Chương
Tám
Cuối tháng 3 năm 1977 được chuyển qua phòng tập
thể A Trại Trần Hưng Đạo, tức Nha Cảnh Sát Đô Thành cũ, có 5 phòng tập thể,
phòng A, phòng B, phòng I, phòng II, phòng phụ nữ và một khu xà lim 26 phòng.
Từ giã xà lim, thấm thoát đã sáu tháng. Người ta nói nhất nhật tại tù, thiên
thu tại ngoại, tôi lại thấy thời gian đi quá nhanh. Có lẽ tôi kém cảm xúc. Tôi
thèm nói chuyện và thèm ăn.
Cửa phòng tập thể vừa mở ra, tự nhiên phải lùi
một bước, hơi nóng và mùi khói nồng nặc từ bên trong tỏa ra đủ thứ mùi, mùi
thuốc lào, mùi thuốc rê khét lẹt, mùi mồ hôi người tanh tanh muốn lợm giọng.
Hành lang hẹp chưa tới một thước bề ngang nằm giữa hai tường nhà cao, gió không
thông dù cái quạt nhỏ gắn trên tường chạy suốt ngày để hút hơi ra. Cái cửa ra
vào bị che kín một nửa bằng tấm tôle. Chiếc đèn néon một thước hai không đủ
chiếu sáng cho căn phòng dài gần 10 thước nên ánh sáng lờ mờ, bệnh hoạn.
Phòng đông lúc
nhúc mà im phăng phắc khi tên cán bộ hiện diện.
Ở tù tạm giam vừa sợ
cán bộ vừa sợ trưởng phòng. Làm trưởng phòng phải báo cáo, rình mò tù nhân khác
để lập công.
Trưởng phòng ghi tên tôi vào danh sách phòng số
68. Căn phòng nhỏ xíu, bề ngang chưa đến 4 mét, bề dài khoảng 10 mét, nhốt 68
người. Nằm ngủ phải thành ba lớp, những người vào phòng trước nằm ở trên bục xi
măng, đến những người nằm trên nền nhà, gọi là phi đạo, kế đến những người vào
sau thì nằm ngủ trong hầm để đồ đạc, ngay dưới bục xi măng. Trưởng phòng đọc
cho tôi nghe 38 điều nội quy và những khoản gọi là nội lệ - Nội quy do Bộ Nội
Vụ ban hành gồm những mục khai báo tội lỗi của mình và đồng bọn, tin tưởng vào
chánh sách và sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước Cộng sản, tố cáo những tội lỗi
của người khác, phải tham gia các buổi học tập, đọc sách báo, cấm giữ các vật
bén nhọn, cấm truyền đạo, cấm nói tiếng nước ngoài v.v... Nội lệ là những điều
trưởng phòng đặt ra do sáng kiến xây dựng của y. Tù nhân không được tụm lại rù
rì nói chuyện với nhau. Khi nói chuyện phải nói cho đủ lớn cho một vài người
bên cạnh nghe để chứng minh là không nói xấu chế độ. “Rù rì với nhau”, nhóm từ
ngữ này do những trưởng phòng, đội trưởng ác ôn dùng để chụp mũ, báo cáo một
phòng viên, đội viên khi họ không có một chứng cớ gì khác về sự nói xấu hay
chống đối. Chế độ tù đày của Cộng sản trở nên quá ác nghiệt vì các luật lệ
nguyên tắc quá nghiêm khắc, bọn cán bộ quản lý độc ác, mức độ lao động quá
nặng, chỉ tiêu cao, tình trạng đói rét, từ đó nảy sinh ra một lớp người tù chức
sắc trật tự, thi đua, thống kê, nhà trưởng, đội trưởng làm tay sai để được miễn
lao động, để được ưu đãi khi nhận quà thăm nuôi; họ dùng sự sống, máu và nước
mắt của bạn tù để được hưởng thêm ân huệ.
Tù mới vào không được nói chuyện với người
khác, đó là nội lệ của phòng do phòng trưởng Nguyễn Thái Thao đặt ra. Tù mới
vào nói chuyện là tuyên truyền xuyên tạc nói xấu chế độ. Tù nhân thường tò mò
muốn biết những việc xảy ra ngoài đời, họ hy vọng những tin tức phấn khởi, họ
muốn nghe những tin tức phục quốc. Thời gian cấm nói chuyện là bao lâu không
biết. Tùy quyền trưởng phòng, tùy sự dặn dò của bọn cán bộ với trưởng phòng về
một người tù cần theo dõi. Ở tập thể đúng là rắc rối hơn xà lim. Ở tập thể được
đọc báo gọi là học tập báo chí để biết tin tức bên ngoài. Dù là tờ Nhân Dân hay
Quân Đội Nhân Dân chỉ toàn là tuyên truyền cũng có thể rút ra những điều cần
biết. Thời gian đó, sau Đại Hội IV của đảng Cộng Sản Việt Nam, những khẩu hiệu
chiến lược được nhấn mạnh là “chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, và hoàn thành cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc và đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
miền Nam”. Cộng Sản Việt Nam đã vội vã xây dựng xã hội chủ nghĩa cả nước, không
còn chần chừ như ý định lúc đầu mới chiếm được miền Nam. Đầu năm 1976, Phạm Văn
Đồng còn tuyên bố miền Nam làm cuộc cách mạng dân chủ nhân dân. Tình thế gay go
trong mâu thuẫn với Trung Hoa buộc Việt cộng phải đưa ra khẩu hiệu chiến đấu,
như vậy chiến tranh với Trung Quốc không tránh khỏi. Báo Nhân Dân cũng nói về
mâu thuẫn không hàn gắn được giữa Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Lý Tiên Niệm tuyên
bố mâu thuẫn Trung Quốc-Liên Sô phải 800 năm mới giải quyết được - tức là không
giải quyết được. Đặng Tiểu Bình đã được Hoa Quốc Phong mời trở lại chính quyền
và được đặc quyền xử Tứ Nhân Bang là những người đã loại Đặng Tiểu Bình ra khỏi
các chức vụ vào năm 1976, sau vụ lộn xộn đẫm máu tại Bắc Kinh nhân lễ truy điệu
49 ngày Chu Ân Lai chết.
Những tin tức đó cho tôi hy vọng là tình hình
Đông Dương và Việt Nam chưa phải là kết thúc, còn nhiều biến chuyển. Hy vọng
của người tù cũng cần như cơm, nước; người tù tuyệt vọng rất mau suy sụp và dễ
chết.
Tôi gặp Huệ Nhật trong phòng này. Huệ Nhật,
người đã ở xà lim số 13 được 4 tháng 23 ngày, người đã ghi lại bài thơ vừa đầy
hào khí và phóng khoáng. Tôi đoán không sai là một nhà sư. Huệ Nhật là một Đại
đức thụ phong năm 23 tuổi, tốt nghiệp Phật Học Viện và Cử nhân khoa học xã hội
Đại học Vạn Hạnh. Đại Đức bất mãn khi khám phá ra thầy mình, một Thượng tọa,
dùng tiền phước sương cho vay và gửi về nhà cho thân nhân, nên đã bỏ tu về đời
làm cho Hội Terre Des Hommes. Huệ Nhật bỏ tu nhưng đạo hạnh vẫn thể hiện qua
lối sống hàng ngày. Anh dùng cả thì giờ chăm sóc cho những người tù bịnh hoạn
ghẻ lở. Bịnh kiết lỵ là bịnh rất thông thường trong tù, dễ lây và nguy hiểm nên
ai cũng sợ, người bịnh kiết lỵ nằm cô lập trong cuối phòng - thuốc men của nhà
tù không có nên chỉ có cách khắc phục, nếu không khắc phục được thì đến lúc
thật trầm trọng mới được đưa ra bệnh viện và nhiều người đã chết. Tôi khâm phục
Huệ Nhật khi thấy anh kiên nhẫn bồng bế những người kiết lỵ đi cầu mỗi ngày
hàng mấy chục lần, lau rửa cho họ mà không sợ dơ bẩn hay lây bịnh. Cuộc đời Huệ
Nhật cũng có điều đáng ghi, gia đình nghèo ở Quảng Trị, Huệ Nhật được mẹ gởi
vào chùa lúc 9 tuổi khi cha Huệ Nhật, một du kích bị Pháp bắt tra tấn đến chết.
Huệ Nhật kể rằng suốt đời không quên hình ảnh người cha bị cột căng chân tay
phơi nắng trong sân đồn Tây đến chết. Anh của Huệ Nhật đã đi kháng chiến và tập
kết ra Bắc, sau 30-4-75, trở về nhà với quân hàm Đại úy. Huệ Nhật căm thù Pháp
và rất ghét chính quyền Cộng Hòa, anh đã tham gia các phong trào Phật giáo
tranh đấu và có lần đã tình nguyện tự thiêu ở Nha Trang: cuộc tự thiêu bất
thành vì quẹt không cháy sau khi đã đổ can xăng bốn lít vào mình. Sau này, Huệ
Nhật biết là một vị sư không muốn Huệ Nhật chết lén đổi hộp quẹt đã nhúng nước lạnh.
Sau 30-4-75, anh rất hồ hởi phấn khởi, xem sự
thành công của cách mạng như sự thành công của gia đình và bản thân anh. Tham
gia tích cực vào Hội Phật Giáo Yêu Nước, hoạt động suốt ngày không biết mệt
mỏi. Nhưng cũng chính từ những hoạt động trong Hội Phật Giáo Yêu Nước, Huệ Nhật
đã khám phá ra nhiều sự thật. Trước hết, Huệ Nhật thấy được hàng ngũ tăng sĩ và
cư sĩ của Phật giáo có hai thành phần rõ rệt, một thành phần đa số là những
người đấu tranh cho lý tưởng Phật giáo và dân tộc, và một số là đảng viên Cộng
sản xâm nhập. Nhớ lại quá trình đấu tranh của Phật giáo từ những năm 1963,
1964, 1966 Huệ Nhật thấy rõ những cán bộ Cộng sản trong Phật Giáo luôn luôn
tích cực xúi giục mà họ không trực tiếp hành động và trực diện đấu tranh. Lấy
kinh nghiệm lần tình nguyện tự thiêu ở Nha Trang, Huệ Nhật nhớ lại chính những
cán bộ Cộng sản đó, trong lớp áo tu sĩ, hoặc là cư sĩ là những người tích cực
thúc đẩy Huệ Nhật tự thiêu, họ động viên, khích lệ kể cả cô lập để Huệ Nhật
không thể thay đổi ý kiến được. Là người nhạy cảm, Huệ Nhật đã thấy rõ Cộng sản
chỉ đứng giật dây, thúc đẩy quần chúng và những người có nhiệt tâm trực diện
với cái chết để họ lợi dụng thành quả. Điều khám phá quan trọng khác của Huệ
Nhật là những hành động bê bối của những vị sư mà Huệ Nhật gọi là sư quốc doanh
trong Giáo Hội Phật Giáo Yêu Nước, họ mặc áo nhà tu mà không từ bất cứ hành
động phạm giới nào kể cả sắc giới. Huệ Nhật đã bỏ về nhà ở tại quận Nhà Bè. Ở
đây anh lại thấy rõ hơn bộ mặt của cán bộ Cộng sản tại địa phương. Không xa
Saigon mà biết bao nhiêu oan khuất của người dân xã Phú Xuân huyện Nhà Bè phải
chịu về nạn cường hào ác bá. Huệ Nhật chứng kiến cảnh cán bộ Việt cộng cưỡng
chiếm nhà của người dân, những người không thuận giao nhà bị ném truyền đơn
phản động rồi bắt nhốt, nhiều người nghĩ mình không có quan hệ với chính quyền
cũ, nên ăn nói không giữ miệng nhằm chỉ trích những bất công thì bị thủ tiêu,
gia đình tìm được xác liệng ngoài đồng ruộng mới biết thân nhân bị chết.
Nhiều phụ nữ bị bắt vào trung tâm phục hồi nhân
phẩm rồi đưa đi trại cải tạo chỉ vì không thuận theo lời tống tình của cán bộ
xã, ấp của Việt cộng. Yêu cách mạng, mong cách mạng đem lại công bình cho xã
hội, hạnh phúc cho người dân, nhưng khi cách mạng thành công, tham dự vào hàng
ngũ của những người cách mạng, Huệ Nhật đã tìm ra sự thật. Anh đã gia nhập vào
một tổ chức phục quốc để mong làm một cuộc chiến đấu mới - chưa kịp hoạt động
đã bị bắt.
Tôi cũng gặp Nghĩa, người cán bộ Cộng sản sớm
“thoái hóa”, bị bắt cả hai vợ chồng vì tội lợi dụng chức vụ để chở hàng ra Bắc
bán lấy lời riêng. Nghĩa làm Trưởng phòng Nội Thương Sở Kinh Tế Thành Phố.
Nghĩa quê ở Rạch Giá. Sau khi thi đậu Brevet ở
Cần Thơ, Nghĩa vào khu kháng chiến và đi tập kết năm 18 tuổi ra miền Bắc, đầu
tiên đi học khóa cải cách điền địa. Nghĩa nói ấn tượng sâu sắc trong trí óc
Nghĩa là một sự kinh hãi khi anh tham gia phong trào cải cách ruộng đất. Anh
không tưởng tượng được việc nhà nước và đảng giao toàn quyền sinh sát người dân
vào tay toán cán bộ cấp thấp chỉ được huấn luyện hận thù và kỹ thuật trấn áp và
thúc đẩy quần chúng đấu tranh và nhắm mục tiêu báo cáo thành tích. Chỉ cần đạt
được thành tích nên toán cải cách phải tìm cho ra địa chủ để đấu tố, kết quả là
có nhiều xã nghèo, không có địa chủ để đấu tố, những trung nông có vài mẫu ta
ruộng (chưa được một ha) cũng bị nâng lên hàng địa chủ, để đưa ra tòa án nhân
dân và họ bị bắn chết ngay sau khi bị nhân dân kết án. Khi nạn nhân đã được đưa
ra tòa thì nhân dân kể cả thân nhân của họ phải tìm cho ra tội ác của họ để tố
cáo. Tội lỗi đều là tưởng tượng.
Sau chiến dịch cải cách, Nghĩa được đi học ở Ba
Lan, anh đã thấy được tinh thần đấu tranh của nhân dân Ba Lan và nhân dân các
nước Đông Âu nhắm vào đảng Cộng sản cũng như vào sự chiếm đóng của Liên Sô.
Nghĩa đã đi theo kháng chiến vì lý tưởng giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ,
anh không có một ý thức nào về đấu tranh giai cấp, theo anh nếu nói đấu tranh
giai cấp thì chính gia đình anh ở Rạch Giá cũng có thể liệt vào hàng địa chủ.
Theo lý thuyết đảng Cộng sản và chế độ Cộng sản
là của người công nhân vô sản, không làm chủ tư liệu sản xuất. Họ phải bám vào
nhà máy cũng như bám vào chính quyền vô sản để có lương hàng ngày. Nên nông dân
khó trở thành Cộng sản vì nông dân dễ có tư hữu. Do đó, vì phải xây dựng chủ
nghĩa Cộng sản dựa vào nông dân (vì không có công nhân) nên Cộng Sản Việt Nam
cũng như Trung Cộng phải làm cho nông dân thật nghèo đói, tất cả trở thành bần
cố nông, để họ phải bám vào nông trường quốc doanh, bám vào nhà nước, và trung
thành với đảng để được sống. Từ đó nông dân miền Bắc và miền Trung sau đợt cải
cách chỉ còn cách bám víu và trung thành với đảng; nông dân miền Nam hầu hết
đều có ruộng đất, đa số từ trung nông trở lên, nên Cộng sản khó có thể thi hành
một cuộc cải cách ruộng đất như miền Bắc, khó có thể khích động nông dân hận
thù địa chủ.
Nghĩa nói: “Ngày đầu tiên đi học lớp cán bộ cải
cách ruộng đất, người giảng viên đứng tố vợ chồng tên địa chủ gian ác, phạm đủ
các tội như hiếp dâm vợ con tá điền, cho vay nặng lãi, bỏ bã rượu vào ruộng
người dân rồi báo cho Tây đoan bắt bỏ tù người đó để hắn ta mua rẻ ruộng đất
v.v... Sau khi tố mọi tội lỗi của vợ chồng địa chủ, người giảng viên mới nói
với học viên rằng vợ chồng tên địa chủ đó là cha mẹ của ông ta, họ còn có tội
là nuông chiều ông, dạy cho ông nếp sống quan liêu phong kiến xa rời quần chúng
cho đến khi ông may mắn được Bác Hồ và Đảng giác ngộ dạy dỗ. Người giảng viên
tố cha mẹ đó là Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh”.
Nghĩa nói lúc anh nghe bài giảng anh lạnh cả
gáy, anh nghĩ là một người không có hiếu với cha mẹ của mình thì làm sao hiếu
với dân như Đảng dạy. Nghĩa nghĩ nhưng không bao giờ dám phát biểu ý nghĩ của
mình. Sau này anh hiểu thêm là chiến dịch cải cách ruộng đất buộc tất cả các
cán bộ trong quân đội cũng như trong chính quyền thuộc gia đình trung nông,
tiểu tư sản trở lên phải kiểm điểm bản thân và gia đình. Càng nhận nhiều tội,
càng tố cáo nhiều tội lỗi của cha mẹ càng được công nhận là giác ngộ cách mạng
và có đảng tính cao.
Bác Hồ và đảng chủ trương đẩy mạnh chính sách
đó, nhằm mục đích tách đảng viên khỏi gia đình; cắt đứt sợi dây liên lạc máu
huyết để đảng viên không còn cái gì bám víu ngoài đảng, buộc họ phải trung
thành với đảng.
Theo Mác và
Lénine, đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân. Việt Nam chưa phát triển
công nghiệp, không có giai cấp công nhân - nên theo lý luận của Mao Trạch Đông,
đảng Cộng Sản Trung Quốc và đảng Cộng Sản Việt Nam phải xây dựng trên nông dân.
Nhưng nông dân phải là bần nông và cố nông mới là thành phần lãnh đạo.
Thực tế, bần nông và cố
nông không có khả năng, không học vấn không thể lãnh đạo cách mạng. Do đó, họ
cần đến những người trí thức, tư sản và tiểu tư sản đầu hàng giai cấp một cách
triệt để. Trường Chinh là mẫu tiêu biểu. Con địa chủ, có học vấn trung học, nên
muốn lãnh đạo Trường Chinh mở đầu cho phong trào đấu tố cha mẹ là địa chủ. Sau đó,
các cán bộ đều phải đấu tố cha mẹ mình. Đa số vì sợ và vì con đường tiến thân,
vì sống trong guồng máy, họ đã theo gương Trường Chinh làm việc trái với đạo lý
dân tộc. Nhưng cũng có nhiều người không thể làm được, họ bị loại ra khỏi quân
đội, khỏi chính quyền và đảng. Có nhiều người bị bức bách đấu tố cha mẹ xong,
sau đó ân hận đã tự tử, có người đã trở nên bất bình thường. Kết quả hàng trăm
ngàn người bị giết trong cải cách ruộng đất, hằng trăm ngàn người bị đày ải
trong các trại cải tạo, cho đến năm 1975 có người chưa được thả và hàng triệu
người bị bức bách bỏ quê hương lên cư trú ở miền rừng thiêng nước độc như Sơn
La, Hoàng Liên Sơn.
Sau cuộc cải cách, đảng và Bác giả làm như sửa
sai, Trường Chinh và Lê Văn Lương bị hạ tầng. Nhưng thực sự đối với đảng, đối
với Bác Hồ, họ đã thành công trong việc gieo mối sợ hãi khủng khiếp trong dân
chúng để củng cố quyền cai trị độc đoán và phá vỡ nền móng gia đình của một dân
tộc xem gia đình, xã thôn là những tổ chức căn bản của xã hội. Ở miền Bắc dân
chúng không ai dám nhắc, và muốn nhắc đến những phong trào như đàn áp trí thức
trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, và sự đấu tố trong phong trào cải cách ruộng đất.
Giới trẻ thì họ không biết rõ ràng, nhưng những người trung niên lớn tuổi thì
như là một vết hằn đau thương trong tâm hồn và ký ức mọi người. Không ai dám
nhắc tới nhưng không ai quên được.
Cộng sản chiếm được miền Nam, họ bị hụt hẫng
rất nhiều, những gì phong trào Cộng sản có thể làm được, miền Nam đã giải quyết
trước; những điều họ có thể vận động quần chúng làm cách mạng như ở miền Bắc,
miền Nam đã làm. Xóa nạn mù chữ, giải phóng phụ nữ, bình đẳng chủ thợ, người
nông dân có ruộng v.v... miền Nam đã làm trước. Những ngày đầu khi bước chân
vào miền Nam, những đầu óc già nua của cán bộ Cộng sản giở lại những việc làm
vận động quần chúng như thời kỳ năm 1945 trở thành lạc hậu dưới con mắt của
người dân miền Nam. Dân miền Nam thấy Cộng sản không có gì mới, không hay như
có người đã lầm tưởng.
Đời sống kinh tế miền Nam phong phú nên con
người miền Nam cũng phóng khoáng hơn, tinh thần đố kỵ nhau cũng ít. Cộng sản
khó khơi động hận thù như họ đã thành công ở miền Bắc Việt Nam.
Hầu như người miền Nam không thích hợp với chế
độ Cộng sản. Những cán bộ kháng chiến đi tập kết ra Bắc, dù có chính sách ưu
đãi, họ vẫn thấy lúng túng với cuộc sống khó khăn, con người phải bon chen vất
vả mới sống được. Do đó, cán bộ tập kết năm 1954, sau hai năm không có hiệp
thương bầu cử, họ đã tranh đấu và đòi về miền Nam. Hồ Chí Minh ngoài việc ban
hành chính sách ưu đãi cán bộ, bộ đội tập kết, phong cấp tướng cho những tư
lệnh kháng chiến ở Nam Bộ như Mười Trí, Đồng Văn Cống, Huỳnh Văn Nghệ nhưng
thực sự không mấy tin cậy họ. Do đó, các đảng viên Cộng sản gốc người miền Nam
ngoài Phạm Hùng và Võ Văn Kiệt không mấy người đi sâu vào thành phần lãnh đạo
cao cấp. Để lãnh đạo Nam Bộ Kháng Chiến, và sau này lãnh đạo Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam, Hồ Chí Minh cử cán bộ người Bắc và Trung vào như Lê Duẩn, Trần
Văn Trà, Trần Nam Trung, Trần Độ, Nguyễn Văn Linh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Thị
Bình. Người gốc miền Nam chỉ giữ vai trò thứ yếu như Ung Văn Khiêm, Mai Văn Bộ,
Lưu Hữu Phước, Trần Bạch Đằng... và cũng vì muốn trở về Nam, nên khi lập Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, cán bộ tập kết đều được hồi kết và trong cuộc chiến
đấu, ngoài sự lãnh đạo của Cộng sản, nguyện vọng muốn chiến thắng để trở về làm
chủ quê hương của người miền Nam đã khiến họ hoạt động hăng hái, móc nối con em
họ sinh trưởng ở miền Nam làm nội ứng và họ đã chiến đấu hăng say đến chiến
thắng.
Nhưng sau khi chiến thắng rồi, những gì họ hiểu
biết về đảng, về miền Bắc, và sự hiểu biết thêm về đời sống của thân nhân họ ở
miền Nam khiến họ cảm thấy bị đánh lừa và chán nản và bắt đầu có tư tưởng chống
đối.
Tiêu biểu nhất là trường hợp Huỳnh Văn Nghệ,
Cựu Tư Lệnh quân khu 7. Nghệ là một người yêu nước sinh trưởng ở Biên Hòa, tham
gia kháng chiến chống Pháp, nhờ tài quân sự trở thành tư lệnh phó khu 7 ở miền
Đông Nam Bộ, Trong thời kháng chiến chống Pháp, Nghệ thắng nhiều trận, danh
tiếng hơn cả Trần Văn Trà, đảng viên Cộng sản tư lệnh khu 7, do Hồ Chí Minh cử
từ ngoài Bắc vào. Khi tập kết ra Bắc năm 1958, Nghệ và Đồng Văn Cống được mang
quân hàm Đại Tá. Đến năm 1960, lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Nghệ hồi kết
trở về hoạt động tại khu 7 tức là Vùng Ba Chiến Thuật vùng chiến khu D. Trong
thời gian tổ chức chưa được chỉ thị đánh lớn, nhưng Nghệ nóng lòng vì tỉnh
trưởng Phước Thành, Thiếu tá Mân bắt người chị của Nghệ, năm 1963, Nghệ đã tấn
công chiếm tỉnh lỵ Phước Thành. Thời kỳ còn chiến tranh, cần sử dụng tài quân
sự và uy tín của Nghệ ở các tỉnh miền Đông nên Nghệ được cử làm Tư Lệnh khu 7,
nhưng sau khi chiến thắng, Nghệ bị điều qua làm Thứ trưởng Bộ Lâm Nghiệp phụ
trách khai thác lâm sản mở mang vùng kinh tế mới khu vực Biên Hòa - Đồng Nai.
Nghệ nhiều lần tỏ ra bất mãn, nên năm 1975 y bị giết một cách bí mật. Gia đình
chỉ được thông báo lên bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện Vì Dân) để nhận xác. Vợ
con Huỳnh Văn Nghệ thấy thi thể Nghệ đã được bó kín trong một lớp vải liệm
trắng mà không được giải thích gì. Cái chết của Huỳnh Văn Nghệ được dư luận ở
Saigon, Biên Hòa, nhất là trong số cán bộ tập kết bàn tán một thời. Nhiều cán
bộ miền Nam hồi kết đã bị phục viên, một số bất mãn, hoặc nhìn thấy thực tế đã
xin phục viên. Số còn lại thì tự lo lấy đời sống của mình vì không còn tin
tưởng vào đảng, vào lãnh đạo. Nằm trong chính quyền họ cố làm ra tiền để chuẩn
bị đời sống tương lai.
Tôi cũng gặp Trần Văn Lâm, cán bộ Công an quận
10, bị bắt vì lợi dụng cấp hộ khẩu lấy tiền mua nhà.
Lâm kể:
- Quê em ở Thái Bình, vựa lúa của miền Bắc
nhưng dân đói quanh năm nhất là vào mùa giáp hạt, nhà nào cũng thiếu ăn. Ba em
là Trung úy công an làm việc ở Hà Nội. Nhà em có 8 anh em vừa trai vừa gái. Em
là con trưởng. Từ khi biết suy nghĩ đến giờ em thấy mẹ em suốt đời cực khổ vì
lũ con nheo nhóc, ba em mỗi tháng về nhà một lần, mang theo một gói cơm khô,
ông nhịn bớt phần ăn phơi để dành về nuôi chúng em. Ngoài gói cơm khô và mấy
chục bạc lương ít ỏi, ba em không còn gì cho gia đình nữa, ông chỉ hứa hẹn là
khi đất nước thanh bình đuổi được giặc Mỹ ra khỏi miền Nam thì nhân dân sẽ sung
sướng. Ba em là người đảng viên trung thành của chế độ, nên lúc nào ông cũng
thuộc lòng mớ lý thuyết đấu tranh giai cấp, lúc nào ông cũng Bôn (Bolsevick),
và em thì chán ngấy mớ lý thuyết vô ích đó. Đối với em phải là thực tế gạo cơm
và tiền. Cơm làm no bụng, “Bôn” không làm mình no, và tiền thì mua được đủ thứ.
Năm nào nhà em cũng đói hàng tháng, mẹ càng đẻ
nhiều thì càng đói nhiều, nhà nhiều miệng ăn mà phần gạo mẹ chia ở hợp tác xã
không tăng. Không kể năm mất mùa còn bị sụt. Có những tháng chúng em ăn cháo
ròng rã, mỗi ngày mẹ nấu nồi cháo hai lon gạo thêm vài lon cám và dây khoai
lang. Và nhiều lần mẹ em phải nhịn ăn để dành phần cho những đứa em bé. Có lần
đi học về thấy mẹ nằm đói lả bên thằng em khóc đòi bú mà bếp núc chưa có đóm
lửa. Mẹ nói nhà hết gạo, mới sai em gái sang làng bên vay gạo. Em chạy ra đường
để đón đứa em vì trời đã nhá nhem tối. Gặp em gái trên bờ đê vừa đi vừa khóc vì
bác không cho mượn gạo, bác chỉ cho một bó dây khoai lang và một đoạn cây
chuối. Hai anh em đi về nhà mà tê tái cả lòng vì lạnh bên ngoài và rét cả bên
trong. Nghĩ đến mẹ và 6 đứa em đang chờ gạo ở nhà; em không thể nào về không
được nên em quyết định làm một việc mà từ lâu em vẫn suy nghĩ mà chưa dám làm.
Em ăn trộm một trái mít của một gia đình lối xóm. Em nói với mẹ là mít của bác
cho. Từ đó quen tính lấy tất cả những gì có thể lấy được, mẹ em chắc cũng biết
em làm điều xấu, nhưng bà làm ngơ giả như không biết. Em đã lớn lên trong hoàn
cảnh đó, em sớm hiểu giá trị của cơm áo, và em phải biết cách để kiếm nó.
Năm 17 tuổi, em thôi học lớp 9, hợp tác xã nông
nghiệp cơ giới hóa một máy bơm nước, em được tuyển chọn đi Hà Nội học thợ máy
vì em là con của một sĩ quan công an.
ở Hà Nội, em biết thêm không phải chỉ gia đình
em đói, mà nhiều nơi khác cũng đói. Người ta từ làng quê kéo lên Hà Nội ăn xin,
hoặc ăn trộm và cướp giật.
Anh nghĩ gì khi thấy một người vào cửa hàng
giật một chiếc bánh của một người đang ăn, rồi hai tay tọng ngay chiếc bánh vào
mồm. Trong khi người mất bánh dùng cả hai tay và sức lực để đấm vào bụng người
ăn cướp, người ăn cướp cố trợn phùng mắt để nuốt, hắn không sợ bị đánh đau mà
chỉ sợ chiếc bánh bị bật ra khỏi miệng.
Nhiều người bị bắt vào các trại tập trung,
nhiều người đói quá cố tình phạm tội để bị bắt, vào trại tập trung còn có tiêu
chuẩn ăn, còn ở ngoài họ tìm không ra. Nhưng trại tập trung quá đông, công an
lại không muốn nhận số người “tình nguyện” nên chỉ giam ít ngày rồi thả.
Trại tập trung miền Bắc thật khủng khiếp, rồi
thời gian tới anh sẽ biết thế nào là trại cải tạo, vậy mà đói quá có người quẫn
trí muốn vào. Bên ngoài họ không tìm cái gì để ăn được.
Em nhớ đến gia đình của em đông anh em, không
biết đến ngày nào thì tan rã vì đói; mình phải lo cứu bản thân và gia đình mình
trước, còn lý tưởng cách mạng chỉ là chuyện xa vời. Sáu tháng học tập ở bộ cơ
khí về việc điều hành máy bơm nước Hoa Sen. Trở về lại làng, em trở thành một
người quan trọng. Hơn một nghìn hai trăm xã viên trông cậy vào một mình em điều
khiển máy bơm nước để họ đỡ công tát nước khuya. Và em biết nắm lấy hoàn cảnh;
cái máy nếu chạy tốt mãi thì không có gì lạ và mình trở thành người tầm thường,
người ta sẽ quên cái công khó của mình, vì người ta nhận lãnh thành quả của em
một cách tự nhiên. Do đó, em quyết định cái máy thỉnh thoảng phải hỏng, và nó
hỏng những lúc ngặt nghèo nhất như lúc lúa đang ngậm đòng thì càng tốt. Những
ngày em lui cui sửa máy là những ngày quan trọng và là những ngày mong đợi của
bà con, khi máy chạy trở lại em được bà con cám ơn và xem như những người từ xa
đến cứu họ. Đó là công việc làm ăn của em. Công điểm của em về coi máy mỗi ngày
là 10 điểm; thì bây giờ nếu máy hư em sửa được máy phải tính thêm công điểm cho
mẹ, hay cho em gái. Cũng vì cái tính quan trọng của máy bơm nước với cả hợp tác
xã, nên khi sửa máy xong, thì ban quản trị nghĩ là phải có ăn mừng, gà, vịt,
hay cá của hợp tác xã được chi vào những bữa tiệc đó, đâu có ai chịu riêng đâu,
mọi phí tổn đều do hợp tác xã chịu. Không nói ra, nhưng có một thỏa thuận ngầm
giữa chủ tịch hợp tác xã và em về chu kỳ hư hỏng của máy, cũng như những bữa tiệc
sau đó. Những cuộc bình bầu 6 tháng, hay một năm cá nhân xuất sắc thì chủ tịch
hợp tác xã là người hăng hái đề nghị bảo vệ cho em. Từ cá nhân xuất sắc của hợp
tác xã, rồi cá nhân xuất sắc của cả huyện, em được bầu làm anh hùng lao động.
Anh nghĩ xem 20 tuổi được bầu làm anh hùng lao động, đại diện cả tỉnh về Hà Nội
dự lễ quốc khánh ngồi khán đài xem diễn binh cùng với những đồng chí cao cấp
trong đảng và chính phủ. Ba em rất hãnh diện vì em, suốt đời ông chỉ mong một
lần ngồi trên khán đài mà không được. Em ngồi khán đài, nên đã nhìn thấy các
ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Văn Tiến Dũng, ông nào cũng mập tròn, nước da láng
bóng. Các ông ấy đã làm cách mạng và lãnh đạo cách mạng, công việc nặng nhọc
nên cần được bồi dưỡng, nên dân có gầy ốm thì các ông ấy vẫn mập như voi. Họ
làm lãnh tụ cách mạng là biết cách thúc đẩy toàn dân làm cách mạng, còn họ thì
hưởng, gia đình họ hưởng; họ quyết tâm giải phóng miền Nam, nhưng ra chiến
trường là người khác chết, con em người khác chết. Các lãnh tụ không ai có con
phải vào chiến trường B cả, con của họ đi học ngoại quốc. Họ cấu kết nhau thành
một tầng lớp thủ lợi riêng tư sống trên xương máu của nhân dân, cấu kết với
nhau trong nước chưa đủ để củng cố địa vị, họ còn cấu kết với nước ngoài.
Ông Lê Duẩn đem gả con gái cho cháu trai của
Breznev bên Liên Sô không phải để giữ chắc cái ghế Tổng Bí Thư là gì.
Nói tóm lại,
phải biết sống, không có quyền hành thì phải có tiền, xin lỗi anh, bao giờ chó
chê cứt thì người ta mới chê tiền anh ạ.
Năm em 22 tuổi em phải
vào bộ đội, các lý do cần thiết cho hợp tác xã không giữ em được miễn, nhưng
lúc này em đã biết sống và có cách sống, trong những năm thân cận với chủ tịch
hợp tác xã em đã học hỏi được nhiều mánh mung, bớt xén phân bón, thuốc trừ sâu,
cân đo gian lận, em cũng để dành được ít tiền, gia đình em cũng tạm no; vào
lính với lý lịch bố làm công an, và thành phần ba đời bần nông cùng với 500
đồng bạc để dành được làm của hối lộ, em được đi học tài xế. Phải nhắc anh mới
hiểu cái quan trọng của nghề lái xe ở miền Bắc; trong khi hầu hết mọi người đi
bộ hoặc đi xe đạp, mà mình ngồi trên xe hơi thì anh biết sẽ đủ mùi sung sướng,
dù là xe hơi nhà nước, xe hơi quân đội anh cũng được sung sướng trọn vẹn. Lính
xế không trực tiếp chiến đấu, nếu anh biết sống thì anh chỉ chạy tuyến tiếp vận
hàng hóa, dĩ nhiên cũng có sợ bom Mỹ nhưng mọi người đều đương đầu với hiểm
nguy, thì mình không ngại gì khi mình vẫn ưu tiên. Anh biết không, lính xế là
ước mơ của bao nhiêu thanh niên miền Bắc; làm vợ lính xế là ước mơ của bao
nhiêu cô gái. Thời buổi chiến tranh, chết chóc đói khổ, anh biết chỉ có lính xế
mới có tiền vào các quán hàng chui có đầy đủ phẩm chất, phở có người lái, thịt
gà, thịt lợn chui đủ thứ, chứ không phải chỉ vào cửa hàng quốc doanh ăn phở
không có thịt. Sau mười tám tháng học ở trường dạy lái xe Đồng Đăng thì em tốt
nghiệp. Anh thắc mắc tại sao học tài xế phải 18 tháng, đó cũng là kinh nghiệm
sống để biết thêm cách sống. Nếu ban giám hiệu trường dạy lái xe không soạn một
chương trình huấn luyện lâu dài thì họ đâu có là đơn vị quan trọng, họ đâu có
chỗ đứng trong bộ máy nhà nước. Anh biết là giám hiệu trường quân xa mang quân
hàm Thiếu Tướng. Nếu cứ vài ba tuần hay nửa tháng là học xong bằng lái xe thì
nghề lính xế đâu có quí và cái trường đào tạo lính xế đâu có quan trọng. Chỉ có
việc ngồi trên mô hình xe bằng gỗ để tập vặn tay lái và đạp chân ga là đã ba
tháng học.
Ra trường, đơn vị đầu tiên của em phụ trách
chuyển quân từ Thanh Hóa vào đến Vinh, công tác này thú lắm, nhất là lúc đó em
còn trẻ, các em gái thanh niên xung phong liên khu 4 mê lính xế miền Bắc. Em
nào cũng thước năm bằng nhau như cưa và cái đít bằng cái thúng; cứ biếu một ký
muối là anh tha hồ, đơn vị đóng quân gần nhau, tối mò qua, ôm đứa này thì đứa
khác quay mặt qua hướng kia, giả đò ngủ. Trên đường trở về đơn vị em làm ăn
bằng cách chở người quá giang. Nếu không lấy tiền thì tụi em được đền ơn bằng
tình; nói tóm lại tha hồ, sợ không có sức mà chơi. Em đâu có bám vào đơn vị
chuyển quân mà sống được, dù sống vui như em đã kể; vấn đề là phải làm ra tiền,
có tiền anh sẽ mua được nhiều thứ, kể cả sinh mạng của anh. Em đã tốn cả 1000
đồng để đổi từ đơn vị chuyển quân sang đơn vị chuyển vận hàng hóa. Lộ trình từ
Đồng Đăng về Hà Nội, chở hàng viện trợ của Trung Quốc qua ngã Lạng Sơn - chuyên
chở đủ thứ, từ gạo, mì chính (bột ngọt), thuốc tây. Anh biết lần đầu tiên đem
về nhà nửa bao gạo mẹ em sung sướng thế nào không? Suốt đời chưa bao giờ mẹ em
có được một lúc gần 50kg gạo. Đó là em muốn mẹ em được hưởng cái cảm giác sung
sướng vì no đủ, cho bõ những lúc đói hai ba ngày không có hột cơm, chỉ ăn cháo
nấu với cám và dây khoai như thức ăn của lợn. Đem gạo về như vậy rất phiền,
phải giấu giếm, nếu không thì lộ chuyện làm ăn, dù gia đình em là công an được
làng xã nể vì và em cũng là người quen biết. Từ đó về sau em đem hàng đi bán
lấy tiền.
Hàng ăn cắp thì bán cách nào cũng được, đứa nào
cũng là cơ sở cách mạng, đứa nào cũng miệng nói cách mạng, nhưng móc nối được
lính xế tuôn hàng cho bán, thì đứa nào cũng bí mật, giấu kín như mèo giấu cứt,
vì đứa nào cũng hiểu rất rõ cái ăn nó quan trọng hơn đảng. Nếu nghe theo lời
đảng “giữ sự trong sáng như con ngươi của mắt” thì có nước ăn cứt - nói thì cứ
nói, mà làm thì cứ làm. Khi chưa có cơ hội làm thì cứ đem kinh điển của đảng ra
tụng mỗi ngày, buộc tội đứa khác cũng dựa vào kinh điển, thúc đẩy đứa khác cũng
dựa vào kinh điển - nhưng cơ hội đến thì đứa nào cũng phải biết ôm lấy cái lợi.
Em chở hàng, thường thì đến trạm nghỉ Bắc Ninh chúng em bán đồ ăn cắp. Đứa nào
cũng làm ăn, từ trên xuống dưới. Cứ lấy bớt mỗi thùng, mỗi bao một ít rồi về
thằng thủ kho nó chịu, cứ theo dây chuyền như vậy, có ai thiệt hại đâu ngoài
mấy thằng lính ngoài chiến trường, mà lính thì sống nay chết mai, bữa đói bữa
no có khi giặc tấn công cả hai ba ngày không ăn là chuyện thường; nếu không có
đứa rảnh rang khơi lên thì có ai mà biết - có ai cần quan tâm khi cái chết nó
quan trọng hơn, mà có đứa nào chắc chắn được là ngày mai mình không bị bom dập
nát.
Em cứ đưa hàng cho những bí thư xã nó bán là ăn
chắc, nó vừa bảo vệ việc làm ăn của nó vừa bảo vệ cho mình, lâu lâu nó lại làm
kiến nghị của nhân dân xã lên đơn vị trưởng nói tốt cho mình, đơn vị quân đội
khi làm công tác chuyển vận đã được dân chúng mến mộ, nó muốn viết gì thì viết
nấy; quí hồ vẹn cả mọi bề, làm ăn tốt đẹp cả. Nơi nào đơn vị dừng lâu em cũng
có đầu mối làm ăn và có gái. Anh biết thằng cha bí thư xã Thanh Liêm ở Bắc Ninh
có hai đứa con gái mới lớn em đều ngủ cả mà hắn không dám nói vì sợ mất mối mì
chính của em đưa bán. Trên đường từ Hải Phòng về thì tại Hải Hưng em có một
trạm do hai chị em một nữ bí thư xã lo việc bán hàng cho em. Cả hai chị em đều
chưa có chồng và đều coi em như trứng mỏng, em muốn ngủ với đứa nào cũng được.
Em hay nói về đàn bà, vì mình là thanh niên độc
thân đâu có gì thú bằng chuyện đàn bà, cách mạng người ta giải phóng phụ nữ,
bảo vệ phẩm giá nữ giới, nhưng đàn bà miền Bắc lại rẻ như bèo, phần thì thanh
niên phải ra chiến trường, trai thiếu gái thừa, phần thì phụ nữ ra ngoài xã hội
chung chạ đủ hạng người - cứ đẩy đàn ông ra chiến trường thì bọn đảng viên cơ
sở ở nhà mặc tình hưởng thụ vợ con của người khác. Anh nghĩ, làm sao giữ được
phẩm hạnh khi xa chồng lâu ngày rồi phải đi làm nghĩa vụ lao động hàng hai ba
tháng chung chạ nam nữ lẫn lộn với nhau; làm sao giữ trinh tiết khi chồng đi
vắng mà thằng bí thư xã cứ đến nay giúp cái này, mai giúp cái khác. Làm sao mà
giữ chữ trinh trong khi con gái đến tuổi 18 bị lùa đi thanh niên xung phong
hàng 2,3 năm trời xa nhà, mà nhà nước chỉ chích cho mỗi 3 tháng một lần một mũi
thuốc ngừa thai. Hoặc khi giáp hạt phải quảy gánh lên tận Hà Giang để mua củ
sắn về bán lại hay để ăn trong gia đình. Lính xế tụi em thì có tất cả, trên
đường công tác, chạy đến ga xe lửa chọn một vài cô xinh đẹp cho quá giang là có
bạn gái, họ phải tiện tặn từ đồng, từ chục bạc để mua sắn thì họ phải chiều, mà
có mất mát gì đâu phải không anh? Rửa đi thì nó lại sạch như mới. Khi quân vào
giải phóng Đà Nẵng em đã có mặt tại đó, em vẫn là lính xế, sau khi chiếm xong
Huế thì đoàn quân bị sựng lại ở Hải Vân đến hai ngày, lúc đầu mới tiến qua sông
Thạch Hãn và vào Huế thì còn sợ bị phản công, nhưng thấy chiếm xong hai tỉnh mà
không động tĩnh gì, tụi em mới an tâm, nên đứa nào cũng náo nức tranh thủ cho
được đi những chuyến đầu tiên vào Đà Nẵng. Vào đến thành phố, các em được
nghiêm lệnh không động tới tái sản của dân dù là cây kim sợi chỉ, nhưng tài sản
của dân còn làm chủ chứ có nhiều của cải vứt rây rải trên đường không ai thừa
nhận, có dịp nào mình xin cũng được cả khối. Tụi em lại là lính xế, xe còn chạy
ra, chạy vào để tiếp tục đưa quân vào, nên mỗi chuyến xe em cũng có được “chiến
lợi phẩm” như đài (radio), máy hát, thuốc tây, đủ loại các vật mà em bán ngay
tại Vinh để lấy tiền. Vinh là đầu cầu chuyển quân lúc đó.
Sau khi đóng ở Đà Nẵng hai tháng thì em xin
phép về nhà, em có được một xe môtô hiệu Honda, máy băng cassette, đài, cái nào
cũng có hóa đơn hay giấy chứng nhận của đồng bào cho do các phường xã cấp -
sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa phải có giấy tờ cẩn thận phòng thân, e sợ có
đứa xấu mồm nó ganh ghét tố cáo. Sẵn có tiền em mua một chuyến hàng về bán. Anh
biết em mua gì không? Em mua một bao bố thứ bong bóng thổi cho trẻ em chơi, thứ
này không ai để ý mà cũng không sợ bị vi phạm gì, bong bóng đủ màu ngoài Bắc
hiếm lắm. Thuở nhỏ em chơi bằng bong bóng lợn, mỗi khi làng xã có giỗ tết giết
lợn, mình lanh lợi phụ giúp mới xin được cái bong bóng đem phơi cho gần khô rồi
thổi lên làm bóng đá chơi. Sau này trẻ con chơi bong bóng bằng cao su kế hoạch
hóa - Anh không hiểu bao cao su kế hoạch hóa là gì à? Đó là bao ngừa chửa đẻ,
ngoài Bắc chủ trương kế hoạch hóa gia đình và ba khoan, trong đó có khoan đẻ
cho những cặp vợ chồng mới cưới, và người ta còn phát bao cho những thanh niên
xung phong, để bổ túc cho liều thuốc ngừa thai chích cho nữ thanh niên xung
phong có hiệu quả ba tháng. Bao cao su bán rẻ cho những gia đình kế hoạch hóa
một hào một cái, nhưng người ta lại ít muốn kế hoạch hóa và ham lợi, có người
nghĩ ra cách mua góp bao cao su hai hào rưỡi một cái về thổi lên làm bong bóng
bán cho trẻ con chơi với giá 5 hào. Bong bóng đó không có màu. Em đem bong bóng
miền Nam về nhiều màu, chỉ mấy ngày đã bán nhẵn, một bao bố em lời được 10 ngàn
đồng. Số tiền quá lớn chưa bao giờ gia đình em dám mơ ước tới.
Về xóm làng, bà con đến nhà bu đông đặc, cái gì
cũng mới lạ, cũng sờ vào, cả ba em, cứ thắc mắc làm sao em có nhiều tài sản
thế. Em khui ra 5 hộp sữa pha vào một cái thau lớn mời mọi người nhấm một tí,
có người suốt đời chưa biết uống sữa bò là gì, chỉ nghe nói là miền Nam theo
Mỹ, ăn bơ sữa của Mỹ nên ai nấy tò mò. Có người hớp vào một tí đã la lên là sao
sữa hôi mùi xà phòng mà tụi Mỹ nó thích. Bơ thì em cũng nghe nói nhưng lúc đó
chưa biết là gì nên không đem về cho bà con biết. Ngày nào nhà em cũng đầy
khách, máy cassette em mở cải lương cho họ nghe. Ba em cứ ngồi vuốt ve cái mô
tô và cái máy cassette, khi em nói máy thâu được cả lời nói, không ai tin, em
nhấn nút thâu bảo ba em nói vào, đến lúc mở ra nghe tiếng của ông, ông ngồi
ngẩn tò te, tròn mắt ngạc nhiên lắm. Tội nghiệp ba em suốt đời lúc nào cũng
Bôn, lý thuyết Bolchevik, đấu tranh với kẻ thù giai cấp ông nói nằm lòng mười lần
giống như một. Nhưng suốt đời không đủ no và gia đình mẹ con em thì đói dài
dài. Ám ảnh vì món tài sản em mang về quá nhiều ông cứ theo hỏi em là em đã
được lên cấp tá chưa mà chiến lợi phẩm lại nhiều thế. Em nói em chỉ là thượng
sĩ tài xế ông không tin, thực ra ông quá choáng ngợp vào đồ vật thôi chứ ông
không thể nào tin là em được lên tới cấp tá trong quân đội, mà cho dù cấp tá ở
miền Bắc cũng không có được một lúc nhiều hàng hóa như vậy. Ông như người mất
hồn, cứ hỏi đồ vật ở đâu em có, em bảo đồng bào miền Nam cho, ông không thể nào
hiểu nổi người ta có thể bỏ một số tài sản như vậy để mà chạy. Em phải nói là
em là cấp nhỏ nhờ có xe và lanh lợi cũng tìm được tài sản đó, còn các ông lớn
có quyền, họ tiếp thu cơ quan tha hồ mà lấy, cứ một phần cho nhà nước, mười
phần cho cá nhân, xe con tịch thu được của người bỏ đi ngày nào cũng mang chở
chiến lợi phẩm ra Bắc.
Tội nghiệp mẹ và vợ em, em mua về cho thật
nhiều áo quần, những cái áo len dày và ấm nhưng không dám mặc, có mặc thì cũng
mặc vào bên trong rồi mặc cái áo trấn thủ rách mướp ra ngoài. Em giục nhà ăn,
mặc; em ra phố mua cả rổ cá, bao nhiêu thịt người ta bán chui em mua về hết cho
gia đình ăn, mẹ em cứ hoảng lên, đi ra đi vào, bối rối không biết phải làm cái
gì; rồi lại sợ xóm giềng biết được. Em bảo gia đình có sức cứ ăn cho sướng, cho
bõ bao nhiêu ngày đói khổ, nhưng nhà em thì dè dặt bảo bây giờ có em, có cha em
người ta cũng nể nang, rồi khi chúng em đi hết rồi, địa phương lại lôi thôi.
Em ở nhà dự đám cưới của đứa em gái, hai đứa nó
là thanh niên xung phong đi công tác ở Hà Giang một năm nghĩa vụ lao động rồi
thành vợ chồng vì con nhỏ bể kế hoạch có chửa, mà mẹ em không cho trục thai.
Thanh niên nam nữ chung đụng với nhau hàng ngày, đứa nào lười xin thuốc hay
dùng bao cao su kế hoạch mà dính chấu thì phải cưới nhau. Sau khi tập thể và
đoàn thanh niên kiểm điểm phê bình, đưa ra trước tiểu đoàn đấu tranh rút kinh
nghiệm, xong thì cho phép làm đám cưới. Về đăng ký cưới tại địa phương sẽ được
phiếu mua hai gói trà, 6 gói thuốc lá và hai bao kẹo để làm bữa tiệc đãi bạn bè
và địa phương.
Sẵn có tiền, và cũng muốn có một đám cưới lớn
cho nở mày nở mặt với bà con; em bàn với mẹ làm tiệc mặn, tiệc mặn thì có thể
mua hai con chó để làm tiệc, chó thì được hạ thịt tự do, vì chó không vào quy
hoạch nhà nước. Nhưng em muốn làm một con lợn cho hách; lợn thì làm gì có mà
mua được cả con. Cuối cùng em phải đến thương lượng với tổ chăn nuôi của hợp
tác xã làng bên kia sông, chủ nhiệm đồng ý bán cho em con lợn với cách là hắn
dàn xếp cho em và thằng em rể vào ăn trộm, tiền đưa xong, ban đêm dẫn vào
chuồng lợn, tụi em đào một cái hố con, xong nhấn đầu con lợn xuống đâm cổ tại
chỗ - tức là phải bỏ cả tiết lợn - rồi mang xác con lợn xuống ghe làm thịt ngay
giữa sông.
Đến ngày đãi khách, em phải đứng giữ vò thịt,
chờ lịnh mẹ, khách nào bà bảo chó, thì thằng em rể cắt thịt chó, khách nào bà
bảo lợn thì em cắt thịt lợn. Bà con người nào thân thiết mà kín miệng mới được
ăn thịt lợn, còn không thì ăn thịt chó.
Em kể chuyện ở Đà Nẵng người ta bán thịt bò
thui nguyên cả đùi không ai tin cứ bảo em đi xa về nói dóc. Vợ em nó như con
mán, em nói gì nó cũng nói “anh nói thế, chứ ăn thịt bò tù cho đấy”, nó quen
luật pháp miền Bắc làm thịt bò ăn là ở tù nên chuyện nó không thấy nói thế nào
nó cũng không tin.
Em muốn đưa nó
vào Nam sống nó lại không muốn đi, nó bảo nó không thể xa làng mạc được. Tội
nghiệp nó, làm nông vất vả, sáng sớm chưa hừng đông đã ra đồng hợp tác, hết
cấy, làm cỏ, thì đập bèo hoa dâu, mùa lạnh lội nước teo cả người mà nó cứ dại
không chịu đi theo em.
Em là một đảng viên
Cộng sản, em vào đảng không khó vì bố là đảng viên, lý lịch gia đình bần nông,
qua giai đoạn phấn đấu khi còn là đối tượng đảng. Ở nông thôn, thì chịu khó
thức khuya dậy sớm trời lạnh ra đồng đập bèo hoa dâu vài mùa, nhưng quan trọng
là công việc mình làm phải được giới thiệu, nhiều khi làm ít mà được người giới
thiệu tô vẽ hơn lên thì càng tốt. Chỉ ở ngoài tác chiến thì khổ, nhiều đứa cứ
tin vào lý tưởng, nghe theo lời động viên của cơ sở thúc đẩy, xung phong chấp
nhận hy sinh để xứng đáng được kết nạp đảng, nhiều đứa chết trước khi được vào
đảng, đến lúc đó thì cơ sở sẽ làm lễ truy điệu, đọc lời thương tiếc để động
viên sự hy sinh của đứa khác. Những đứa đã vào đảng trước rồi thì nó chỉ thúc
đẩy đứa sắp vào đảng hy sinh còn nó thì không.
Anh biết từ bộ đội chuyển qua công an và để
được làm ngay tại Saigon này em phải mất bao nhiêu không? Mười ngàn, đó là giá
còn sớm, lúc này chưa chắc mua được - một là tiền hai là thế, không có tiền để
mua thì phải vào cho đúng phe nhóm mới được sắp xếp cho làm tại Saigon này, vì
Saigon là nơi rất quan trọng mà hiện nay cánh nào cũng muốn bành trướng thế lực
và nắm lấy những địa vị then chốt. Ngành công an là công cụ để bảo vệ chế độ,
công an có nhiều quyền, nên công an cũng là nơi làm ra nhiều tiền, đó là logic.
Em bị chuyến này vì ham cái nhà ở đường Nguyễn Tri Phương vừa tốt vừa rẻ, em
muốn mua để đưa mẹ, vợ và mấy đứa em vào sống trong này.
Tội lỗi em không lo, em còn tiền rồi sẽ lo
xong, vả lại việc làm ăn cũng có liên hệ nhiều người, điều quan trọng là em sẽ
không nhận tội gì cả; trong xã hội Cộng sản này, tốt nhất là đừng để bị bắt,
nếu lỡ có bị bắt thì cố gắng giữ lời khai cho hợp lý, đừng nhận tội. Nó nói là
tự giác nhận tội sẽ được khoan hồng, nhưng tự giác là tự sát. Nhận tội thì
không có đứa nào có quyền khoan hồng, người ta chỉ khoan hồng cho những người
không phạm tội, tức là tỏ ra không có tội theo luật pháp qui định. Không nhận
tội, khéo khai cho hợp lý, rồi bên ngoài có tiền chạy cho đúng thì gỡ được. Em
làm ở ngành công an em hiểu; vụ án nào cũng phải được giải quyết, vì giải quyết
xong một vụ án cũng là thành tích của đứa nó phụ trách, vậy nó phải làm cho
mình nhận tội bằng cách tra khảo, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa nạt, cách nào cũng được
để can phạm nhận tội, hoặc ngược lại mình phải làm cho nó tin là mình vô tội
cũng bằng mọi cách, trước hết không nhận tội, khéo khai cho hợp lý để nó có thể
kết luận khả tín lên thượng cấp và tốt hết là mua chuộc. Thằng công an làm nghề
bắt tội phạm cũng phải có thành tích, ngoài chuyện rình mò tìm ra người phạm
pháp, nhiều khi nó phải dựng chuyện để bắt, dụ dỗ người ta phạm tội để bắt. Chế
độ cần thành tích nên mọi ngành phải lập thành tích mà thành tích của công an
là bắt người và xử lý các vụ án.
Tôi ngạc nhiên về trường hợp của Lâm, thế hệ
thanh niên Cộng sản thứ ba mà Hồ Chí Minh kỳ vọng đào tạo nên con người xã hội
chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thế hệ thứ nhất là những
người Cộng sản đi làm cách mạng năm 1930, nay còn rất ít và đang ở địa vị chóp
bu; thế hệ thứ hai tham gia kháng chiến năm 1945, dù đã trở thành Cộng sản
nhưng đa số gốc gác vẫn là tiểu tư sản, hay nông dân là thành phần ít có cách
mạng tính hơn hết; tiểu tư sản và nông dân là thành phần hay suy nghĩ và làm
việc một cách tùy tiện không có tinh thần kỷ luật. Thế hệ thứ ba là những thanh
niên sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, được giáo dục tinh thần xã hội chủ nghĩa từ
nhỏ, đảng tạo điều kiện cho họ thoát ly khỏi gia đình, từ bỏ tư hữu để hiến
thân cuộc đời cho đảng và cho tập thể.
Nhưng trường hợp của Lâm là kết quả ngược lại
điều mong ước của đảng và “bác”. Người thanh niên Cộng sản này chỉ nhìn thấy
thực tế đời sống đói khổ và bỏ mặc những điều đảng và bác dạy dỗ để tự tìm lấy
cho mình một lối sống để tồn tại.
Lý thuyết Cộng sản đã không tồn tại và phát
triển được ở các nước giàu có, và chính những nước mà Cộng sản đã vô sản hóa
người dân như miền Bắc Việt Nam cũng không phát triển được. Nó chỉ tồn tại ở
bên ngoài bởi tổ chức và bạo lực áp bức, còn bên trong nó bị chính con người nó
đào tạo ra từ khước.
Trường hợp chú Bình, trường hợp Nghĩa, trường
hợp Lâm, những đảng viên Cộng sản đã nói lên tất cả cái phi lý của chế độ Cộng
sản, sự gượng ép của những con người nhân danh cách mạng đem nó về áp đặt lên
trên đầu dân chúng, và nó đang bị từ khước. Trường hợp của Huệ Nhật, của những
nông dân vùng Minh Long mà tôi đã sống chung, cũng như hầu hết những người nông
dân Việt Nam trước ủng hộ kháng chiến, nay chống đối xã hội chủ nghĩa, cho thấy
việc xây dựng xã hội chủ nghĩa là không cần thiết và đi ngược lại lịch sử và
quyền lợi dân tộc.
Như vậy, chế độ Cộng sản không thể tồn tại lâu
dài ở Việt Nam, nó không phải là bất khả thay thế hay bất khả đánh đổ như những
người trí thức ở Hội Trí Thức Yêu Nước lý luận.
Nó sẽ bị đánh đổ, nhưng muốn đánh đổ một chính
quyền có sức mạnh bạo lực và có tổ chức chặt chẽ là một vấn đề rất khó khăn và
đòi hỏi thời gian, không phải một sớm một chiều mà làm được như nhiều người
mong muốn.
Tôi nhận ra Đoàn Viết Hoạt nhờ giọng nói trầm
ấm và mạnh của anh. Ở phòng xà lim số 16, anh là người thường xuyên an ủi những
người mới vào, và hay kể chuyện vui mỗi chiều sau giờ điểm báo. Nghe giọng nói,
tôi tưởng tượng anh là một đại hán cao, to, râu quai nón kiểu Kiều Phong. Nhưng
khi gặp nhận ra thì chỉ đúng là anh có bộ râu quai nón đẹp, nhưng người tầm
thước như tôi và thân thể nở nang hơn tôi chút đỉnh. Anh là Phó Viện Trưởng
Viện Đại Học Vạn Hạnh, sau 1975 sinh viên tố cáo anh thường ngăn cản các phong
trào tranh đấu, nhưng khi làm việc ở Sở Công An thì công an chỉ truy anh về tổ
chức đảng Duy Dân. Đặc điểm về thủ tục bắt bớ hỏi cung và truy tố người của chế
độ Cộng sản ở chỗ đó. Vì là một chính quyền vô sản chuyên chính nên chúng khẳng
định mọi người ở giai cấp khác là có tội, là phản động, ngay cả danh nhân lịch
sử sống cách vài trăm năm trước cũng có thể bị ghép tội phản động. Nên khi
chúng bắt, tội danh được ghi chỉ là cái cớ, còn khi hỏi cung và sau đó ghép tội
thì tùy tiện, truy tố tội này không đủ yếu tố thì chấp pháp tìm ra tội khác,
người nào bị bắt cũng phải có tội.
Suốt thời gian tôi ở trại giam, tôi lưu ý thấy
Cộng sản đặc biệt lưu tâm tìm kiếm những người thuộc đảng Duy Dân. Một phần các
đảng phái chính trị khác có hoạt động công khai đã đi trình diện tập trung cải
tạo hết - chỉ có đảng Duy Dân trước năm 1975 vẫn không hoạt động công khai nên
không đi trình diện. Vả lại công an Cộng sản cũng thấy một số lớn tổ chức đối
kháng sau ngày miền Nam sụp đổ đều có dính dáng ít nhiều đến đảng viên Duy Dân.
Ngoài ra, trong vấn đề trị an, Cộng sản phải tìm ra tung tích và tiêu diệt hay
vô hiệu hóa tất cả thành phần đối kháng và Cộng sản rất kỵ những hình thức bí
mật mà chúng không biết. Do đó, trong quốc gia Cộng sản, có xử cả tội danh
“tình nghi”, nhiều khi tội danh chống chế độ bị xử còn nhẹ hơn là tội danh
“tình nghi chống chế độ” hay “tình nghi phản động”. Hoạt và số người có liên hệ
đến đảng Duy Dân đã bị giữ mãi tại các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hòa hơn 12
năm không phải đi lao động cải tạo vì nhu cầu hỏi cung của chúng. Mới quen
nhưng chúng tôi dễ hợp nhau, một phần vì cùng trang lứa và cùng có những ưu tư
khắc khoải về xã hội và tương lai đất nước. Khác với những người tù khác thường
hay bày tỏ tham vọng cá nhân quá đáng và trông chờ quá nhiều vào giả thuyết Mỹ
trở lại Việt Nam để họ có cơ hội tham gia chính trị. Hoạt thường có những ý
kiến và sự quan tâm sâu sắc về dân tộc Việt Nam, về tương lai xây dựng một xã
hội dựa trên tính dân tộc sau khi Cộng sản sụp đổ. Anh từng đi du học và đậu
bằng Ph. D., anh đã phân tích được cái ưu điểm của xã hội Mỹ và khuyết điểm của
xã hội đó. Cái ưu điểm là tính tổ chức, tinh thần dân chủ, nhân bản và trình độ
kỹ thuật. Sự tôn trọng vật chất và thiếu tình cảm một cách quá đáng của xã hội
Mỹ được Hoạt gọi là “siêu Cộng sản”. Là nhà giáo dục, anh thấy được nền giáo
dục khai phóng con người đề cao tính tự lập và độc lập, nhưng đi quá nó sẽ đưa
con người ra khỏi gia đình, sự buông thả xác thịt và tôn thờ cảm giác đã làm
con người xuống hàng thú vật, hôn nhân không từ động lực tình yêu mà từ sự hòa
hợp xác thịt và nhu cầu vật chất. Anh nghĩ đến một giai đoạn khủng hoảng về sự
thiếu giá trị tinh thần của xã hội Mỹ nói riêng và Tây phương nói chung, về sau
này Việt Nam không thể bắt chước hoàn toàn mô thức phát triển của họ sau khi đã
đánh đổ chế độ Cộng sản. Anh cũng trình bày những quan niệm về dân tộc nhân bản
và kinh tế bình sản là những chủ điểm của thuyết Duy Dân cho tôi biết.
Đành rằng Hoạt chưa nói lên được phương thức tổ
chức đánh đổ chế độ Cộng sản đương quyền - anh chỉ nói lên sự cần thiết phải có
tổ chức đối kháng dựa vào sức mạnh của toàn dân với tinh thần dân tộc nhân bản
là chính, không thể trông chờ hoàn toàn vào Mỹ sẽ trở lại lật đổ chế độ Cộng
sản.
Hoạt và tôi đã nhận thấy một số khiếm khuyết từ
các anh em tù trong các lực lượng phục quốc. Anh em đa số là sinh viên học
sinh, một số có cha anh đi cải tạo, căm thù, uất ức và nhạy bén nhận định được
chế độ Cộng sản là phản lại quyền lợi dân tộc. Từ đó, các em rất tích cực tham
gia các mặt trận phục quốc khi được các bạn bè móc nối. Tổ chức thật cũng có,
mà tổ chức giả do Sở Công An Thành Phố của Mai Chí Thọ đưa ra để bắt người đối
kháng cũng có.
Các lãnh tụ tổ chức đối kháng thường thì chưa
có hoạt động cụ thể kể cả việc truyền bá chính cương và sách lược đấu tranh,
chưa có tài liệu học tập thì đã bị phá vỡ. Đa số các em bị bắt đều chưa hiểu ít
nhiều về lập trường chống Cộng sản của mình ngoài sự căm thù - các em chưa được
lý luận một cách tương đối lý do tại sao mình chống Cộng và chống Cộng để xây
dựng cái gì cho đất nước. Tôi đề nghị cùng Hoạt giúp các em một ít hiểu biết
căn bản về những điều cần thiết đó, nếu em nào thấy cần. Chúng tôi phân công:
Hoạt đem luận cứ chính trị của triết học Duy Dân, còn tôi cố chứng minh những
luận cứ sai lầm của thuyết Cộng sản, sự lạm dụng lịch sử để nhập cảng chiến
tranh ý thức hệ che dấu dưới chiêu bài giải phóng dân tộc.
Dân tộc Việt Nam tồn tại được nhờ vào ý thức
độc lập.
Hơn một ngàn năm lệ thuộc Trung Hoa không bị
đồng hóa. Gần một trăm năm Pháp thuộc; thời gian nào cũng có những cuộc khởi
nghĩa để đánh ngoại xâm. Sau Đệ Nhị Thế Chiến là thời cơ thuận tiện để các nước
bị đô hộ giành lại độc lập. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã nắm được cơ hội
lịch sử đó, thêm thủ đoạn lường gạt, bắt tay với thực dân Pháp loại bỏ tất cả
những thành phần Quốc gia mà Cộng sản xem là nội thù cần phải triệt tiêu trước.
Lénine đã viết rất rõ ràng về sách lược của
cách mạng: để lật đổ Sa Hoàng, Lénine vận động cuộc Cách Mạng Dân Chủ Tư Sản
trước để đoàn kết tất cả khuynh hướng chính trị đối lập với triều đình Sa Hoàng
chuyên chế, phù hợp với nguyện vọng đòi hỏi dân chủ của toàn dân Nga. Sau khi
Nga Hoàng bị tiêu diệt, đảng Bolchevik là lực lượng có tổ chức và lãnh đạo chặt
chẽ nhất trong phong trào lần lượt loại trừ các tổ chức chính trị khác để độc
quyền cai trị nước Nga, sát nhập các thuộc địa cũ của đế quốc Nga để thành lập
Liên Bang Sô Viết.
Đối với các
nước thuộc địa, cuộc Cách Mạng Dân Chủ Tư Sản được đổi thành Cách Mạng Giải
Phóng Dân Tộc. Lénine định nghĩa thế nào là đồng minh giai đoạn, thế nào là
bạn, thế nào là thù, kẻ thù nào là kẻ thù chính và kẻ nào là kẻ nội thù. Hồ Chí
Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ làm theo đúng sách vở kinh điển chỉ dẫn.
Để giải giới quân đội
Nhật trên toàn Đông Dương, Đồng Minh đã quyết định giao cho Trung Hoa Quốc Gia
và Anh Quốc phụ trách tiếp thu hai miền Bắc và Nam vĩ tuyến 16. Miền Nam, Anh
Quốc đã đem quân Pháp vào với âm mưu tái chiếm thuộc địa. Miền Bắc, những tổ
chức Cách Mạng Quốc Gia dựa vào quân đội Trung Hoa để nắm chính quyền. Hồ Chí
Minh và đảng Cộng sản đã nhận định đúng kẻ thù nào cần tiêu diệt trước. Pháp là
kẻ thù chung của toàn dân, cần thời gian lâu dài; các tổ chức chính trị quốc
gia được xem như kẻ nội thù cần tiêu diệt ngay để độc quyền lãnh đạo cách mạng
giải phóng. Hồ Chí Minh đã quyết định nhanh chóng và dứt khoát. Ở miền Bắc dùng
tiền của nhân dân đóng góp trong chiến dịch Tuần Lễ Vàng để mua chuộc hối lộ
các tướng lãnh Trung Hoa Quốc Dân Đảng để họ bỏ rơi các lãnh đạo chính trị Quốc
gia, mặc tình để cho đảng Cộng Sản Việt Nam tiêu diệt. Đối với Pháp, Hồ Chí
Minh đã hạ mình làm một hành động đê tiện, ban đêm đến nhà của Bộ Trưởng thuộc
địa Pháp Marius Moutet để xin ký Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 nhận
cho Pháp trở lại Việt Nam. Marius Moutet ký hiệp định với Hồ Chí Minh ngay tại
nhà y khi mặc áo ngủ. Về đến Hà Nội, Hồ Chí Minh còn thỏa mãn đòi hỏi của Tướng
Le Clerc, đón tiếp y tại Hà Nội. Le Clerc muốn kiều dân Pháp tại Hà Nội và
chính quyền Cộng sản phải treo cờ Pháp đón y, Hồ Chí Minh cũng bằng lòng. Nhưng
đối với dân Việt Nam, nhất là dân thủ đô Hà Nội thì phải giải thích làm sao khi
treo cờ tam tài sau khi đã tuyên bố độc lập? Ngày sinh nhật Hồ Chí Minh 19-5
khai sinh trong dịp đó. Ngày 19-5 Le Clerc đến Hà Nội, dân Hà Nội được lịnh
treo cờ đỏ sao vàng mừng sinh nhật Hồ Chủ Tịch, trong rừng cờ đỏ sao vàng, kiều
dân Pháp và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng treo cờ tam tài trên đoạn
đường Cao Ủy Pháp đi qua - ai mà biết được. Một mưu kế vặt giải quyết được mọi
đòi hỏi của tình thế. Cứu cánh biện minh cho phương tiện, phương tiện dù tàn
ác, đê hèn đến đâu miễn sao đạt được mục đích. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã
đạt được mục đích nhất thời, rảnh tay với Pháp, tiêu diệt đối lập, mua chuộc
quân đội Trung Hoa Quốc Gia rút về nước. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản trở thành
độc tôn hiệu triệu toàn dân chống Pháp.
Đánh ngoại xâm giành độc lập dân tộc, chính
nghĩa sáng ngời - toàn dân Việt Nam nô nức theo “bác Hồ” đi kháng chiến, không
ai nghĩ đến cái tổ chức cốt lõi của bác Hồ là đảng viên Cộng Sản Quốc Tế. Bác
và đảng đang thi hành nhiệm vụ của đảng Cộng Sản Quốc Tế do Liên Sô lãnh đạo
trong âm mưu xích hóa toàn cầu.
Nhiều người yêu nước theo kháng chiến, đem hết
khả năng tưởng phục vụ dân tộc, trong khi đó, đảng Cộng sản lần hồi kiện toàn
tổ chức, đối với những thành phần tư sản, trí thức tiểu tư sản không thể kết
nạp đảng hoặc không chấp nhận đảng, không đầu hàng giai cấp thì hoặc bị tiêu
diệt hoặc bị loại dần ra khỏi tổ chức. Chiến tranh Pháp-Việt đã diễn ra và tạm
thời phân định chiến tuyến rõ rệt, quân đội thực dân Pháp chiếm các thành thị,
quân kháng chiến chiếm các vùng rừng núi và nông thôn. Người quốc gia chân
chính không có chỗ đứng, không thể tiếp tục chiến đấu trong hàng ngũ Cộng sản,
bỏ về thành thì bị xem như một hình thức bỏ cuộc, nếu hoạt động bên cạnh người
Pháp thì bị xem như là Việt gian. Người quốc gia ngậm đắng nuốt cay, không đảm
nhiệm được vai trò lịch sử dân tộc. Trong khi đó, vì nhu cầu cai trị và âm mưu
tái chiếm thuộc địa, thực dân Pháp xây dựng nên đám Việt gian tay chân trong
chính quyền bù nhìn Bảo Đại, những tên đại Việt gian như Nguyễn Văn Xuân, Trần
Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Nguyễn Văn Hinh và một số Việt gian ở cơ
sở khác dựa vào thế lực quan thầy Pháp để tiếp tục sách nhiễu nhân dân.
Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền của
người Quốc gia đầu tiên độc lập với thực dân Pháp. Mặc dầu cũng được Hoa Kỳ ủng
hộ thành lập nên nhưng sự tương quan giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa không
phải là tương quan đế quốc và thuộc địa. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, không phải chỉ
miền Nam mới có tương quan với Hoa Kỳ mà nhiều nước nằm trong trường hợp đó.
Phi Luật Tân, Đại Hàn, Nhật Bản và ngay cả Tây Âu cũng có tương quan chặt chẽ
với Hoa Kỳ, và trong mối tương quan đó phải chấp nhận một số những ràng buộc.
Phía Cộng sản phê phán mối tương quan đó, gọi Hoa Kỳ là đế quốc. Nhưng ngày nay
lịch sử thế giới đã chứng minh rằng Tây Âu, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Đại Hàn đều
là những quốc gia độc lập và tiến bộ. Là chính quyền của người Quốc gia, nhưng
không thực sự do chính tổ chức mình lập nên mà phải nhờ vào bàn tay của người
Mỹ, đó là nhược điểm đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Hòa. Vì không có đủ cán bộ, phải
sử dụng quá nhiều những tay chân của thực dân Pháp trong chính quyền và quân
đội nên đối với quần chúng nhân dân, chính quyền không có bộ mặt mới mẻ, dễ bị
lẫn lộn. Dân Việt Nam có tính bài ngoại cao nên dễ nghi ngờ và lầm lẫn.
Khuyết điểm nữa là thay vì nắm cơ hội đoàn kết
những người Quốc gia yêu nước chống Cộng, Đệ Nhất Cộng Hòa cũng học bài học độc
tài độc tôn của Cộng sản, tiêu diệt các thành phần Quốc gia để độc quyền chống
Cộng sản, nên tự mình biến thành một chính quyền cô lập, một lúc phải chống hai
kẻ thù, kẻ thù chính là Cộng sản và kẻ thù bên trong là tổ chức chính trị và
tôn giáo bị loại bỏ. Về phương diện tư tưởng, Đệ Nhất Cộng Hòa vì muốn xây dựng
và truyền bá lý thuyết Cần Lao Nhân Vị, tư tưởng Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa
Giáo đã du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16 qua thời gian lịch sử đã trở thành
một luồng tư tưởng và một thành phần văn hóa của dân tộc, cùng với ba tư tưởng
chính Nho, Thích, Lão đã ăn sâu vào nếp sống và lề lối suy nghĩ của người Việt
Nam.
Tính công bằng và bác ái trong tư tưởng Thiên
Chúa Giáo không ngược lại tâm hồn và nếp suy tưởng của người Việt. Ngày nay văn
hóa và tư tưởng của người Việt Nam là kết quả của những sự hội nhập hài hòa của
bốn nguồn tư tưởng Nho, Thích, Lão và Ki Tô. Do đó, nếu một thế lực nào và một
cá nhân nào chủ trương độc tôn tư tưởng hoặc xây dựng một quốc gia đều không
phù hợp với sự tiến hóa của lịch sử dân tộc. Một khuyết điểm trầm trọng của
chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa là có nhiều người chủ trương độc tôn tư tưởng,
biến Thiên Chúa Giáo thành quốc giáo trong khi tín đồ Thiên Chúa Giáo chỉ là
một thành phần trong cộng đồng dân tộc. Độc tài chính trị và độc tôn tư tưởng
không phù hợp với thời đại ngày hôm nay.
Những khuyết điểm của miền Nam nói trên bị Cộng
sản lợi dụng tuyên truyền, đào sâu chia rẽ trong dân chúng, để cô lập chính
quyền Quốc gia còn non trẻ. Cộng sản tuyên truyền đồng hóa sự viện trợ Mỹ với
hình ảnh thực dân Pháp, đồng hóa chính quyền Quốc gia với chính quyền Việt gian
tay sai, đồng hóa quân đội Việt Nam Cộng Hòa với quân đội thuộc địa. Từ đó, họ
dần dần nắm ưu thế. Đến khi người Mỹ đưa quân ào ạt vào Việt Nam, tuy tạo cho
miền Nam một sức mạnh về quân sự nhưng lại trở thành thế yếu về chính trị. Bắc
Việt nắm được thời cơ tuyên truyền Mỹ xâm lăng, họ đạt được thắng lợi về chính
trị, kích động dân Việt Nam hai miền Nam Bắc chống ngoại xâm và trong mặt trận
ngoại giao họ hoàn toàn nắm ưu thế. Họ còn dùng tuyên truyền đánh thẳng vào
lương tâm của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới, cuối cùng họ đã thắng về quân
sự.
Tại miền Nam, qua thời gian và qua chiến đấu đã
hình thành được một lớp người có khả năng, yêu nước, chống Cộng sản, nhưng lớp
người này chưa thực sự lãnh đạo, đa số những người lãnh đạo và kẻ chỉ huy cao
cấp của chính quyền Đệ Nhị Cộng Hòa vẫn thoát ra từ thành phần Việt gian, tay
sai Pháp cũ hoặc một số trí thức vong bản, làm việc chỉ biết tìm lợi ích cho
bản thân cá nhân do nếp sống văn hóa chuộng vật chất, thái độ phi chính trị,
kém ý thức trách nhiệm đối với xã hội mà họ hấp thụ được do thời gian du học ở
ngoại quốc, họ từng sống trong một xã hội dân chủ trưởng thành trong đó cá nhân
chỉ biết luật pháp và hạnh phúc cá nhân. Một nếp sống, một lối suy tưởng không
phù hợp với văn hóa Việt Nam. Con người Việt Nam coi trọng tình cảm giữa con
người với nhau và với quê hương dân tộc.
Văn hóa Việt Nam, nhu cầu của lịch sử Việt Nam
luôn luôn đòi hỏi ở người trí thức phải có trách nhiệm, có ý thức về sự hướng
dẫn và xây dựng xã hội. Người trí thức phải có ý thức chính trị, không phải cần
tham gia vào tổ chức chính trị, nhưng phải biết suy nghĩ và đo lường hành động
và thái độ sống như thế nào để góp phần xây dựng một đất nước tiến bộ về cả hai
phương diện tinh thần và vật chất. Người trí thức Việt Nam không phải là người
chỉ biết chuyên môn, hiểu luật pháp và tìm cách len lỏi vào khe hở của luật
pháp để tìm cái lợi vật chất cho bản thân.
Miền Nam Việt Nam đã sụp đổ, người quốc gia lại
thua Cộng sản một lần nữa, thua tan tác, kẻ bôn đào lưu vong, người ngậm hờn
nuốt nhục trong các trại tù.
Giờ đây, Cộng sản lộ nguyên hình, họ đã chiếm
xong miền Nam, lớp áo dân tộc đã được cởi ra. Đại Hội IV đã đổi tên đất nước
giống như mẫu quốc Liên Sô, xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực thi đấu tranh giai
cấp. Đã chấp nhận là một thành viên của khối đệ tam quốc tế thì phải nhận Liên
Sô là người lãnh đạo, là đất thánh, và phải thực hiện chuyên chính vô sản, đấu
tranh giai cấp, tiêu diệt tất cả thành phần đối lập, không kể tội lỗi do hành
động mà tội lỗi được qui định là do thành phần giai cấp, do tư tưởng của giai
cấp xã hội.
Cộng sản lại áp đật trên dân tộc Việt Nam một
chủ thuyết độc tôn, một chính quyền độc tài. Đi xa hơn, họ sử dụng bạo lực để
truyền bá một tôn giáo mới xây dựng trên hận thù - dùng hận thù làm động lực
đấu tranh. Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi đầu bằng phong trào đấu tranh giành độc
lập, nhưng khi họ nắm chính quyền họ lại đưa dân tộc vào con đường nô lệ hóa,
sự nô lệ tư tưởng, sự lệ thuộc ràng buộc vào Liên Sô mọi phương diện, bị Liên
Sô khai thác bóc lột người, tài nguyên, trước tiên là để trả nợ súng đạn đã vay
trong thời chinh chiến. Sự nô lệ đó được giải thích dưới những từ ngữ đẹp đẽ là
“sự hợp tác toàn diện với nước xã hội chủ nghĩa anh em Liên Sô”.
Xã hội Việt Nam không có giai cấp tính, mọi sự
thăng tiến trong xã hội Việt Nam là do sự làm việc và cố gắng của mỗi cá nhân.
Việt Nam không có chế độ gia tộc như ở Trung Quốc. Căn bản tổ chức xã hội Việt
Nam là gia đình và xã thôn tương đối dân chủ và bình đẳng với mọi người.
Người Việt Nam không xây dựng một triết lý
riêng biệt, tư tưởng Việt Nam hài hòa và chiết trung mọi tư tưởng văn hóa du
nhập đến Việt Nam: Nho, Thích, Lão, Ki Tô, không có mâu thuẫn tư tưởng, không
có mâu thuẫn đối kháng. Do đó, những luận cứ của chủ nghĩa Cộng sản đều không
phù hợp với trường hợp Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam trong nhất thời mạnh về
tổ chức trong khi người Quốc gia đang tan vỡ. Nhưng dân chúng Việt Nam đang từ
khước chủ thuyết Cộng sản vì nó không phù hợp. Vậy chế độ Cộng sản không thể
nào tồn tại và phát triển ở Việt Nam được. Bằng hình thức này hay hình thức
khác nó sẽ bị đánh bại và bị đào thải.
Hoạt và tôi cố gắng trong điều kiện khó khăn ở
trong tù để trao đổi, tạo cho nhau một niềm tin - vì niềm tin đó rất cần thiết
để vững sống trong những ngày cơ cực kéo dài trong nhà tù Cộng sản. Sau trại
tạm giam, chúng tôi còn phải làm lao động khổ sai ở các trại lao động cải tạo
mà ngày về thì thật xa vời.
Một khi đã khẳng định niềm tin là chế độ Cộng
sản phải sụp đổ, chúng tôi thấy mình phải sống khỏe mạnh cho đến ngày về. Đấu
tranh với bản thân để không bị hủy hoại về tinh thần và thể xác, để giữ được
lòng tự trọng, một thái độ sống cũng là một vấn đề rất gay go của những người
tù chính trị. Phải cố gắng tạo niềm tin và truyền niềm tin cho nhau, nếu không
sẽ bị tha hóa trong môi trường khổ cực này.
Cách thức để có thể nói chuyện trao đổi với
nhau trong phòng giam tránh sự dòm ngó, báo cáo của nhà trưởng và ăng ten là:
trước tiên, chúng tôi phải cố quan sát và nhận định cho đúng người - Thứ đến là
phải có cách để nói chuyện. Chúng tôi bày ra cách học tử vi, bói dịch và xem
chỉ tay. Dĩ nhiên, những điều này đều bị nội qui cấm. Nhưng tất cả các tên ác
ôn, trưởng phòng hay cán bộ Cộng sản thoái hóa đều ở chung với chúng tôi, tên
nào cũng thích bói toán, tên nào cũng lo âu, muốn biết vận mạng của mình ra
sao. Xem bói cho tên nào cũng nói thật tốt, chỉ ra một tương lai tốt đẹp cho
họ, một hy vọng là sắp được ra khỏi tù thì không ai báo cáo, và nếu có bị báo
cáo thì tội bói toán mê tín cũng chỉ bị kỷ luật nhẹ, không bị nâng quan điểm
chính trị. Vốn hiểu biết về tử vi của tôi không bao nhiêu, và tôi cũng không
mấy tin vào tử vi bói toán, chỉ đọc qua một vài cuốn sách để biết khái quát,
những ước định và thuật ngữ để có thể nghe người khác nói chuyện mà hiểu được
họ nói gì.
Thời kỳ trước
1975, tử vi, bói toán rất thịnh hành ở miền Nam, nhất là trong giới cầm quyền
cao cấp. Mỗi lần đi công tác về các tỉnh, sau buổi làm việc ban ngày, buổi tối
các ông Tỉnh thường hay mời cơm tại nhà. Trong khi ăn cơm nói chuyện, chúng tôi
thường muốn biết những vấn đề chính trị tại địa phương, các ông Tỉnh trưởng thì
lại muốn biết những mối quan hệ giữa ông Tổng thống và Thủ tướng ở mức độ nào,
nhất là sau khi có sự mâu thuẫn giữa hai phủ Tổng thống và Thủ tướng, các ông
Tỉnh trưởng lại cần biết rõ hơn mức độ mâu thuẫn để họ dễ đối xử, từ sự tìm
hiểu đó, các ông Tỉnh trưởng xoay qua vấn đề tử vi, họ nói rất trôi chảy số
mạng, vận mạng của lá số 4 tí, cách Tử Phủ Vũ Tướng của ông Thiệu và cách Sát
Phá Liêm Tham của ông Trần Thiện Khiêm. Tử vi, bói toán, dịch lý, địa lý, các
môn người ta gọi là khoa học huyền bí có ảnh hưởng sâu sắc trong giới cầm quyền
cao cấp Nam Việt Nam, nhất là trong giới quân nhân cao cấp.
Một ông Tư Lệnh Quân
Đoàn I, có phu nhân suốt ngày nhận áp phe tại một “điện” đồng bóng, mỗi tối
trước khi mang gia đình và đoàn tùy tùng qua Hải Khu Đà Nẵng tránh pháo kích,
phải tuân lời phu nhân đốt hương lạy tại bàn thờ mẫu. Một ông Đại tá, Thị
trưởng Đà Nẵng, thầy bói toán nói ông ta mạng hỏa nên chỉ hợp với mầu xanh vì
mộc sinh hỏa nên khi sơn quét Tòa Thị Chính, ông ra lệnh phải sơn màu xanh rồi
mới quét màu trắng ra ngoài. Một ông Đại tá Tỉnh trưởng Quảng Ngãi luôn luôn mặc
áo sơ mi màu mỡ gà trong bộ quân phục, vì thầy bói khuyên dùng thổ (màu vàng mỡ
gà) để cho tương sinh với mạng kim của ông.
Một ông Trung Tướng Cục Trưởng được thầy địa lý
xoay cái bàn làm việc hướng ngược vào bên trong xây lưng ra các bàn giấy của
thuộc cấp, ngược lại tất cả quan niệm về quản trị nhân viên và công sở.
Một ông Trung tá tỉnh trưởng Lâm Đồng nghiên
cứu về địa lý nói là Tổng thống Thiệu phát về bản thân thì ít, mà nhờ bà Thiệu
có đất phát đệ nhất phu nhân. Cái mả của ông cụ nội phu nhân ở Phan Thiết trên
giồng đất gần Lầu ông Hoàng kết phát. Chính ông Trung tá tỉnh trưởng đã tìm
được một cuộc đất phát đệ nhất phu nhân ở Lâm Đồng nên đã dời mả bà cụ về cải
táng nơi đó. Không biết về sau có sự linh ứng hay sự ngẫu nhiên nào đó hay là
do sự kém tài địa lý của Trung tá mà cô con gái đi xe Honda bị tai nạn mù một
con mắt. Không thành đệ nhất phu nhân mà thành độc nhãn. Ông Thủ tướng rất ít
đi kinh lý các tỉnh hay đi thăm các đơn vị chiến đấu để khích lệ tinh thần binh
sĩ, họa hoằn mỗi khi đi thì phải ra lệnh cho ông Thành, thư ký ở Bộ Nội Vụ xem
ngày giờ để chọn thời điểm xuất hành cho tốt. Công trường Quốc Tế Quân Viện gọi
là Công Viên Con Rùa, được xây ngoài mục đích, bên ngoài là ghi ơn các nước bạn
đồng minh giúp Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu nhưng bên trong không kém quan trọng
là để chận cái đuôi con rồng hay quậy. Thầy địa lý nói thế đất từ khu Trung Tâm
Sài Gòn đó là một con rồng nằm, đầu rồng ở Dinh Độc Lập, đuôi rồng ở công
trường trước Viện Đại Học Sài Gòn, nơi đây trước thực dân Pháp xây tượng ba
người lính, được dân Sài Gòn gọi là Công Trường Ba Hình, năm 1965, sinh viên
biểu tình chống lời tuyên bố lếu láo của ông De Gaule về Việt Nam, nên đã kéo
sập tượng ba người lính Liên Hiệp Pháp xuống. Thầy địa lý nói từ đó, đuôi con
rồng không có gì chận lại nên nó quậy làm cho Dinh Độc Lập không được yên nên
trong nước hay có những biến động chính trị.
Hôm đặt viên đá đầu tiên xây công trường này,
theo chỉ dẫn của thầy bói, ông Tổng thống cho tổ chức lễ trước năm giờ sáng.
Đích thân ông Tổng thống đến đặt viên đá đầu tiên. Các thầy bói Diễn, thầy Ba
La, thầy Minh Lộc, Đại tá Y trở thành những người nổi tiếng và thực sự có ảnh
hưởng quan trọng đến đời sống chính trị tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Xã
hội Việt Nam đến thời suy thoái, nên xảy ra hiện tượng lạ lùng như vậy, giai
đoạn chính trị thật khó khăn, chiến trường thật khốc liệt, những người lãnh đạo
không bao giờ được nhắc tới như là những người lỗi lạc, can đảm, liêm chính mà
chỉ được nhắc là số tốt, vận tốt. Người chỉ huy không được thuộc cấp kinh nể vì
tài ba mà được kính nể vì tính chịu chơi. Người ta phê phán tham nhũng, nhưng
chỉ có một lần duy nhất một tờ báo đưa ra được hình ảnh bốn tướng sạch để làm
gương - còn thông thường khi nghe nói một người nào “không biết ăn tiền” thì
người ta gọi kẻ đó là ngu.
Tin vào sức mạnh thần quyền trong xã hội loài
người, không dân tộc nào không có, kể cả xã hội cộng sản. Không biết trước kia
dân Việt Nam tin ở mức độ nào nhưng thời đệ nhị Cộng Hòa quá phổ biến. Nguyên
do là vì xã hội thay đổi nhanh quá, nhiều biến cố chính trị để cá nhân thăng
tiến cũng quá nhanh, có quân nhân chỉ trong vòng vài tháng đã thăng cấp từ
Trung tá lên Chuẩn tướng. Chiến tranh mở rộng, Hoa Kỳ đổ vào nhiều tài sản, nên
có sự “rớt rụng” ra bên ngoài, nên những người may mắn làm giàu nhanh quá, từ
tay trắng sớm trở thành tỉ phú. Sự thăng tiến quá nhanh và bất ngờ đó, không
những khiến người ngoài mà ngay cả bản thân người may mắn lên quí, lên phú cũng
không thể tin ở tài ba của mình, mà phải tin vào số mạng. Một người có thể ghi
tên nhập vào trường sĩ quan không có một ước vọng gì cao xa ngay chính cho bản
thân họ, đừng nói là ước vọng làm gì cho tổ quốc, khi ra trường làm việc dưới
quyền của một sĩ quan Pháp. Thấy người Pháp nói tiếng Pháp giỏi hơn, xài muỗng,
nĩa, dao trong bữa ăn thành thạo hơn, biết sử dụng đúng các loại rượu vang
trắng, đỏ hợp với các món cá, món thịt hơn. Thời gian đó họ sống bình lặng, cam
phận, đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Tổng thống và đảng Cần Lao vẫn là cái gì
xa cách, đáng nể, đáng sợ đến cả những anh em của Tổng thống và gọi những anh
em của Tổng thống bằng Cụ và xưng con thì họ vẫn cam phận thủ thường, đến khi
lật đổ chế độ, không còn có sự áp lực đè nặng lên trên, có người trong thời
gian ngắn thăng tiến và có cơ hội nắm chính quyền. Khi nắm quyền Thủ tướng, Tư
lệnh, Tổng Bộ trưởng thì họ gần như ngộp thở, ăn nói bậy bạ, tuyên bố vung vít,
không đúng tác phong như một người từng có ý thức, có hoài bão tranh đấu nắm
chính quyền để phục vụ.
Người ta ngạc nhiên tại sao tình trạng quân
nhân nắm chính quyền tương đối phổ thông trên thế giới, ở những nước khác không
có chiến tranh, hoặc chỉ có chiến tranh nhỏ, mà người quân nhân khi nắm chính
quyền được uy tín. Trái lại tại miền Nam Việt Nam chiến tranh tàn khốc, chiến
thắng lớn nhưng người quân nhân nắm chính quyền không được uy tín. Một nguyên
nhân sâu xa là ý thức và hoài bão khác nhau. Đọc tiểu sử ông Nasser, ông Sadat
lãnh đạo Ai Cập, mới biết họ là một nhóm sinh viên Ai Cập đi học luật khoa ở
Anh Quốc. Ngay lúc còn trẻ tuổi đó, họ đã có ý thức là muốn đấu tranh giành độc
lập cho một nước nhược tiểu phải đấu tranh và lãnh đạo quân sự cho nên họ đã từ
bỏ trường luật để đi vào trường sĩ quan. Khi có cơ hội nắm được quyền hành
chính trị, ông Nasser vẫn là Đại tá, không ham hố vội vã phong cho mình lên
Tướng. Thiếu tướng De Gaule, lập chính phủ Pháp lưu vong chống Đức quốc xã, khi
thành công De Gaule vẫn là Thiếu tướng, nhưng ông là Tổng thống, cha già của
dân tộc Pháp.
Sau đảo chính năm 1963, sau khi lật đổ và giết
chết ông Tổng thống mà trước đó họ gọi Cụ xưng Con, và ông cố vấn mà người ta
sợ đến cả vợ con ông ta, “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” không biết làm gì tiếp
theo ngoài việc tự thăng chức cho mỗi người; bãi bỏ lệnh cấm nhảy đầm, và tuyên
bố bỏ ấp chiến lược. Cả ba quyết định không có gì đáng gọi là cách mạng, kể cả
việc mời ông Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ra lập chính phủ cách mạng. Việc
bãi bỏ ấp chiến lược là một sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và làm sụp đổ
cái ưu thế phòng thủ ở địa phương mà sau này xây dựng trở lại rất khó khăn.
Ý thức trách nhiệm của một người đối với đất
nước, phục vụ cho quê hương dân tộc vô cùng quan trọng vì nó điều hướng việc
học, việc làm của mỗi con người về sau - tài năng bản lãnh không khác nhau
nhiều ở mọi người khi được huấn luyện và từng trải, nhưng khác nhau là cái sâu
sắc ở mỗi con người có ý thức và hoài bão hay không. Chế độ thực dân Pháp nhằm
đào tạo những người tay sai bản xứ trong mọi ngành trong chính quyền, nên chính
sách giáo dục của họ nhằm tiêu diệt ý thức độc lập, tinh thần yêu nước, trong
khi sử dụng người, họ cũng triệt tiêu mọi mầm mống chống đối, họ ưu đãi cho
những người ngoan ngoãn tay sai, nên đời sống chính trị tại miền Nam sau này
ảnh hưởng trầm trọng. Trong mọi địa hạt chính quyền, mọi giới trí thức: bác sĩ,
luật sư đa số là những con người kém ý thức chính trị, nặng tinh thần nô lệ và
đầu óc hưởng thụ vinh thân phì gia - nên đất nước không thể đi lên được, và
miền Nam không trực diện đấu tranh về chính trị với miền Bắc được, trong khi
miền Bắc Cộng Sản còn lợi dụng được ngọn cờ giải phóng dân tộc, họ còn mang
huyền thoại kháng chiến yêu nước và cách mạng xã hội.
Thành phần sĩ quan viên chức trẻ sau này, có
một thời gian ngắn ngủi thái bình, được giáo dục trong tinh thần độc lập, có
được ý thức trách nhiệm và hoài bão đối với dân tộc nhưng một phần bị rơi rớt
khi va chạm khó khăn thực tế, phần còn lại chưa đủ tầm cỡ nắm những nhiệm vụ
then chốt trong chính quyền và quân đội để thi thố hoài bão của mình, trong khi
những gì họ kết tạo được cho chính tim óc, mồ hôi, nước mắt và cả máu - ngược
lại những người đàn anh ra nắm chính quyền chỉ nhờ sự khéo léo hay thời cơ lịch
sử lúc giao thời, thành đạt nhanh chóng và bất ngờ như phép lạ nên họ tin vào
số mạng.
Chúng tôi mong được đóng góp và chia sẻ với
những anh em trẻ bị bắt trong các tổ chức phục quốc. Giúp họ thêm một phần hiểu
biết, cộng với nhiệt tình của tuổi trẻ và lòng căm thù sâu sắc với Cộng sản, để
trước hết là những ngày tù không trở nên vô ích, không bị hủy hoại tinh thần
trí óc bởi sự nhàn rỗi. Thứ nữa, để anh em hiểu biết rằng là tại sao mình chống
Cộng và mình chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước - Lòng căm thù là một
động lực để có hành động chống Cộng, nhưng lòng căm thù chưa đủ, và lòng căm
thù lại càng không thích hợp cho sự xây dựng. Chúng tôi làm như vậy vì nghĩ là
chúng tôi là thành phần sắp bị đào thải. Chúng tôi phải có trách nhiệm với
những thanh niên ở thế hệ sau. ít ra, trước kia hơn một lần, thời mới bước chân
vào đời, chúng tôi đã oán trách là thế hệ đàn anh không để lại cái gì cho chúng
tôi. Sau này, với cái gia tài tan nát của đất nước, các bạn trẻ cũng sẽ có ý
nghĩ là thế hệ chúng tôi không để lại cái gì cho họ ngoài sự thất trận nhục
nhã.
(còn tiếp)
*Mời đọc những phần trước:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét