà
thành đoàn đông đảo, có cả quân lực, họ chiếm nhiều lãnh thổ ở Đông Nam Á như
Tân Gia Ba là nước Tàu ở hải ngoại, hơn 30% dân số Mã Lai là người Hoa, dòng
vua đang cai trị Thái Lan là người gốc Hoa, nhưng người nhà Minh chiếm cứ lãnh
thổ Việt Nam đều bị đồng hóa thành người Minh Hương, kể cả dòng họ Mạc Cửu
chiếm vùng Hà Tiên định lập quốc cũng bị Chúa Nguyễn thu phục và đồng hóa. Ngày
nay người Minh Hương là người Việt, dù trong cộng đồng đó họ vẫn còn giữ một số
nết văn hóa Trung Quốc.
Từ khi nước Việt Nam bị
Pháp đô hộ, để được Trung Quốc công nhận quyền cai trị Việt Nam, hiệp ước
Pháp-Hoa ký ở Thiên Tân, người Pháp dành cho người Trung Hoa nhiều quyền lợi.
Từ đó, người Trung Hoa
ở Việt Nam biến thành một cộng đồng rất mạnh, tuy dân số chưa tới 2 triệu, nhưng
họ nắm tất cả quyền lợi kinh tế.
Sau Hiệp Định Genève,
người Pháp rời Việt Nam, người Trung Hoa ở miền Bắc được qui định do thỏa ước
giữa hai đảng Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam, trong đó có điểm: người Trung Hoa
hoạt động trong hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Người Trung Hoa ở miền
Nam khoảng hơn một triệu người được chính quyền Ngô Đình Diệm buộc phải nhập
Việt tịch, để đồng hóa họ trong Cộng Đồng Việt Nam, nhưng qua thời gian thi
hành quyết định đó không thành công, trái lại còn tăng thêm ưu thế cho người
Trung Hoa, vì với quyền lợi nhập Việt tịch họ có quyền chính trị. Điều kiện
nhập Việt tịch không làm thay đổi nếp sống của người Trung Hoa ở miền Nam,
trong đời sống hàng ngày họ vẫn dùng tiếng Trung Hoa, phong tục tập quán của
Trung Hoa, họ có tất cả các cơ sở xã hội riêng biệt, như trường học, bệnh viện,
nghĩa trang, hội đoàn thương mại. Nếu có phải làm nghĩa vụ quân dịch thì họ bỏ
tiền ra mua, tạo thêm bất công trong quân đội. Ai cũng biết những người quân
nhân mặc sắc áo Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến đang chặt thịt heo
quay ở các cửa hàng ở Saigon - Chợ Lớn là những lính kiểng.
Vấn đề người Hoa cũng
làm nhức óc chính quyền Cộng Sản. Những ngày mới chiếm Saigon, Việt Cộng đã
triệt hạ tức khắc không cho những người Hoa treo cờ Trung Cộng và tiếp theo là
những mâu thuẫn về chính trị đưa tới vụ nạn kiều, rồi chiến tranh biên giới,
nhưng tất cả đều chưa giải quyết. Mỗi chế độ chính trị ở Việt Nam hay mỗi triều
đại, sự lệ thuộc vào ngoại quốc ít hay nhiều là do sự nhận viện trợ nhiều hay ít
khi tranh đấu đoạt quyền.
Do đó, sự tranh đấu để
tồn tại, nguy cơ từ phương Bắc vẫn là mối lo tâm phúc của người Việt. Nhưng
chúng ta đã có kinh nghiệm lịch sử của cha ông để lại, mỗi giai đoạn lịch sử
hoàn cảnh đổi thay, phương thức thi hành có thể thay đổi nhưng tựu trung có
những điểm chính:
- Củng cố một lực lượng
quân sự đủ mạnh để có thể chiến đấu tự vệ, bẻ gẫy tất cả những cuộc chiến xâm
lăng từ Trung Hoa đến.
- Một chính sách ngoại
giao mềm dẻo, hòa hoãn để tránh chiến tranh.
- Không để người Trung
Hoa nắm hết đặc quyền đặc lợi về kinh tế. Người Trung Hoa sinh sống ở Việt Nam
được đối xử bình đẳng với người Việt, nhưng họ phải hội nhập vào đời sống, họ
phải trở thành người Việt bằng cách nói tiếng Việt, phong tục tập quán giữa
người Việt Nam và Trung Hoa không khác biệt, chỉ có tiếng nói là quan trọng,
không nên để người Trung Hoa mở trường học quá bậc trung học, cộng đồng người
Trung Hoa ở Việt Nam nên lấy kinh nghiệm hội nhập của người Minh Hương.
Đối với người làm chính
trị và nắm quyền tại Việt Nam bất cứ thời đại nào, đem đất nước dâng cho Trung
Hoa, mang quân Trung Hoa về xâm lấn hay vì quyền lợi riêng dành cho người Trung
Hoa đặc quyền về kinh tế là phản quốc.
Một hôm tôi mời chú đi
chơi quanh phố chợ Saigon. Chú đã đi gần hết các thủ đô các nước Cộng Sản;
Prague thủ đô Tiệp Khắc, nơi hàng hóa tương đối đầy đủ cũng không bằng 1/4 hàng
hóa ở chợ Bến Thành. Ở các nước Cộng Sản hàng tiêu thụ rất thiếu và kém phẩm
chất. Dân chúng phải sắp hàng chờ đợi cả ngày mới tới phiên được vào mua hàng. ở
Mạc Tư Khoa chờ đợi cả hai ba ngày mới mua được đôi giày, nhưng khi được nhận
giày thì mang không vừa chân, phải đem bán ra chợ trời với giá rẻ rồi tìm mua
một đôi khác vừa chân với giá đắt hơn.
Hàng hóa theo chế độ
phân phối nên luôn luôn thiếu hụt, vì yếu tố thời gian trở thành gánh nặng và
tính chất bình quân trong phân phối không hợp với nhu cầu - một người không cần
lốp xe đạp vẫn được phát phiếu, người cần thì không đủ. Chợ trời là hình thức
rất phổ biến tại các nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tại Liên Xô, người ta
có thể mua một máy cày tại chợ trời, nhưng các nông trường bị hỏng máy cày thì
phải đợi hàng nhiều năm từ ngày trình báo mới được cung cấp.
Một chủ nhiệm hợp tác
xã đứng trước hai sự lựa chọn khi một máy cày bị hỏng:
- Thứ nhất, báo cáo
xong chờ phân phối. Thời gian chờ đợi có thể đến hai năm, Hợp tác xã không sản
xuất đủ chỉ tiêu, anh ta có thể bị kết án về tội phá hoại nền kinh tế.
- Thứ hai, mau mắn dùng
quỹ Hợp tác xã mua một máy cày trên thị trường ở chợ trời giá gấp 4 hay 5 lần
giá phân phối, anh sẽ có nguy cơ bị truy tố về tội sử dụng quỹ Hợp tác xã không
đúng nguyên tắc. Bề nào cũng có thể bị đi tù.
Chúng tôi vào quán cơm
bình dân ăn cơm; khi ăn chú Bình nhìn về bàn một người đàn ông mặc áo Treillis
xanh, quần đùi, trước mặt anh ta là một đống vỏ Bia 33 chừng 5 hay 6 chai.
Tôi chợt nhớ không mời
chú uống bia. Tôi nói:
- Xin lỗi chú, cháu
không uống được bia nên vô tình không mời chú uống bia, chú uống bia nhé?
- Bộ mình cũng có tiêu
chuẩn bia sao? Có thì uống chứ.
- Chú nói gì tiêu chuẩn,
mình mua uống thì trả tiền chứ tiêu chuẩn gì, chú uống bao nhiêu cũng có, miễn
đủ tiền trả.
- Có thật không? Chú
hỏi lại.
- Thật, mời chú uống.
Tôi gọi Bia 33.
Ngồi ăn uống, chú vẫn
như ngẫm nghĩ điều gì, chú hỏi tôi:
- Người đó làm gì mà
uống nhiều bia quá vậy?
Nhìn lối ăn mặc của
người ngồi bàn đối diện, tôi nói:
- Có lẽ một phu xích lô
hay phu ba gác.
Chú vẫn không tin vào
lời nói của tôi, nhân lúc người kia nhìn qua, chú chào xong bước qua bàn hỏi:
- Xin lỗi ông bạn nhé,
tôi hỏi nếu không phải thì ông bạn thứ lỗi. Ông bạn làm gì mà tiêu chuẩn bia
nhiều vậy?
Người kia cười ha hả
nói:
- Tiêu chuẩn gì, chắc
ông ở miền Bắc vào, tôi làm gì hả, tôi đạp xích lô, tôi có tiền tôi uống, không
có tiêu chuẩn gì hết. Trước kia chạy xe khá, tôi uống 10 hay 12 chai, bây giờ
làm ăn khó tôi chỉ uống 5 chai.
Chú vẫn chưa tin hỏi
tiếp:
- Thực anh làm phu xích
lô?
- Không thực thì sao
tôi ngồi ung dung như thế này, nếu tôi làm quan quyền chế độ cũ, tư sản này nọ
thì đang lo sốt vó, có thì giờ đâu mà thong dong nhàn hạ.
Nói xong, người kia kêu
tính tiền, đứng lên, ra lề đường đẩy chiếc xích lô rồi nhảy lên đạp thẳng như
để chứng minh cho chú, anh ta là phu xích lô thật.
Ở ngoài Bắc cũng như
tất cả các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đều qui định tiêu chuẩn và chế độ khẩu phần
lương thực, thực phẩm và các vật dụng cần thiết.
Ở nhà ăn tập thể chế độ
ăn có 3 cấp; đại táo, tức bếp lớn nấu ăn cho toàn thể nhân viên binh sĩ cấp
dưới; tiểu táo, bếp nhỏ, dành cho các cấp chỉ huy, sĩ quan; đặc táo, dành cho
cấp cán bộ cao cấp hoặc thủ trưởng cơ quan, mỗi chế độ nhà bếp có tiêu chuẩn
lương thực thực phẩm khác nhau về số lượng cũng như về chất lượng. Chữa bệnh
cũng có chế độ khác nhau, sĩ quan từ Chuẩn úy lên Thượng úy nằm ở Bệnh viện
Quân Đội Nhân Dân 308, có 12 ngày thuốc miễn phí. Từ Đại úy đến Thượng tá nằm
bệnh viện Việt Xô, tiêu chuẩn 30 ngày thuốc miễn phí. Đại tá trở lên được chữa
trị ở ngoại quốc. Ngoài chiến trường, Trung đoàn trưởng có một Y sĩ và một cần
vụ phục dịch, một tư lệnh Sư đoàn có một Bác sĩ và một cần vụ. Đồ dùng cũng
phân biệt, binh sĩ, cán bộ cấp dưới mang dép râu (Bắc Việt gọi là dép lốp), cán
bộ trung cấp mang sandale. Công an mang sandale nhựa trong - cán bộ trung ương
được cấp phát giày và xà-cốt loại da tốt do nước Mông Cổ viện trợ. Marx chủ
trương làm cách mạng xóa bỏ giai cấp, nhưng chế độ Cộng Sản lại dựng lên một hệ
thống giai cấp thật chặt chẽ và cách biệt ngay giữa đảng viên với nhau, chưa kể
giữa đảng viên và người dân được gọi là trong sạch, thành phần bị chuyên chính,
tức giai cấp đối nghịch bị tiêu diệt hay làm nô lệ trong các trại tập trung cải
tạo.
Giai cấp lãnh đạo ở
miền Bắc là một triều đình tập hợp chung quanh vị Hoàng đế là lãnh tụ, cấu kết
quyền lợi, dua nịnh lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi hiện có và con đường tiến thân.
Người ta ca tụng lãnh
tụ một cách lố bịch, lộ liễu, cả cái sai của lãnh tụ cũng được bảo vệ. Trong
lối viết quốc ngữ, “Bác Hồ” đã viết sai chữ K thay vì chữ C trong tác phẩm
“Đường Kách Mệnh”. Bác dùng chữ F thay cho chữ Ph, thì các chữ đó được coi là
đúng. Người ta còn viết cả lý luận cho là ngôn ngữ được sáng tạo do những con
người ưu việt, lãnh tụ là con người ưu việt, vậy những gì lãnh tụ viết đều là
khuôn mẫu đúng - thật lố bịch.
Ông Hồ làm Kách
Mệnh, ông Hồ làm lãnh tụ chính trị thành công, điều đó không ai chối cãi -
nhưng lãnh tụ không có nghĩa là cái gì cũng phải giỏi.
Ông Hồ làm thơ, nhưng thơ ông Hồ là loại thơ con cóc. Đọc cuốn “Ngục
Trung Nhật Ký” thì ông Hồ chỉ là người “đạo thơ” vô liêm sỉ - những câu Đường
Thi nổi tiếng được ông Hồ cóp nhặt lại của những người xưa. Vậy mà khi người ta
viết Văn Học Sử, đưa ông Hồ thành thi sĩ vĩ đại nhất, người ta viết sách và dạy
học trò “Ngoài Bác Hồ, Tố Hữu là một đại thi hào của nước ta”. Bác Hồ nhất, Tố
Hữu nhì, vì Tố Hữu có công làm nhiều thơ ca tụng Bác từ hồi đảng còn trong
trứng nước.
Tố Hữu được ông Hồ chọn
làm người lãnh đạo văn nghệ. Từ đó Tố Hữu trở thành một cây cổ thụ che lấp cả
bầu trời văn học nghệ thuật, những ai đứng ngoài cái bóng đó đều bị chặt, người
khôn ngoan biết thu mình dưới bóng thì sống èo uột như cây non không ánh sáng.
Người ta chỉ phổ biến thơ con cóc của các “đại thi hào” Xuân Thủy - Lê Đức Thọ
- Trường Chinh. Những thi sĩ thật như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan
Viên phải bẻ cong ngòi bút sáng tác theo đơn đặt hàng để được nhận tiêu chuẩn
sống qua ngày. Những người không theo quy luật đó, bị ghép vào tội phản động
hay nhẹ hơn là lệch hướng sáng tác thì phải đi cải tạo như Phan Khôi, Trần Dần,
Phùng Quán, Hoàng Cầm. Hoặc phải về sống nghèo khổ hơn nơi thôn quê làm ruộng,
rẫy như Quang Dũng, Hữu Loan.
Đời sống của giới trí
thức khoa bảng cũng buồn thảm, Trần Đức Thảo đi cải tạo, rồi giữ bò ở nông
trường Ba Vì, Phạm Huy Thông, Trần Văn Giàu, Ngụy Như Kontum, Nguyễn Mạnh Tường
kẻ về hưu, người làm những nhiệm vụ văn hóa giáo dục không quan trọng. Có người
vì nhu cầu sống hàng ngày phải đi hầu hạ các công tử con lãnh tụ. Con trai Văn
Tiến Dũng, con trai Võ Nguyên Giáp, không hề phải vào quân đội, tụ tập thành
băng đảng buôn lậu, ăn chơi đàng điếm ngay tại thủ đô Hà Nội nhiều khi gây nhiệt
náo. Công an bó tay vì sợ đụng chạm thế lực. Mỗi băng các công tử lại cần một
vài nhà thơ trí thức để ngụy trang làm đẹp. Thỉnh thoảng các công tử lại tổ
chức cho các nhà trí thức nói chuyện văn chương, văn nghệ để có tiếng là các
cậu hoạt động văn hóa. Còn các nhà trí thức thì dựa vào các cậu để có thêm ly
cà phê hay “tô phở chui có người lái” mỗi ngày.
Cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc, cuộc chiến đấu yêu nước chống Pháp đã tập trung bao nhiêu tinh
hoa của dân tộc ở lại miền bắc. Hầu hết các trí thức khoa bảng, hầu hết các văn
nghệ sĩ nổi tiếng thời tiền chiến, những người đã có công tạo dựng nên nền văn
chương Việt Nam phong phú, kiến tạo ngôn ngữ Việt Nam thành trong sáng bước
nhanh chóng từ giai đoạn Hán văn qua văn chương biền ngẫu và tân văn giản dị.
Với nhân lực đó, suốt 24 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không có được một tác
phẩm trung bình về giá trị nghệ thuật.
Trong thời gian ngắn
ngủi giao lưu Nam Bắc, người Saigon đều biết ông Cù Huy Cận, Thứ trưởng Bộ Văn
Hóa, đã khóc sau khi nghe bản “Ngậm Ngùi” thơ của ông, Phạm Duy phổ nhạc. Sau
đó thì ông bị kiểm điểm. Nhạc sĩ Văn Cao cũng khóc sau khi đọc tác phẩm của Tạ
Tỵ viết về ông - lúc đó người miền Bắc mới thấy nếp sống hài hòa của nhân dân
miền Nam, nơi mà họ tưởng là bị nô lệ, cần họ đưa cánh tay gầy guộc ra giải
phóng; họ nghe người miền Nam gọi “Bác Hồ” là “Cụ Hồ”, tiếng gọi thông thường
cho người lớn tuổi, không như ở miền Bắc, đảng đã chỉ thị cho nhân dân dùng
những từ thô bỉ để gọi những người lãnh đạo miền Nam. Đời sống kinh tế miền Nam
phong phú, trong chiến tranh có chết chóc, có đổ nát nhưng miền Nam vẫn lớn
mạnh về mọi phương diện, trong đó có thân nhân của họ. Không phải chỉ chú Bình
mới đem từ miền Bắc những món quà về cho thân nhân rồi mới thấy mình bị lường
gạt mà tất cả những người Cộng Sản tập kết từ Nam đều gặp trường hợp đó. Thi sĩ
Tế Hanh về làng thấy con cháu sống trong ngôi nhà gạch xây, cứ nằng nặc truy
vấn con cháu làm gì cho CIA - truy vấn cho có vẻ người cách mạng thuần thành,
nhưng rồi lại khóc như đứa trẻ khi biết mình bị lừa.
30 năm đem nhiệt tâm,
tưởng là phục vụ cho nhân dân, rồi thấy mình bị lừa đảo. Thời gian 30 năm ngắn
ngủi, nhưng hết cả cuộc đời mình. Cái đau khổ sau cuộc chiến không những chỉ có
kẻ chiến bại mà còn đau đớn sâu xa ở những người được mệnh danh là chiến thắng.
Tất cả đều là chiến bại - chỉ có một số ít kẻ chiến thắng ở điện Cẩm Linh, ở
Trung Nam Hải và bọn tay sai chóp bu ở Hà Nội.
Bao nhiêu năm tương tàn
vì cuộc chiến để cuối cùng toàn dân Việt Nam - Nam, Bắc đều là kẻ chiến bại -
có cái đau khổ nào lớn hơn. Đất nước có bao giờ nhục nhã lớn như lần này. Tôi
hỏi chú Bình tại sao chú là đảng viên, chú bị nhồi nhét bao nhiêu năm lý thuyết
Cộng Sản, đời sống thực tế ràng buộc trong guồng máy tổ chức, sao chú vẫn còn
giữ được bản chất con người.
Chú nói Đảng muốn một
chuyện mà Đảng có làm được hay không là chuyện khác. Những kết quả của Đảng đối
với con người chỉ là bề ngoài. Mỗi người sống trong xã hội Cộng Sản thường có
hai bản thể, con người của Đảng và con người thật. Một con người của Đảng tức con
người bề ngoài, con người giả dối sống theo qui luật đó vì sợ, vì miếng cơm
manh áo, vì tiến thân, nhưng con người thật nó tiềm ẩn, phải giấu giếm, con
người này chờ cơ hội bộc lộ, khi về miền Nam nhiều cán bộ Cộng Sản đã bộc lộ,
nhưng bộc lộ riêng rẽ cá nhân. Nếu có cơ hội các sự bộc lộ đó thành bộc phát mà
hệ thống bạo lực của Đảng không đàn áp nổi - thì lúc đó mới biến chuyển.
Những qui tắc luân lý
xã hội, con người và gia đình đã ăn sâu vào đời sống người Việt - những người
lớn tuổi đều chịu những ảnh hưởng của những giá trị xã hội đó, và nó tồn tại
trong mỗi người, Đảng không cướp đi được. Chỉ có lớp trẻ sinh sống lớn lên
trong xã hội chủ nghĩa, thế hệ mà Đảng Cộng Sản và Hồ Chí Minh xây dựng mới là
thành phần đáng lo ngại. Đảng chỉ dạy cho họ trung với Đảng (Bác Hồ), hiếu với
dân (Bác Hồ) và tinh thần đấu tranh, sự hận thù giai cấp. Đây mới là sự suy
thoái của dân tộc Việt Nam.
Số người tập kết trở về
hầu hết đều nhận ra sự thật đều bất mãn, mỗi người phản ứng một cách, kẻ nóng
nảy xin phục viên về với gia đình, kẻ thực tế bám lấy chính quyền nhưng xoay ra
thủ lợi, kiếm ăn riêng rẽ bằng mọi hình thức tùy theo vị trí của họ.
“Khôn cũng chết dại
cũng chết chỉ biết là sống”, câu ngạn ngữ của đồng bào miền Bắc. Làm việc tích
cực quá cũng chết, vì bị thúc đẩy làm việc tích cực hơn, đạt chỉ tiêu hay vượt
chỉ tiêu thì năm sau chỉ tiêu cao hơn. Con người trong Xã Hội Chủ Nghĩa bị thúc
bách làm việc mãi, hết đợt thi đua này đến đợt thi đua khác. Đảng bắt mọi người
phải tiến tới, đạt chỉ tiêu. Nếu không đạt được chỉ tiêu bị kiểm điểm phê bình,
hạ công điểm, rút tiêu chuẩn, nếu nặng sẽ nâng lên quan điểm vào tội phá hoại.
Đằng nào cũng chết, chỉ có biết là sống, biết cách làm báo cáo cho hay, dù làm
láo, biết tranh thủ người nhận báo cáo tức là phải gian dối có hệ thống - phải
biết phô trương trình diễn. Đảng cũng chỉ cần có thế, còn thực tế thì dân có
đói, có chết cũng mặc.
Cá nhân cũng phải sống
như vậy, nhận công tác cũng không thể làm nhiều quá, mà cũng không nên làm ít
quá, làm đủ. Một người thợ máy phải biết đầu cơ nghề nghiệp, thỉnh thoảng làm
cho máy hỏng và chỉ anh ta mới biết sửa chữa hư hỏng đó thì anh ta sẽ có nhiều
lợi, hơn là anh ta duy trì máy chạy tốt mãi.
Đó là xã hội miền Bắc,
kinh tế nghèo nàn nhưng phí phạm, uổng dụng, kém hiệu năng; tương quan con
người không phải bình đẳng mà có nhiều hệ cấp; con người không thể sống ngay
tình, chân thật mà phải lươn lẹo, mánh mung, xảo trá.
Chú Bình có lần đến Bá
Linh, chú định vượt qua Tây Bá Linh để về miền Nam, nhưng chú e ngại, không
biết miền Nam thế nào. Tài liệu tuyên truyền về miền Nam quá xấu, nên chú không
thể bỏ cái xấu để đi đến cái mà người ta nói nó xấu hơn trong khi phải hy sinh
nhiều.
Người miền Bắc đã quá
mệt mỏi không còn sức đề kháng, chỉ trông vào đồng bào miền Nam. Trước khi trở
về Bắc chú nói riêng với tôi: “Nếu có cuộc tranh đấu mới để lật đổ chế độ Cộng
Sản, chú sẽ không ngần ngại đứng vào chiến tuyến mới, dù có vợ hai con ở Hà
Nội, là đảng viên, có công ăn việc làm và sắp được đi Liên Xô để tiếp tục học
cấp Tiến Sĩ”.
Những ngày tiếp xúc với
chú, đối với tôi thật ích lợi, chú đã giúp tôi hiểu chế độ Cộng Sản nhanh chóng
và tôi dứt khoát chọn một thái độ.
Tôi bị bắt tù cải tạo
hơn 12 năm, không liên lạc với chú Bình; năm 1988 tôi được thả, chú Bình qua
Nga học rồi trốn luôn bên đó. Ở Hà Nội, thím bị tước đảng tịch, đuổi ra khỏi
biên chế và hai người con của chú không được tiếp tục học lên đại học và phải
đi nghĩa vụ lao động trên Hòa Bình.
(còn tiếp)
*Mời xem
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét