Chương
Mười Hai
Tôi được ra khỏi xà lim. Thời điểm này ở trại
có nhiều tin đồn sẽ đưa tù nhân cải tạo đi ngoại quốc do kết quả Hội Nghị Quốc
Tế Nhân Quyền Genève năm 1979.
Sau buổi lao động, bạn bè đến mừng, cho thức
ăn để bồi dưỡng. Anh em giữ được tình cảm với nhau, dù ở trong điều kiện khó
khăn về vật chất, anh em vẫn thương người bị giam cầm trong kỷ luật. Bất cứ ai
từ trong xà lim được thả ra, ít nhiều anh em cũng tìm cách giúp đỡ thức ăn và
thuốc men.
Có nhiều anh em quá lạc quan, họ suy đoán
chúng tôi là nhóm đầu tiên được chuyển ra nước ngoài.
Tôi đã được trại trưởng thông báo chuyển trại,
và hắn còn nói rõ là sẽ đưa đến nơi có điều kiện cải tạo hơn, tức là điều kiện
giam giữ và lao động sẽ khắt khe hơn. Tôi nói điều đó nhưng nhiều bạn vẫn không
tin. Họ vẫn đoan chắc là chúng tôi được tống xuất.
Tù thường mơ ước, những ước mơ dựa trên những
tin tức không chính xác được diễn dịch qua sự suy luận chủ quan. Ngày nào trong
tù cũng có tin tức lạ, nhất là sau giờ thăm nuôi. Những tin tức loại “xịn” đó
được chế đi chế lại qua nhiều người. Thăm gặp gia đình vào, đem biếu thức ăn
cũng không quý bằng đưa ra một “hot news”. Nếu không có “hot news” không chừng
bị anh em nóng tính mắng là người nhà chỉ biết lo ăn không lo nghe tin của đài
BBC. Tin tức phải được xác nhận do đài BBC loan mới được xem là có giá trị cao.
Người loan tin xịn được tù quí trọng. Tù mặc tình chế tạo tin, tin nào cũng xác
nhận hoặc là sắp sửa được Mỹ rước, hoặc tin quân sự như các địa điểm chiến lược,
hay rừng núi đều được quân ta ở trong rừng chiếm gần hết, những tên Nguyễn Cao
Kỳ, Bùi Thế Lân, Ngô Quang Trưởng được nhắc đến hàng ngày. Không phải tù hoàn
toàn tin vào những tin tức sốt dẻo đó, họ thích nghe thì đúng hơn, vì những tin
đó hợp với sự mong đợi của họ hơn là những loại tin tức tuy hợp lý nhưng ngược
lại, và khó nuốt như tin tức về việc gia hạn tập trung cải tạo, hoặc có người
nào dám nói là không có lực lượng quân đội trong rừng sẽ gặp phản ứng dữ dội, bị
buộc tội đâm sau lưng chiến sĩ, làm nản lòng anh em hay tay sai cho Cộng sản.
Quần quật làm lao động, nghe và bình luận “hot news”, ăn khoai mì, hút thuốc
lào, kể và nghe chuyện kiếm hiệp, đa số tù nhân bị hủy hoại từ thể xác đến tinh
thần trong đời sống hàng ngày ở trại cải tạo như vậy. Có nhiều người cần những
loại tin tức lạc quan giúp họ sống và hy vọng như một loại thuốc ngủ để cho người
bịnh an tâm ngủ quên khỏi sợ hãi cơn bịnh trầm kha trong đêm dài vô tận.
Tôi quí những anh em trẻ trong nhóm Phố vì
họ biết dùng thì giờ rảnh rỗi thật hiếm ở trong tù để tìm hiểu học hỏi thêm, biết
hướng sự suy nghĩ để phân tích những đề tài ích lợi, làm cho đầu óc sắc bén và
phong phú thêm, không hủy hoại bởi những trăn trở vô ích. Xa họ tôi rất buồn đồng
thời cũng mừng cho họ, vì không ai phải chuyển trại cùng với tôi lần này. Dù khổ
cực đến đâu các trại ở Saigon cũng đỡ hơn vì gần gia đình, có thể thăm gặp đều
đặn. Mỗi lần có chuyển trại xa về hướng Bắc chừng nào càng khổ chừng đó.
Khoảng 4 giờ sáng ngày 5-9-79 chúng tôi bị
đánh thức chuẩn bị rời trại, nghị sĩ Phan Thông nhờ bị thương từ trước, đi đứng
khó khăn được cho ở lại cùng với hai người có án 18 năm được xem là án nhẹ. Tổng
số bị chuyển tròn 30 người, 8 người có án từ 20 năm đến chung thân. Trong 22
người tập trung cải tạo chỉ có anh Tăng Ngọc Hiếu là sĩ quan trình diện - còn
21 người còn lại thuộc thành phần bị bắt.
Chiếc xe vận tải bít bùng không cho phép
chúng tôi nhìn ra bên ngoài, nhưng chúng tôi cũng biết đến ngã ba ông Đồn xe rẽ
trái, xe di chuyển về hướng Bắc, rõ ràng đã làm tiêu tan hy vọng của người “lạc
quan tếu” nhất là anh Nguyễn Văn Hiếu. Đến lúc được còng tay đẩy lên xe, anh Hiếu
vẫn thầm thì nói với người đồng còng là về Saigon để lên máy bay ra ngoại quốc.
Quốc lộ 1 đã hư hỏng nhiều nên xe di chuyển
thật chậm. Mới hơn 4 năm, hệ thống giao thông đã lùi lại bằng thời kỳ những năm
50. Quá trưa xe tạm dừng nghỉ ven quốc lộ nơi đồng vắng ngoài tỉnh lỵ Phan
Rang. Mỗi lần di chuyển tù bọn công an vũ trang bảo vệ rất chặt chẽ, chúng nói
là sợ dân chúng phẫn nộ hành hung tù nhân. Anh em từ các tỉnh miền Tây kể lại họ
di chuyển bằng xe đò, cứ mỗi lần dừng nghỉ ở thành phố hay vùng đông dân, đồng
bào thấy tù chuyển trại, họ không phẫn nộ, trái lại còn ném thức ăn, trái cây
hay tất cả những gì họ đang có lên xe cho tù. Để tránh tình trạng đó, nên chúng
tôi được ngồi xe thùng kín mít và khi dừng nghỉ ăn trưa ở nơi đồng trống.
Buổi chiều xe nghỉ
lần thứ hai tại dốc quận Tuy An tỉnh Phú Yên, để chúng tôi ăn nốt phần cơm còn
lại. Đầm Ô Loan vẫn đẹp, nước xanh biếc in rõ bầu trời cao, lác đác vài cụm mây
mỏng bồng bềnh di chuyển chậm chạp. Từ Phú Yên trở vào là vùng khí hậu khô và
ít mưa, tháng chín vẫn còn là mùa nắng. Mười bốn năm trước tôi làm ở quận Đồng
Xuân, gặp thời kỳ chiến tranh gia tăng ác liệt, nhiều vùng bị Việt Cộng tạm chiếm,
quốc lộ di chuyển không an toàn, từ Tuy Hòa về quận phải đi bằng trực thăng, mỗi
lần trực thăng từ bờ biển rẽ trái bay qua đầm Ô Loan tôi nhoài người để nhìn ngắm
khắp cái cảnh đẹp bên dưới và mong có ngày hết chiến tranh trở lại sống nơi đây
một thời gian để những lúc rảnh rỗi bơi thuyền khắp vũng đầm thỏa thích.
Chiến tranh đã kết
thúc, nhưng tôi đã ghé lại đây trong hoàn cảnh của người tù. Ngước nhìn về
phương Nam, núi Vọng Phu ẩn hiện mờ nhạt, chạnh lòng nhớ vợ con ở nhà, mỗi lần
di chuyển càng xa gia đình hơn, biết có bao giờ được trở về, vừa thương gia
đình, vừa thấy mình có lỗi. Tôi đã không làm trọn vẹn trách nhiệm của người chủ
gia đình, một quyết định sai lầm bao nhiêu người phải khổ lụy theo. Hơn 5 tháng
bị giam trong xà lim kỷ luật, vợ con tôi tháng nào cũng lên trại để xin gởi quà
thăm gặp nhưng đều bị từ chối, hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, tôi không biết là vợ
con tôi còn có thể chịu đựng được bao lâu nữa với cuộc sống càng ngày càng bị
thắt chặt lại.
Chỉ có một ngày ăn di chuyển, buổi tối
chúng tôi đến trại Xuân Phước. Đó là
một trại ở vùng nước độc chuyên giam giữ tù hình sự. Ở tù chung với tù hình sự
là một điều không may mắn, một thành phần quá ô hợp và phức tạp, đa số chỉ sống
theo bản năng, mặt khác cán bộ coi tù hình sự quen thói xử tàn bạo hơn là đối với
tù chính trị.
Chúng tôi được “chào đón” tận tình ở trại,
chỉ có 30 người tù được hơn một chục cán bộ xét kiểm đồ vật trước khi nhập trại,
thuốc men, thức ăn đều bị tịch thu. Cán bộ giải thích, ở trại tổ chức ăn uống tập
thể, không phân chia vì phân chia thức ăn là vết tích của tư sản, nặng đầu óc
tư hữu và trại sẽ lo cho “đầy đủ”. Vấn đề gia đình thăm gặp, thời gian đầu tạm
ngưng, trại sẽ cứu xét tùy thái độ chấp hành cải tạo.
Về ở trong phòng mới xây bằng gạch kiên cố
còn nồng mùi vôi mới quét. Đầu hôm hơi rừng đã tràn về lạnh ngắt qua những cửa
sổ chắn song sắt trống trơn để cán bộ đi bên ngoài có thể kiểm soát được bên
trong. Tiếp xúc lần đầu với cán bộ trại, ai nấy đều lo âu, bởi ai cũng hiểu là
sự hứa hẹn lo đầy đủ nó sẽ như thế nào, không được gia đình tiếp tế thuốc men
và thức ăn không biết sẽ ra sao. Nằm bên cạnh tôi là hai ông Võ Văn Hải và Lý
Thành Cầu trằn trọc và thở dài suốt đêm, tội nghiệp hai người đã trên 60 tuổi.
Tôi nhớ đầu năm 1978 ông Hải vẫn còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, làm lao động không
thua một thanh niên, chỉ mới hơn một năm đã tiều tụy hẳn, nhất là cặp mắt không
còn tinh anh. Muốn an ủi hai người, nhưng nghĩ là quá khách sáo nên thôi, vì bản
thân tôi âu lo không kém. Còn trẻ nên tôi không để lộ ra và dễ dỗ giấc ngủ hơn.
Ông Võ Văn Hải là con một người bạn đồng liêu của ông Ngô Đình Diệm. Thời gian
ông Diệm ở Mỹ, ông Hải ở Pháp học tốt nghiệp trường kinh tế - trở về nước cùng
với ông Ngô Đình Diệm từ ngày đầu tiên ông được kể như là một người thân tín nhất
của ông Diệm ngoài những người anh em trong gia đình. Sau khi chế độ Ngô Đình
Diệm sụp đổ, ông Hải lúc đó là chánh văn phòng Tổng Thống, không hề bị làm khó
dễ cũng như không bị chê trách đủ nói lên đức tính của ông. Sống cạnh ông Hải từ
ngày đầu tiên ở trại lao động cải tạo, cho đến khi ông chết năm 1983, tôi biết
rõ những tính tốt của ông. Biết thương và chia xẻ của riêng cho những bạn tù nghèo
khó là điều tôi ít tìm thấy trong những người lớn tuổi và từng giữ chức vụ quan
trọng ở chế độ cũ, đa số đều ích kỷ. Hài hòa với mọi người nhưng khắc kỷ với bản
thân và nghiêm khắc với thân nhân trong gia đình là bản tính của ông.
Đây là lần thứ hai tôi thấy ông Võ Văn Hải
mất tinh thần. Lần đầu ông hơi mất tinh thần khi đọc xong truyện trinh thám
“X-30 phá lưới” của một nhà văn Cộng sản trong đó nhân vật Võ Văn Hải được mô tả
như là một người chống Cộng sản mạnh mẽ nhất trong những người thân cận của Tổng
Thống Diệm.
Ông Lý Thành Cầu là người thứ hai tôi hết
lòng yêu mến trong những người đi cùng đến trại Xuân Lộc. Chuyến đi này cũng có
ông, dù là trong một năm rưỡi ở trại, ông Lý Thành Cầu không vi phạm điều gì.
Trường hợp ông Lý chứng tỏ sự trả thù dai dẳng của Cộng sản. Ông Lý là Đại tá của
quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa, được cử theo cụ Nguyễn Hải Thần về Việt Nam,
ông Lý biết rất rõ từng nhân vật cũng như biến chuyển nhanh chóng của lịch sử
Việt Nam trong những ngày tháng trước và sau ngày Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập.
Sau khi cụ Nguyễn Hải Thần thất bại, ông Lý trở về Trung Hoa thời gian ngắn, rồi
trở lại Hải Phòng nơi ông được sinh và lớn lên trước khi về học ở đại học Bắc
Kinh. Từ khi di cư vào Saigon ông Lý lấy vợ Việt Nam và lập xưởng làm nước
tương, không còn tham gia hoạt động chính trị. Sau khi miền Nam sụp đổ ông Lý bị
Việt Cộng bắt nhốt từ những ngày đầu tiên.
Ông Lý hiểu rõ phong tục tập quán của người
Việt, ông thuộc rất nhiều thơ văn Việt Nam, lúc đầu gặp ông Lý tôi đã có cảm
tình khi nghe ông đọc nhiều đoạn thơ trong Chinh Phụ Ngâm cũng như thơ Kiều. Học
lịch sử Việt Nam, nhớ lại một ngàn năm đất nước bị Trung Hoa đô hộ, từ nhỏ tôi
vốn không thích người Tàu, nhất là những người tài phú thương mãi. Từ ngày gặp
một số người Hoa có trình độ học vấn cao như ông Lầu, một nhà báo Đài Loan, Trần
Tỷ một nhà tư sản, Trương Dĩ Nhiên, nhà tư sản, ông Lý, chúng tôi có thể trao đổi
những vấn đề của đời sống và con người. Tôi thấy có thể thông cảm với nhau được.
Có nhiều vấn đề, ngoài tinh thần quốc gia cần suy nghĩ trên bình diện con người
và tình cảm của con người. Chủ nghĩa Cộng sản muốn đặt quan hệ quốc tế tức ra
ngoài biên giới quốc gia, nhưng lại không tôn trọng đến con người và hạnh phúc
của con người nên nó không phục vụ được cho quốc gia và cũng không phục vụ con
người; nó chỉ phục vụ cho một tập đoàn cấu kết nhau để nhằm cướp đoạt hạnh phúc
của người khác. Đó là một tư tưởng quái dị và thoái hóa. Thời đại ngày nay mọi
tiến bộ kỹ thuật đã làm cho con người gần gũi nhau hơn, dễ thông cảm nhau hơn,
nên sự kiện con người tiêu diệt lẫn nhau không còn có thể chấp nhận được. Thực
tế đời sống đã chứng minh được tương quan giữa con người với nhau không còn là
tương quan tước đoạt và bóc lột nhau, mà ngày nay có thể hình thành tương quan
tương nhượng để cả hai bên cùng có lợi, cùng hòa hợp với nhau. Từ đó rõ ràng là
chế độ Cộng sản không còn lý do để tồn tại nữa vì nó không phục vụ cho sự tiến
bộ của đất nước cũng như hạnh phúc của con người. Do đó việc chống lại Cộng sản
dưới mọi hình thức là một việc làm đúng đắn, cho dù có thiệt hại, có bị tù đầy
khi chế độ đó chưa bị tiêu diệt hẳn thì không có gì là đáng ân hận. Khi đất nước
bị Cộng sản xâm lăng, một con người biết tự trọng hoặc là ở chiến trường để chiến
đấu, hoặc là ở trong tù.
Ngày hôm sau chúng tôi lên hội trường để
nghe trại trưởng nói chuyện, 30 người tù ngồi trong một hội trường quá lạc lõng
và ít ỏi so với số cán bộ ngồi trên bục sân khấu. Sau khi giới thiệu qua thành
phần cán bộ chỉ huy gồm chính trị viên, phân trại trưởng, cán bộ an ninh và trực
trại hắn tự giới thiệu là Trung tá Thân Yên. Nhìn qua thành phần cán bộ vừa được
giới thiệu tôi đã có nghĩ đến những khó khăn chúng tôi phải chịu đựng trong những
ngày sắp tới, không hẹn mà tập trung những tên có hình dáng dị dạng, lộ rõ sự
hung ác nham hiểm. Trại trưởng Thân Yên người nhỏ thó, mặt dơi, tai chuột, quắt
queo; phân trại trưởng Lê Đồng Vũ, mắt trắng, môi thâm, mặt đỏ lừ như người vừa
uống rượu; chính trị viên Nghị mắt lúc nào cũng láo liên mặt vác lên kênh kiệu;
trưởng ban an ninh Nguyễn Minh Lý mắt lé, mặt lấm tấm rỗ hoa mè xanh nhợt; hai
trực trại Luật mụn và Thái đen mắt lúc nào cũng trừng trừng đanh ác. Bằng giọng
Bình Định, Thân Yên nói: “Đáng lẽ ra tôi phải nói chuyện trước hàng trăm, hàng
ngàn người, các anh chỉ có 30 người mà tôi đến nói với các anh đó là điều hân hạnh
cho các anh. Các anh phần lớn vi phạm kỷ luật ở trại cũ, tôi có thể nhốt các
anh trở lại, nhưng tôi xóa hết để các anh bắt đầu lại. Đến trại này các anh chỉ
có hai con đường để chọn, một là sống, hai là chết. Muốn sống các anh phải chấp
hành nghiêm chỉnh nội qui trại, còn muốn chết là do thái độ của các anh, mà các
anh có sống cũng bằng thừa, có chết cũng không thiếu. Đây là trại Kiên Giam,
nhà nước kiên trì cải tạo phạm nhân, chúng tôi có thì giờ để làm việc đó, thời
gian có thể là 10 năm, 20 năm, chúng tôi cũng có thể làm được... Chính sách của
Đảng và nhà nước trước sau như một, Đảng luôn luôn khoan hồng nhưng cũng sẵn
sàng nghiêm trị, khoan hồng với những ai, với người nào, và nghiêm trị với kẻ
nào, tên nào, thằng nào...” Hắn nhấn mạnh từng chữ tên, thằng, kẻ. Đắc ý với lời
nói hăm dọa, mặt vênh vênh nghiêng lên biểu lộ sự thích thú xong hắn gọi: “Thiệp
đâu, San đâu, đứng lên”. San và tôi đứng lên. Thân Yên ngắm chúng tôi một lúc,
đầu gật gù đắc thắng, và như ước lượng kẻ địch mà hắn có quyền dày vò cho thỏa
thú tính. Rõ ràng là một buổi nói chuyện để dằn mặt chúng tôi, lần đầu tiên mới
nghe đến trại Kiên Giam - tức là trại giam tù lâu dài không có thời hạn. Ngay
sau buổi nói chuyện, cán bộ Lý, trưởng ban an ninh gọi tôi ở lại làm việc, hắn
bảo tôi khai việc làm và lý do tôi bị giam kỷ luật ở trại cũ. Trước khi cho tôi
về đội, hắn nhắc đi nhắc lại là có thể giam tôi trở lại bất cứ lúc nào vì thời
hạn kỷ luật của tôi ở trại cũ chưa kết thúc. Hắn nhấn mạnh là khi hắn quyết định
giam thì không ai ngoài hắn ra có thể thả.
Đây là trại Kiên Giam có qui chế giam giữ
riêng cho tù nhân từng bị kỷ luật, bị ghi nhận là không chấp hành chế độ cải tạo,
có hành động chống đối. Trại Xuân Phước tự nhiên đã là trại tù khắc nghiệt. Trại
tù cộng sản đều giống nhau, người tù phải chấp hành nội quy 38 điểm quy định
khai báo, chế độ lao động, tương quan với cán bộ, tương quan với người tù với
nhau, chế độ thăm gặp gia đình, viết thư, chế độ kỷ luật v.v... Người tù phải
làm để nuôi sống cán bộ, đóng góp và sản xuất chung cho ngân sách của bộ nội vụ
hay tỉnh, và nuôi sống mình. Có hai loại trại cải tạo, trại thuộc trung ương và
trại thuộc địa phương; trại thuộc bộ nội vụ để giam người có án từ 10 năm trở
lên và tù tập trung không có án thời hạn lâu dài, và trại ở tỉnh giam tù có án
dưới mười năm và tù tập trung cải tạo ngắn hạn.
Trên thực tế các trại
tù có những điểm khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và cán bộ quản lý.
Các trại tù ở tỉnh tương đối dễ chịu hơn vì hai điều kiện, thứ nhất trại tù phải
tự túc kinh tế nên khi lập trại, tỉnh thường chọn những nơi đất đai tương đối tốt
có điều kiện sản xuất hơn. Trái lại trại thuộc bộ nội vụ thường ở những vùng đất
đai cằn cỗi hơn. Lúc mới chiếm miền Nam, tù cải tạo là viên chức sĩ quan chế độ
cũ, do quân đội quản lý, họ sử dụng các căn cứ quân sự cũ làm trại cải tạo; sau
dần dà chuyển về cho công an. Việc chuyển giao hoàn tất đầu năm 1979, tù nhân
được chuyển về các trại thuộc bộ Xuân Lộc (Z-30A), Gia Trung, Xuyên Mộc, các trại
khác thuộc các tỉnh quản lý. Do đó ở tù các tỉnh đồng bằng Cửu Long tương đối dễ
chịu vì vừa gần gia đình tiếp tế dễ, khi lao động có thể tìm thức ăn như cá, rắn,
chuột, ếch, nhái và rau cỏ dại, cán bộ quản lý cũng no đủ nên tính tình dễ chịu
cởi mở hơn.
Trái lại nếu ở các
trại tù từ vùng Ba trở ra, đồng khô cỏ cháy, và nhất là chuyển trại ra miền Bắc
hoặc miền Trung thì điều kiện ở các trại tù cam go hơn nhiều.
Trại Xuân Phước nằm cách trại Lực Lượng Đặc
Biệt Đồng Tre cũ khoảng ba cây số về hướng Tây. Trước năm 1975 là vùng giao
tranh giữa trại Đồng Tre và mật khu Kỳ Lộ. Bộ chỉ huy trại nằm tại ngã ba đường
Tây Bắc, lên Suối Cối, Kỳ Lộ. Từ Kỳ Lộ có thể ra miền núi Bình Định nay được
thành lập huyện Tây Sơn; và đường lên Pleiku. Mật khu Kỳ Lộ là vùng du kích VC
chiếm từ năm 1958. Quân đội VNCH chỉ đánh vào hai lần, một lần năm 1960 và một
lần cuối năm 1964. Kỳ Lộ là một khu dưỡng quân và tiếp tế cho chiến trường Tây
Nguyên của Việt Cộng trước năm 1975. Đường thứ hai từ Xuân Phước đi về hướng
Tây Nam, đến vùng người đồng bào sắc tộc H’roi ở xã Xuân Định, lên thượng nguồn
sông Đà Rằng, phần sông này được gọi là sông Hinh, nay Việt Cộng lập nên huyện
Sông Hinh.
Trại Xuân Phước có nhiều phân trại nằm ở những
đồi trên con đường này.
Phân trại A nằm ở gần bộ chỉ huy là trại tù
giam giữ những người từ Guam về trên tàu Việt Nam Thương Tín, phân trại B giam
tù hình sự có án và tù chính trị, phân trại C tù hình sự tập trung, phân trại D
tù hình sự tập trung, phân trại E là khu trại nhà ngói tường gạch mới xây dựng ở
bên cạnh phân trại A. Chúng tôi là toán tù thứ hai được chuyển đến, toán thứ nhất
là tù chính trị có án từ các trại Mê Van Ban Mê Thuột và Rạch Giá.
Tù từ tàu Việt Nam Thương Tín, là những người
xây nên trại tù Xuân Phước vào tháng 10 năm 1976. Những người đã di tản qua đến
đảo Guam, rồi đấu tranh tình nguyện để “về xây dựng quê hương”. Họ kể lại, số
người đấu tranh đòi được trở về lúc đầu khá đông, gần 10 ngàn người. Sau có sự
thuyết phục và khuyên nhủ của người Mỹ và viên chức chính quyền VNCH ở trại, số
người muốn trở về dần dần rút xuống, cuối cùng số người về nước theo tàu Việt
Nam Thương Tín hơn 1600 người, thời gian đi trên tàu họ được tàu hải quân Mỹ hộ
tống, và tàu này mỗi ngày đều nhắc nhở là họ có thể đổi ý quay trở lại, nhưng mọi
người đều quyết định đi về, nhất là một ban lãnh đạo được hình thành do một số
người tự nhận là họ được liên lạc với Nguyễn Thị Bình từ trước; những người này
hứa sẽ được đón tiếp bằng những vòng hoa tươi thắm tại Vũng Tàu hay Saigon vì sự
trở về nước lúc đó với họ là một hành động chứng tỏ lòng yêu nước hoặc là nếu không
được đón tiếp nồng hậu thì họ cũng không gặp trở ngại gì vì họ tình nguyện trở
về không chạy theo “Mỹ Ngụy”. Tàu không được cặp bến Vũng Tàu như họ nghĩ, sau
hai ngày chờ đợi ngoài khơi, được tàu hải quân Việt Cộng hướng dẫn ra Nha
Trang. Lúc lên bến họ được đón tiếp nồng hậu, bằng một lực lượng đông đảo công
an võ trang AK. Còng chung hai người một chiếc còng số 8. Chuyển về trại Đồng Đế,
làm thủ tục khai báo lý lịch và khám xét. Họ được khám xét thật kỹ từ bộ răng đến
những nơi kín đáo nhất trong người để tìm máy móc gián điệp do CIA gài; những
người cầm đầu và những sĩ quan cao cấp VNCH đưa về Chí Hòa để tiếp tục làm thủ
tục khai báo, điều tra, sau đó được chuyển đi các trại tù cải tạo ở miền Bắc hoặc
miền Trung. Đàn bà trẻ con được cho về, số người còn lại khoảng 1300, hầu hết
là sĩ quan VNCH hoặc sĩ quan cảnh sát từ Trung Úy trở xuống, được đưa lên trại
Xuân Phước, nơi đây họ phá rừng xây dựng trại tù. Những người tù tàu Việt Nam
Thương Tín, có công lao xây dựng trại, chấp hành ngoan ngoãn nội qui trại, thái
độ sợ sệt, tuân phục cán bộ; bù lại họ được tin cậy làm những công tác rộng như
phá rừng, chăn nuôi, bốc dỡ hàng hóa, và mặc quần áo không có đóng số tù và dấu
cải tạo. Anh em tù Việt Nam Thương Tín đều ân hận về việc làm của họ.
Những người tù VNTT ở trại Xuân Phước dần dần
được tha ra khỏi từ năm 1979 và những người cuối cùng được về vào tháng 5/1982.
Năm ngày sau khi chúng tôi rời trại Z-30A đến,
thì toán 78 người từ Z-30D đến. Vài ngày sau thì 118 người từ trại Z-30C ở Hàm
Tân cũng được chuyển đến. Đa số là những người tù bị bắt vì mới tổ chức chống đối,
hoặc sĩ quan không chấp hành lệnh tập trung, một số sĩ quan trình diện bị tình
nghi là sách động trong những vụ lộn xộn trong trại vào dịp Tết Kỷ Mùi. Tháng
10 và tháng 11 hai đợt tù từ trại Suối Máu đến, nâng tổng số tù phân trại E lên
hơn 700 và toàn Xuân Phước 5 phân trại lên hơn 10 ngàn người đủ tất cả các diện
từ chính trị, hình sự và quân phạm của Việt Cộng. Ngoài ra trại Xuân Phước còn
có một trại Hốc Kè nằm về phía đông bắc bộ chỉ huy, nơi đó là trại kỷ luật của
công an, và nơi những người tù được lệnh tha ở thời gian thử thách. Chế độ thử
thách trước khi về chỉ là một sáng kiến riêng biệt của trại Xuân Phước để bóc lột
sức lao động của tù nhân đã được lệnh thả, thay vì đọc lệnh tha, bọn chỉ huy
cho đọc “lệnh thử thách”. Đến Hốc Kè tù được quản lý rộng rãi hơn nhưng buộc
làm lao động nặng hơn. Mỗi ngày họ được giao khoán hai thước khối củi, họ được
tự do đi vào rừng để đốn củi cho đủ số. Thời gian thử thách là một đến hai
tháng. Sau đó họ mới được thả.
Tù nhân nhiều trại tập trung về tại Xuân
Phước, mới biết là trong năm 1978 và 1979 các trại tù miền Nam đều có những vụ
chống đối. Lớn nhất là vụ khởi loạn mồng hai Tết Mậu Ngọ ở trại tù Kiến Hòa. Tù
đã nổi loạn cướp súng giết cán bộ thoát ra khỏi trại. Nhưng chỉ số ít người trốn
được, vì ra khỏi trại không biết đi đâu, bị truy lùng bắn chết hoặc bị bắt xử
án, những người cầm đầu bị tử hình, những người khác đều bị xử 20 năm đến chung
thân.
Âm mưu trốn trại bị phát giác ở trại giam
Phan Thiết năm 1978, do sự phản bội của tên Nguyễn Văn Quyền cựu xã trưởng, những
người cầm đầu đều bị án tử hình, số người còn lại bị tù từ 20 năm đến chung
thân, tên Quyền được trả công cho về trại Xuân Lộc. Tết Kỷ Mùi các trại Suối
Máu, Hàm Tân, Thủ Đức, Xuân Lộc đều có những vụ náo loạn, khởi đầu bằng những
việc tập trung ca nhạc vàng, rồi đưa đến việc rải truyền đơn đả đảo cộng sản,
đánh an ten hoặc chống đối không chịu đi lao động. Ở trại Z-30C còn có vụ tù
nhân tên Hiếu (tù chính trị bị bắt trong tổ chức phản động của nhóm người Quảng
Nam di dân ở các trại định cư vùng Rừng Lá) sau khi trốn trại đem súng về hoạt
động quanh trại đón giết nhiều cán bộ Z-30C trước khi anh bị phục kích giết chết.
Trại Xuân Phước ở một vùng thung lũng khô cằn,
đất núi chỉ trồng được một loại khoai mì kỹ nghệ có nhiều chất độc gọi là khoai
mì H-34 và loại đậu cua. Đậu cua là một loại đậu hạt gầy dài cong cong và mầu
nâu như cặp mắt cua. Loại đậu cua có sức sống rất mạnh, nên có thể sinh sản được
trong vùng đất núi khô cằn Bình Định, Phú Yên. Cây đậu lúc còn bé mảnh khảnh,
lá xanh có ba chia, thân lá có lông thành ra lá rám cứng. Khi cây đậu lên cao
ngang một tấc thì tỉa bớt cho cây còn lại lớn mạnh, những cây tỉa ra đó giúp
cho tù được một bữa canh. Ở trại rau xanh rất hiếm, không đủ đưa vào bếp của
cán bộ, tù không có phần. Cây đậu được tỉa xong, lên rất mạnh, cây sinh nhiều
cành nhiều nhánh phủ lên cả cỏ dại và những bụi cây rừng nhỏ, qua xong mùa mưa
tháng mười thì đậu trổ bông chen qua các kẽ lá xanh, những bông tím man man
vươn cao mạnh mẽ để đón đoàn bướm nhiều màu sắc làm cho cảnh núi rừng bớt đi vẻ
hoang dại thê lương. Cuốc đất, dọn cỏ quần quật suốt ngày, nhưng có một lúc nào
đó người tù chống cuốc đứng nhìn thấy cảnh hoa bướm tự nhiên vô tư này cũng cảm
thấy lòng lâng lâng, muốn quên hết quá khứ cũng như muốn quên cái hiện tại đang
đau khổ, rồi lẩm bẩm đọc lại vài câu thơ còn sót lại trong óc mình sau khi đã
quên gần hết những gì đã học từ thời thơ ấu.
Hạt đậu cua ăn không ngon, có lẽ ít chất bổ
dưỡng, lúc đầu ăn chưa quen thường sình bụng, nó là món thu hoạch của trại nên
cán bộ cũng bớt giữ gìn; mùa thu hoạch người tù có thể ăn cắp một vài nắm về phụ
cho bữa ăn ít ỏi vào dịp Tết. Dân miền núi Bình Định Phú Yên cũng đói quanh
năm, họ cũng nhờ đậu cua ăn phụ vì vùng này không bao giờ đủ gạo ăn vì lúa gạo
trồng ra thì đã nộp thuế cho nhà nước hơn 2/3 số thu hoạch.
Điều kiện khó khăn, tù nhân bị ghép vào tội
chống đối, được quản lý bởi một người trại trưởng người Bình Định và cán bộ người
miền Trung và miền Bắc. Ba yếu tố đó để trại Xuân Phước trở thành một trại kham
khổ nhất và phân trại E, phân trại giam những người chống đối, bị kỷ luật, bị
chế độ Kiên Giam trừng giới.
Nước Việt Nam nhỏ bé, nhưng điều kiện giao
thông liên lạc dân chúng của các miền khó khăn vì cả lý do chính trị lẫn địa
lý, thêm vào chịu ảnh hưởng của chính sách chia rẽ liên tục của các chính quyền
hàng mấy trăm năm, nên tính tình và đời sống dân Việt Nam có nhiều khác biệt
tùy theo địa phương họ sinh và lớn lên.
Miền Nam nhất là vùng đồng bằng châu thổ
sông Cửu Long đất đai phì nhiêu, đời sống kinh tế dễ dàng nên người miền Nam hiền
hòa dễ tính. Sau ngày 30-4-1975, điều kiện sống có nhiều khó khăn, nhưng miền
Nam vẫn dễ sống hơn các miền khác, và cũng vì tính hiền hòa, phóng khoáng của
người miền Nam nên họ không thích hợp với chủ trương đấu tranh giai cấp, sống
trong sự ganh tị, xoi mói nhau giữa người này và người khác, nên họ không chấp
nhận chế độ Cộng sản và các chủ trương cai trị của chính quyền Cộng sản. Ngay cả
cán bộ Cộng sản miền Nam dù là cán bộ hồi kết hay cán bộ nằm vùng cũng dễ dàng
quay lại lối sống phóng khoáng, thoải mái của miền Nam. Đó cũng là sự thất bại
của chế độ Cộng sản khi thi hành ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30-4-1975. Bị từ
khước và tiềm tàng chống đối, ngay cả từ những người nông dân hay gia đình có
thân nhân là cán bộ cộng sản. Đa số người miền Nam chấp nhận và ủng hộ kháng
chiến nhưng không ủng hộ cộng sản.
Người miền Bắc và các tỉnh phía Bắc Trung
Việt, đất hẹp người đông, đời sống kinh tế chật vật, truyền thống chống ngoại
xâm, giữ nước, nhất là với người Trung Hoa ở phương Bắc, khả năng sinh tồn và sức
sống mãnh liệt, biết bám vào những điều kiện xã hội. Các nước chậm tiến và các
nước Cộng sản, chính quyền là môi trường có điều kiện sống tốt hơn hết trong xã
hội.
Dân các tỉnh miền Nam, Nghĩa, Bình, Phú tức
là liên khu 5 cũ, một thành trì của chế độ Cộng sản. Những đức tính của người
dân vùng này cũng là kết quả của sự ảnh hưởng của một vùng địa lý khô cằn đất
cày lên sỏi đá, lại bị các chính quyền kỳ thị liên tục gần hai trăm năm kể từ
khi vua Gia Long thi hành chính sách trả thù nhà Nguyễn Tây Sơn. Từ đó người
dân liên khu 5 đứng về phía chống chính quyền và họ tiếp tục bị đàn áp và kỳ thị
của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến chống Pháp 1954 và chế độ Cộng sản dễ được
dân chúng vùng này hưởng ứng. Vì lâu năm bị đè nén và ngược đãi nên ý thức chống
đối càng mãnh liệt nên tạo thành tính cực đoan và những tính phụ thuộc theo đó.
Cho nên người dân Nam, Nghĩa, Bình, Phú nổi tiếng cực đoan và tàn nhẫn về chính
trị: đã đứng về phía nào thì dứt khoát và tranh đấu quyết liệt và chấp nhận đổ
máu, chấp nhận chết và sẵn sàng tiêu diệt đối thủ. Nhạy cảm và có ý thức và lập
trường chính trị, nhiệt tình bảo vệ lý tưởng. Cán bộ cộng sản tàn ác, nhưng cán
bộ người miền Nam có thể dùng tình bạn và tiệc rượu mua chuộc được, cán bộ cộng
sản miền Bắc dùng tiền mua chuộc được, nhưng cán bộ cộng sản miền Trung thì những
sự mua chuộc khó khăn hơn nhiều và người dân sẽ bị đối xử tàn nhẫn nhiều. Những
tính tình cực đoan, sự cuồng tín bảo vệ chế độ đó không phải là hoàn toàn xấu.
Vì người miền Trung nơi chiến trường ác liệt nhất, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất của các biến chuyển chính trị của đất nước, nên người dân cũng rất nhạy
bén và nhận định chính trị có lập trường và lý tưởng chính trị. Họ sẽ nhanh chóng
nhận được con đường đúng và sai, cũng như đặc tính cuồng nhiệt, dám làm cũng là
nơi khởi diễn nên những cuộc đấu tranh chống cộng sản áp bức mãnh liệt nhất. Điều
này đã có dấu hiệu cụ thể, những người tù chính trị sau ngày 30-4-1975 được đưa
từ các tỉnh miền Trung đến Xuân Phước, phần nhiều đều có tổ chức võ trang chiến
đấu thực sự, dù còn lẻ tẻ và chưa có lãnh đạo. Những tổ chức chính trị tổ chức
từ Saigon hay các tỉnh miền Nam phần lớn chỉ mới kết hợp và đưa đến sự chờ đợi
Mỹ sẽ chủ động làm ngược lại thế cờ chính trị tại Việt Nam.
Một dấu hiệu nữa thể hiện qua hàng ngũ cán
bộ. Những cán bộ gốc Nghệ Tĩnh lúc đầu rất cực đoan và sắt máu, nhưng sau thời
gian ở các trại tù, tiếp xúc với tù nhân, họ thấy tù nhân không giống như những
người ác ôn, ăn gan người, uống máu người và hiếp dâm phụ nữ như đảng dạy cho họ.
Những cán bộ gốc Nghệ Tĩnh là những người thay đổi thái độ trước nhất. Họ tỏ ra
thông cảm và dễ chịu với tù. Những người cán bộ gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi là
hay đánh đập tù nhất, nhưng đến năm thứ 8 thứ 9, họ đã bắt đầu nói rằng họ ân hận
vì đã đánh đập đối xử tàn nhẫn với người cải tạo. Chỉ có cán bộ miền Bắc đa số
quan liêu hách dịch khó khăn.
Nạn nhân đầu tiên của
tính cực đoan của cán bộ chính trị của cán bộ cộng sản liên khu 5 là Huỳnh Cự,
anh là người sĩ quan Việt Cộng hồi chánh năm 1954 làm đến Tham Nghị Bộ Chiêu Hồi
(ngang hàng với Giám Đốc Bộ Chiêu Hồi). Bị bắt trong những ngày đầu sau khi
Saigon bị sụp đổ, anh Cự bị giam ở các nhà giam Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, Hàm
Tân, Xuân Phước. Biết rành chế độ cộng sản và những sự tàn nhẫn của nó, cũng
như đã lớn tuổi và cái thế tế nhị của một người hồi chánh, nên nơi đâu anh cũng
sống dè dặt và cố gắng thu mình trong công tác lao động. Nhưng những toan tính
và kinh nghiệm của Cự không giúp cho anh được nhiều vì trong nhà tù anh luôn
luôn bị hai mũi dùi. Cán bộ cộng sản xem anh như người phản bội nguy hiểm,
ngoài Bắc trước năm 1975 đã có những bài học về trường hợp của Huỳnh Cự, mỗi
khi cán bộ cộng sản mới đến trại, họ đi tìm để xem biết mặt anh. Phía người tù
thì luôn luôn nghi ngờ Cự, xem anh là người cộng sản nguy hiểm. Thái độ lao động
tích cực của Cự càng bị một số người chống đối cực đoan ghét, xem anh là phản bội
người đồng cảnh. Đến trại Xuân Phước, Cự càng gặp khó khăn hơn, bởi Thân Yên
trước kia là thuộc cấp của Huỳnh Cự.
Một hôm Thân Yên gặp
Huỳnh Cự trong trại, để Cự nghiêm chỉnh chào mình xong, Thân Yên nói rất nhỏ nhẹ:
“Anh Cự đó hả? Thấy anh còn sống tôi mừng
cho anh, tôi nhớ lại thời gian sau khi anh bỏ chúng tôi về thành, ngày nào
chúng tôi cũng bị B-52 đánh, bao nhiêu anh em đã chết...” Nghe Thân Yên
nói, Cự tái xanh mặt. Từ đó, cứ mỗi lần lên hội trường, nói về chính sách khoan
hồng, Thân Yên đều kể trường hợp của Huỳnh Cự, hắn luôn nhấn mạnh là Cự đáng tội
chết nhưng đảng đã khoan hồng cho đi cải tạo. Mặt khác Thân Yên tỏ ra tín nhiệm
cho Huỳnh Cự làm đội trưởng đội mộc và làm đội trưởng những người được xem là
tiến bộ được gọi đi làm ban đêm. Trong nhà tù cộng sản cũng như xã hội cộng sản
cả hai thành phần tích cực làm việc cho chế độ và chống đối chế độ đều khổ theo
hai cách khác nhau. Người chống đối bị trừng phạt đày ải đến chết thì ngược lại
người tích cực cũng bị thúc đẩy làm việc đến kiệt sức. Chỉ có người biết cách sống
biết chịu đựng và lách né khéo là đỡ khổ. Nhưng đóng vai trò này rất khó - vì
cuộc sống lôi kéo con người phải chọn hay tự nhiên sẽ bị đưa đẩy đến hoặc là
bên thái độ này, hoặc là thái độ kia, không lưng chừng.
Vì ở cái thế phải đóng vai người biết hối lỗi,
Huỳnh Cự thành người cải tạo tiến bộ. Nhưng Cự là người có kinh nghiệm với chế
độ cộng sản, anh chỉ đem sức ra làm lao động và có thúc đẩy năng suất lao động
của đội; và chỉ báo cáo những việc lặt vặt như nấu nướng trái phép, đánh lộn
v.v... còn việc báo cáo và đặt điều báo cáo về hành vi chính trị và lời nói của
người khác anh Cự không hề làm. Đa số người hiểu anh, nhưng cũng có ít người
không hiểu, những người đã từng ở chung trại Chí Hòa và trại Hàm Tân, có tinh
thần chống cộng cực đoan trong nhóm anh Vũ Văn Ánh và anh Ngô Văn Ly và họ đã
mượn tay cộng sản để hại Huỳnh Văn Cự. Một hôm Ngô Văn Ly đã dán một truyền đơn
“đả đảo cộng sản và Hồ Chí Minh”, dưới tờ truyền đơn ký tên Huỳnh Văn Cự. Dù
thiệt thà đến đâu, không ai tin là Huỳnh Cự dám làm chuyện đó, nhưng đối với
Thân Yên, đó là một cái cớ để đem Huỳnh Cự đi nhốt ở xà lim trên hai năm. Nếu
không nhờ thân nhân bên vợ là cán bộ cao cấp của cộng sản thỉnh thoảng từ Nghệ
An mang quà tiếp tế thì Huỳnh Cự chết rồi. Hơn 25 tháng bị cùm đến khi được thả
Huỳnh Cự đã bò từ phòng an ninh về nhà giam tập thể.
Một trường hợp khác chứng tỏ sự tàn bạo của
cán bộ liên khu 5. Trước ngày 30-4-1975, người ta tuyên truyền Saigon sẽ trở
thành biển máu. Cộng sản đã biến Saigon thành biển nước mắt. Nước mắt chia ly,
nước mắt chờ đợi của bao gia đình tan tác. Nhưng máu đã đỏ nhuộm ở vùng đất khô
cằn ở thung lũng Xuân Phước, với núi rừng trùng điệp bao quanh.
Một hôm chúng tôi được điều đi lao động xa,
dọn một nghĩa địa nằm giữa hai phân trại A và B lấy đất trồng khoai mì. Nghĩa địa
rộng khoảng hai mẫu, nhiều mộ đã được bốc, chúng tôi lấp những mả bốc xong, san
bằng khu đất. Lúc đó chúng tôi mới chú ý đến những nấm mộ còn lại, nấm đất đã bị
lụn mòn vì thời gian không ai tu sửa, những thanh gỗ cắm trên đầu mỗi ngôi mộ
còn ghi rõ tên tuổi quê quán, ngày chết. Vừa nhổ những thanh gỗ để làm củi nấu
nước, chúng tôi đọc thấy những người nằm ở nghĩa địa này đã chết trong ngày 3
và 4 tháng 5 năm 1975. Họ sinh tại các làng xã vùng Tuy Hòa, Sơn Hòa, Hiếu
Xương, Phú Đức. Ngày 2 tháng 4 năm 1975 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa bị quân ta bỏ
ngỏ. Đây là những nhân viên, cán bộ cấp dưới không kịp chạy khỏi địa phương, họ
bị bắt và đưa lên đây để bị giết hàng loạt. Thân nhân của họ đã đến tìm lập vội
vàng mộ bia ghi nhớ - nhiều người đã bốc mộ - con số còn lại đến nay thân nhân
không còn cơ hội quay trở lại nên trại quyết định san bằng. Đếm số mộ bia còn lại
là 73 cái, cả nghĩa địa ước lượng khoảng 500. Đó chỉ là một địa phương, còn bao
nhiêu địa điểm như nghĩa địa này ở Phú Yên và bao nhiêu cái khác ở toàn lãnh thổ
các tỉnh liên khu 5 nổi tiếng quá khích. Về sau, nói chuyện với một số cán bộ
chúng tôi được biết là sau khi chiếm được hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, số cán
bộ của hạ tầng cơ sở của VNCH bị tập trung lại khoảng 8000 người. Nguyễn Hữu,
bí thư tỉnh ủy Phú Khánh chủ trương đưa lên Xuân Phước giết hết. Trong hai ngày
3 và 4 tháng 5 năm 1975 họ mới giết hơn 1000 người thì có lệnh từ Hà Nội vào chỉ
thị phải ngưng cuộc tàn sát đẫm máu lại nên nhiều người thoát chết. Thầm van
vái cho người chết sớm được siêu thoát, họ đã trả nợ núi sông. Có ai còn nhớ đến
chiến sĩ không tên tuổi. Gia đình xa họ cũng không còn đến được để bốc mộ. Thân
xác các bạn đành làm phân cho cây khoai mì mà chúng tôi sắp trồng.
Con người là sản phẩm của xã hội, kinh tế
là hoạt động căn bản của loài người. Điều phân tích của Karl Marx không sai,
nhưng nó chỉ đúng ở xã hội sơ khai và được đơn giản hóa khi con người tìm lương
thực, thực phẩm để mà sống, nhưng khi nhu cầu vật chất tương đối đầy đủ, xã hội
phát triển đa dạng và sinh hoạt con người trong xã hội trở thành phong phú thì
những nhu cầu khác sẽ trở thành quan trọng hơn. Con người không phải là con thú
chỉ tìm cái ăn hàng ngày, mà con người tích lũy của cải, thành quả lao động của
mình để tổ chức sản xuất tiến bộ, dư thừa sản phẩm, con người cần tổ chức sao
cho mọi năng lực, tài nguyên và thời gian sử dụng vào việc mưu tìm sự sống thật
ít, còn thì giờ để phát triển tìm sự thỏa mãn cho nhu cầu tinh thần và sự thụ
hưởng hạnh phúc. Lý thuyết của cộng sản dựa trên sự giản lược tối đa về các hiện
tượng xã hội và loài người, và chế độ cộng sản thì tước đoạt mọi tư hữu của con
người, để hạ thấp giá trị con người đơn giản như con thú và guồng máy chính quyền
của đảng sẽ nhân danh tập thể xã hội để nắm tất cả quyền hạn, quyền lợi và
phương tiện sản xuất, và làm chủ sự phân phối của cải xã hội theo ý riêng của họ.
Nhưng khi nhân danh tập thể, nhân danh xã hội guồng máy khổng lồ do chính quyền
cộng sản thành lập vừa gặp phải các nhược điểm tất yếu của một tổ chức quá to lớn
đưa đến sự uổng dụng phí phạm tài nguyên, sự cứng ngắc do hệ thống thư lại tính
tham lam của con người có quyền hành vô hạn. Chế độ cộng sản dựa trên lý luận
đơn giản của con người thì đúng, nhưng đưa ra áp dụng cho toàn thể xã hội thì
sai. Chế độ cộng sản chỉ trích những sai lầm của chế độ phong kiến, quân chủ,
tư bản thì đúng, nhưng khi nắm chính quyền thì chế độ cộng sản sai lầm lớn hơn
tất cả mọi chế độ trước. Chế độ cộng sản không phục vụ được con người, không
phát triển được xã hội. Người cộng sản thành công khi họ tranh đoạt chính quyền,
họ hành động quyết liệt, đấu tranh không khoan nhượng, nhưng họ thất bại khi nắm
chính quyền.
Thắt chặt bao tử để cai trị là chính sách của
chính quyền cộng sản. Cùng với chính sách công an nhân dân, kiểm soát thật kỹ
lưỡng hành động của người dân, tình trạng đói kém làm cho dân hết sức đề kháng,
không có thực phẩm thuốc men, tài sản để tổ chức đối kháng, trong khi đó toàn
dân đói; đảng viên công nhân được no đủ hơn sẽ trung thành, bám chắc và ra sức
bảo vệ chính quyền.
Chính sách bao tử được triệt để thi hành
trong các trại cải tạo, những người tù tương đối ngoan ngoãn được biên chế vào
các đội nhà bếp, rau xanh, chăn nuôi, làm rừng gián tiếp cho phép tìm thức ăn
ngoài tiêu chuẩn. Cái gì ăn được cũng quý, rau, cỏ dại, rễ cây, côn trùng mà
người tù có thể tìm được, gọi là “món ăn cải thiện đời sống” cũng được cho phép
công khai hay mặc nhiên, thức ăn do gia đình đưa lên cũng phải cải tạo tốt mới
được nhận. Trái lại, những người tù bị gọi là xấu dù không bị nằm trong kỷ luật
cũng nhận sự phân biệt đối xử, không được viết thư, không được nhận quà của gia
đình lên thăm trại hoặc gửi bằng bưu phẩm qua ngả bưu điện; không được biên chế
vào các đội có thể tìm thức ăn cải thiện, thường là phải làm công tác lao động
vất vả hơn như đào ao, đập đá, san đồi làm đường giao thông, làm gạch ngói. Một
ân huệ được Việt Cộng ban phát phải có điều kiện, làm đội trưởng, làm trật tự
thi đua phải cải tạo tốt, đa số là những người đã từng báo cáo bạn bè hay ít nhất
quá trình cải tạo không bao giờ vi phạm kỷ luật. Đa số tù nhân phân trại E Xuân
Phước là thành phần cải tạo xấu - nên các biện pháp bóp chẹt thi hành triệt để.
Khẩu phần ăn buổi sáng năm hoặc sáu lát khoai mì khô băm xéo còn nguyên vỏ, buổi
trưa và chiều mỗi buổi một chén cơm độn độ 80% khoai mì băm nhỏ, tù chỉ được
phát nước muối, tiêu chuẩn nước muối cũng phải chia vì nếu để lấy tự do sẽ
không đủ cho mọi người. Gia đình tìm đến thăm bị từ chối đuổi về, dù thân nhân
người tù phải tốn 3 hay 5 ngày đường mới đi từ Saigon đến ngã ba Chí Thạnh và từ
ngã ba Chí Thạnh vào đến trại phải gánh quà đi bộ hơn 20km đường núi.
Tất cả lá cây ăn được ở trong trại đều được
tù vặt sạch, những đội đi làm nông nghiệp mới may mắn tìm được rau trái hay bèo
Nhật Bản để ăn thêm. Mùa đông năm 1979 tù nhân vừa đói vừa lạnh; nhưng hầu hết
tù nhân trại E là những người từng đối kháng ở các trại nên số người bị nao
núng thật ít. Trong hoàn cảnh đói rét đó, khi gia đình lên thăm, điều kiện duy
nhất an ninh đòi hỏi là sự cộng tác trong việc làm người báo cáo, tù từ chối,
dù rằng từ chối để bị cấm thăm gặp, bản thân bị đói, và làm cho thân nhân buồn
bã lo âu. Ban ngày lao động, ban tối học tập hai giờ trước khi đi ngủ, chương
trình học tập do cán bộ giáo dục đưa xuống, có thi đua trật tự đi kiểm soát, tù
nhân phải ngồi ngay ngắn và phải phát biểu ý kiến chương trình học tập cho 7
ngày trong tuần như sau:
* Thứ hai phải học tập nội quy 38 điểm tóm
lược thành 4 tiêu chuẩn cải tạo.
- An tâm tin tưởng vào chính sách khoan hồng
của đảng và nhà nước.
- Cố gắng lao động vượt chỉ tiêu đề ra và
lao động là thước đo tinh thần cải tạo.
- Tham gia học tập nghiêm túc, sinh hoạt
báo chí và các buổi văn nghệ chiếu phim.
- Tự phê và phê bình đồng đội để cùng nhau
tiến bộ.
Thể hiện tinh thần chống đối của mình, đa số
tù nhân khi phát biểu 4 tiêu chuẩn sửa lại:
- Luôn luôn tin tưởng vào tương lai huy
hoàng của dân tộc.
- Cố gắng lao động tùy theo sức khỏe và khả
năng vì lao động là thước đo tinh thần cải tạo.
- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt học tập,
nghe đọc báo xem văn nghệ.
- Thẳng thắn tự phê những lỗi lầm của mình,
còn khuyết điểm chưa quen phê bình người khác sẽ từ từ khắc phục.
Tù nhân muốn nghe báo chí tuyên truyền có
thể ghi nhận được tin tức thế giới bên ngoài - nhưng không thích đi xem văn nghệ
chiếu phim vì nội dung phim ảnh và kịch nghệ nhằm bôi nhọ Việt Nam Cộng Hòa -
muốn được nghỉ xem văn nghệ chiếu phim phải khai bịnh. Lúc đầu số người nghỉ ít
cán bộ chưa để ý, sau số này đông, trại biết tù nhân chống đối ngầm, dùng biện
pháp cưỡng bách xem văn nghệ, người nào không đi hôm sau cúp phần ăn, chỉ phát
một chén nước cháo loãng nhà bếp gạt từ nước nấu cơm ra. Nhiều anh em quyết định
thà ăn cháo loãng để không đi xem văn nghệ.
* Ngày thứ ba học tập
20 điều lệnh nếp sống văn hóa mới, nội dung cũng trích từ 38 điểm nội quy và nhấn
mạnh điểm buộc tù phải tôn trọng cán bộ, gặp cán bộ phải giở nón chào, muốn nói
chuyện với cán bộ phải đứng ra xa 5m, nghiêm chỉnh xin phép trước rồi mới được
nói, v.v... Xuất trại, nhập trại qua cổng phải giở nón mũ, đi ngang qua hết
hàng cán bộ võ trang mới được đội nón lên.
Tù nhân trại E xem đó
là một sỉ nhục lớn, nên hầu hết đều né tránh không gặp mặt cán bộ, thấy cán bộ
đến xây mặt đi chỗ khác. Một số anh em sáng kiến không đội nón đi làm để khi
qua cổng và đi trước hàng công an võ trang không phải giở nón, khi đi đầu trần
người tù có thể nhìn thẳng ngẩng đầu một cách bình thản, động tác giở nón thường
kèm theo một động tác thứ hai một cách tự nhiên là cúi đầu xuống, trông thê thảm.
Nắng miền Trung vào những buổi trưa hè như
thiêu đốt, chân đi đất lội trên cát bỏng vì phải đi chầm chậm để giữ hàng lối,
giữ khoảng cách theo lệnh di chuyển của công an bảo vệ ra đến hiện trường lao động,
việc làm được lập lại hàng ngày trong nhiều năm, có lẽ chỉ có thể những người
tù ở phân trại E trại Xuân Phước mới hiểu hết được ý nghĩa danh dự, và cái giá
phải trả như thế nào để duy trì được một số hành động nhỏ nhoi để bảo vệ danh dự
đó. Những lúc đó người tù cố nuốt một sự nghẹn ngào nơi cổ, cố kìm không để nước
mắt chảy ra và thấy cái nhục thế nào khi làm một người mất nước, và ân hận thế
nào khi làm một chiến sĩ buông súng đầu hàng vô điều kiện không chiến đấu,
trong khi sức chiến đấu hẵng còn.
* Ngày thứ tư và thứ năm đọc báo và sách vở
tuyên truyền. Tôi vẫn được anh em toàn nhà đề nghị làm người đọc cho cả nhà
nghe vì giọng tôi đọc to và rõ ràng, và nhiều anh em sống với tôi lâu ngày biết
tôi đọc sách báo thường “nhận lớp” tức là bỏ qua những đoạn không cần thiết một
cách nhanh chóng và trôi chảy. Đọc báo cho toàn nhà nghe xong, tôi có thể đọc
nhanh những bài báo khác - những bài không có đánh dấu để đọc cho tù học tập.
Qua những bài báo, dù là báo tuyên truyền cũng biết thêm những điều cần biết.
Ngoài ra tôi cố gắng đọc tất cả sách của Lénine hiện có trong thư viện - theo sự
giới thiệu của cơ quan tuyên huấn của Cộng sản, Lénine đã viết hơn 5.000 tác phẩm.
Có lẽ ông ta chỉ viết một số, còn lại cả bộ tham mưu tuyên truyền của Đảng Cộng
sản viết và ký tên Lénine, vì dù là người có thiên tài đến đâu, không thể vừa
điều hành một đảng Cộng sản, một chính phủ của một nước lớn trong lúc còn nhiều
khó khăn, ông Lénine khó có thì giờ để viết nhiều sách, dù có nhiều tác phẩm chỉ
in lại những bài nói chuyện, chỉ thị của ông ta xuống thuộc cấp. Với vài chục
tác phẩm hiện có ở thư viện, tôi đã đọc qua thì Lénine cũng đã bao trùm mọi vấn
đề chính trị của một nước. Những điều Cộng Sản Việt Nam đang làm đều nằm trong
tác phẩm của Lénine từ sách lược hai cuộc Cách Mạng, đến kỹ thuật cầm giữ, khai
thác và đầy ải người tù cải tạo, nhất nhất đều được nói đến. Những sách ký của
Hồ Chí Minh cũng đều cóp nhặt ý kiến của Lénine - Hồ Chí Minh không có khả năng
trí tuệ để trước tác các tác phẩm có trình độ tư tưởng.
Trước năm 1975 các chính quyền miền Nam sợ
sự chỉ trích của sách báo tuyên truyền của Cộng sản nên cấm đọc tài liệu do Cộng
sản in, một phần vì sự chỉ trích của Cộng sản đúng, phần lớn vì lý thuyết Cộng
sản hấp dẫn đối với những người có lương tâm muốn làm cái gì đó để góp cho sự
công bằng xã hội. Nhưng bây giờ miền Nam đã mất, Cộng sản nắm toàn bộ chính quyền,
lá cờ chính nghĩa giải phóng dân tộc đã kết thúc thay thế bằng lá cờ xây dựng
xã hội chủ nghĩa đi ngược quyền lợi dân tộc. Cộng sản phơi bầy tất cả khuyết điểm,
khiến họ thành một chính quyền tồi tệ nhất, tồi tệ hơn bất cứ chính quyền nào
mà họ chỉ trích, nên những sự tuyên truyền của Cộng sản không những không tác dụng
mà còn làm cho người đọc thấy rõ cái xấu xa của chế độ Cộng sản.
Một cán bộ hoạt động trong lòng địch họ rất
khôn ngoan, để đạt được mục tiêu, đảng lãnh đạo cho phép họ dùng mọi phương tiện,
nên họ rất dễ hoạt động về muôn mặt. Một lúc nào đó họ có thể tỏ ra chống Cộng
hơn bất cứ người chống Cộng nào, muốn được tin cậy, họ có thể làm mọi hành động
luồn cúi đê hèn nếu cần để được dự phần vào sự quyết định của lãnh đạo phe địch
và nhận tin tức tình báo. Có đọc nhiều sách báo Cộng sản mới có thể có được cái
bén nhạy để nhìn ra người Cộng sản hoạt động trong hàng ngũ của ta. Không dễ
dàng tin vào lời nói của con người mà thật sự nhận xét từ hoạt động thường
xuyên của họ. Cộng sản không xây dựng cán bộ cốt lõi bằng những người có uy tín
cá nhân hay học thức sâu rộng, vì những người này thường có trong giai cấp tư sản
mà Cộng sản đánh giá là không có tinh thần cách mạng, hoặc chỉ “cách mạng 3
ngày rồi bỏ” (lời Mao Trạch Đông), nếu cần những người này và có thể thuyết phục
thì họ chỉ cần giữ ở các tổ chức ngoại vi. Cán bộ Cộng sản là những người biết
tin và trung thành với Đảng và lãnh tụ, một người tên A tên B nào đó cũng được
miễn làm đúng theo lệnh Đảng và với phương pháp họ được huấn luyện, người này sẽ
kiên trì hoạt động. Lúc đầu họ không cần những chức vị phô trương mà cần nắm
các vị trí làm then chốt, không tiếng tăm, không lợi lộc mà những phe chính trị
khác thường bỏ lơ, rồi theo năm tháng, vượt qua các thăng trầm; những người Quốc
gia không có lãnh đạo, làm việc theo tính tự phát theo tâm hồn yêu nước của
mình, có lúc nản chí bỏ cuộc hoặc vì thiếu phương tiện hoạt động. Trong khi đó
người cán bộ Cộng sản có lãnh đạo ngầm, có được cung cấp phương tiện, họ cứ tiếp
tục làm việc và trong thời gian lâu dài họ nắm được tất cả và khi cơ hội đến
cho toàn thể mọi người, thì họ dù thiểu số vẫn là người đủ điều kiện để nắm sự
lãnh đạo quần chúng nhất. Trong khi đó người Quốc gia ngoài tấm lòng son sắt
không có một cái gì khác để làm phương tiện chiến đấu.
* Chương trình hoạt động ngày thứ sáu là
bình bầu cá nhân theo kết quả cải tạo trong tuần. Thứ sáu cuối tháng thì bình bầu
kết quả cải tạo trong tháng. Từ kết quả đó qui định mức ăn:
- Hạng cải tạo xuất sắc tiêu chuẩn
18kg/tháng.
- Hạng cải tạo tốt tiêu chuẩn 16.5kg/tháng.
- Hạng cải tạo trung bình tiêu chuẩn 15kg/tháng.
- Hạng cải tạo kém tiêu chuẩn 12kg/tháng.
- Hạng cải tạo xấu tiêu chuẩn 9kg/tháng.
Tiêu chuẩn bình quân mỗi người 15kg vừa cơm
vừa chất độn. Để kích thích lao động và gây mâu thuẫn, trại buộc tù phải bình bầu
mức ăn, làm thế nào để lấy phần ăn của những người bị bầu kém và xấu để đập vào
phần phụ trội cho người được bầu xuất sắc và tốt. Cộng sản giáo dục đấu tranh
không khoan nhượng, tiêu diệt tính vị tha và lòng rộng lượng của con người, biến
cán bộ Việt Cộng thành người bần tiện và hà tiện, chúng không cho ai quyền lợi
mà không đòi điều kiện. Trên bình diện lớn của đất nước xã hội thì đảng Cộng sản
muốn tước đoạt tóm thâu hết của cải vật chất của xã hội. Nếu nói đảng Cộng sản
là một Đảng cướp lớn nhất thì không ngoa một tí nào. Trong phạm vi một trại cải
tạo, người tù không còn gì để tước đoạt nữa, ngoài phần 15kg lương thực nấu
chín mỗi tháng mà chúng vẫn tước đoạt của người này cho người khác. Tiêu chuẩn
15kg lương thực nấu chín đã quá ít vì chỉ có 9 hay 10kg lương thực sống; tiêu
chuẩn này còn bị trừ đi phần ăn cắp bớt của thủ kho, của cán bộ nhà bếp, phần
phụ trội cho những người được ưu đãi như đội nhà bếp, toán làm lẻ, chăn nuôi.
Chén cơm độn nhỏ còn phải bớt đi một muỗng vì nồi cơm chia không đủ đồng đều một
chén cho mọi người. Do đó những người bị ăn phần kém và xấu bị mất phần ăn buổi
sáng và bớt phần ăn trưa. Cảnh chia cơm thật khó chịu, một người chia mà hàng
chục cặp mắt ở bên ngoài lom lom dòm ngó. Khi đói con người bị hạ thấp như thế
đó. Có người nhìn người chia để canh chừng vì nghi ngờ người chia không công
bình, nhưng cũng có người đứng nhìn để chia xong lấy nhanh phần ăn để nuốt
nhanh cho lẹ rồi nằm nghỉ ngơi. Không có ăn no, phải dưỡng sức bằng nằm, nằm để
nghe tiếng rột rạt trong bao tử để thấy cái cảm tưởng là dường như mình đã ăn.
Có anh chờ chia xong để vét láng sạch những hạt cơm còn lại trong nồi. Có những
đội chia xong phải bắt thăm để bảo đảm sự công bình, nhất là trong 4 dịp ăn lễ
có thịt mỗi năm. Người tù cải tạo vấn đề lớn nhất là đói ăn nên nói mãi đến cái
ăn dù là phần ăn để sống cầm hơi lây lất qua ngày; phần ăn không phải là cơm mà
phần lớn là khoai mì, khoai mì khô, khoai mì kỹ nghệ H-34 có chất độc, ăn vào một
thời gian ai nấy sưng hai hạch nước miếng, nở hai mang tai, mặt mày biến dạng
trông xấu xí.
Ra bãi cuốc đất lượm được con sùng, con dế,
con mối lén bỏ vào mồm dùng nước miếng rửa phun đất ra ngoài rồi nhai nuốt để
có chất tươi; anh Nay Luett ngồi nấu nước cho đội đã nướng cả sâu róm ăn. Cóc,
nhái, chuột, thằn lằn, rắn mối là loại protein cao cấp không dễ gì có trong các
ruộng đất khô cằn miền Trung. Chỉ có ruồi, dòi, muỗi mòng, vắt là nhiều nhưng
loại này không ăn được. Ở phân trại B, tù nhân hình sự tên Nhơn đã thử ăn 500
con ruồi, nhưng sau đó bị ói mửa gần chết, nên không ai dám thử nữa.
Buổi trưa mỗi người tù phải đập 500 con ruồi
để nộp. Tù đói quá nên ăn mọi thứ côn trùng và có người thử ăn ruồi thật khủng
khiếp và khó tin. Nói về tù Cộng sản cứ xoay quanh cái ăn vì cái ăn quá quan trọng,
tù lúc nào cũng đói. Người đang no thì khó thông cảm được. Nhưng chỉ xa nhà 10
ngày đã thèm cơm, mới bịnh tuần lễ nhịn ăn đã thấy thèm đủ thứ thì thông cảm
cho sự thèm ăn của tù, suốt cả chục năm chỉ ăn khoai mì và nước muối, khẩu phần
tiêu chuẩn không đủ no.
Ăn uống thật kham khổ, thật ít, làm lao động
thật nhiều, học tập duy trì đều đặn mỗi đêm, tập thể dục đều đặn mỗi buổi sáng,
tù phải trực gác mỗi đêm, đi làm phải đi chân đất, hạn chế tắm rửa, giam kỷ luật
đến chết, còng một chân, hai chân, hai chân chéo nhau, hai chân chéo có kề thêm
vòng sắt giữa hai chân. Đó là những biện pháp trại Kiên Giam Xuân Phước dành
cho tù nhân chính trị. Đào ao nuôi cá là công tác nặng nhọc nhất vì đất đồi cứng,
dụng cụ thô sơ và chỉ tiêu cao. Một thước khối đất chìm mỗi ngày mỗi người vừa
đào vừa khiêng đi đổ, cứ mỗi toán ba người làm chung nhau, một người đào hai
người khiêng đất, chỉ có tù Việt Nam Thương Tín và hình sự là hoàn thành mức
khoán, họ là những người tù biết tuân hành làm việc mà không suy nghĩ, họ vừa
đào vừa gánh hoặc đội đất đi đổ. Những người tù “Việt Nam Thương Tín” phải chứng
tỏ mình là người sẵn sàng “về nước xây dựng quê hương”, trước khi xây dựng quê
hương thì xây dựng trại. Cán bộ giáo dục đã mớm cho họ để họ có những quyết tâm
như vậy, mỗi đợt thi đua họ đều làm quyết tâm thư xin vượt mức khoán. Những người
hình sự thì có sắc thái khác, vào tù họ phục tùng cán bộ vì cán bộ là người có
quyền uy. Tù hình sự đội viên rất khổ, họ vừa chịu đòn vọt của cán bộ, vừa chịu
đòn vọt của đội trưởng của trật tự thi đua, và chịu sự xài xể của tổ trưởng.
Thân Yên thấy tù cải
tạo phân trại E không hoàn tất chỉ tiêu nên tổ chức nhiều đợt thi đua, ra quân
lao động có kèn trống, trình diễn âm nhạc tại hiện trường lao động. Người tốt
việc tốt được đọc lên mỗi đêm trên máy phóng thanh, đội tốt được cờ đỏ, đội xấu
cờ đen, người tốt được chấm điểm đỏ, người xấu điểm xanh, kết quả dồn vào chia
xẻ mức ăn theo 5 hạng đã nêu trên. Mặc các đội thi đua, phân trại E chỉ lẻ tẻ
xuất hiện vài cá nhân nổi bật như Phan Gi On, Phạm Quốc Bảo, Tăng Xuân Bá, Đoàn
Đô, Huỳnh Cự, Nguyễn Văn Lạc, còn tất cả không ai bảo ai, không chỉ huy lãnh đạo,
nhưng mọi người đều hiểu là phải làm thế nào để duy trì mức độ lao động vừa phải,
chịu đựng được.
Đã đến năm thứ 4
trong tù, tù nhân đã ý thức được hoàn cảnh và thái độ đúng đắn không còn ai tin
tưởng vào những hứa hẹn suông của Cộng sản. Khi cần thì chúng hứa hẹn, lúc
không cần thì ném bỏ, giam cầm kỷ luật, nhiều anh em thời gian đầu tin chính
sách cải tạo, thì nay họ đã sáng mắt.
Tù được chỉ định đào 3 chiếc ao, cái lớn nhất
được gọi là “ao cá Bác Hồ” nuôi cá bán gây quỹ cho đoàn thanh niên, ao thứ hai
trung bình để cải thiện bữa ăn cán bộ, ao thứ ba bé hơn cải thiện đời sống tù
nhân.
Tiền mua cá giống là tiền ăn của tù, loại
cá trắm và cá rô phi được nuôi bằng lá khoai mì, phân heo bò và ruồi. Dĩ nhiên
mọi công tác đều do tù làm. Việt Cộng không hề bỏ ra một xu. Không bỏ vốn mà muốn
nhiều lời đó là đặc tính của cán bộ Cộng sản, từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất.
Cá nuôi với những loại thực phẩm đặc biệt đó rồi cũng lớn, dù chậm. Đến ngày lưới
cá thu hoạch, hai ao cá được tù tát cạn bắt sạch, cán bộ chỉ thị tù phải nộp tất
cả những con cá tự sinh ra trong ao tức là ngoài loại cá giống nuôi thả, như cá
lóc, cá trê, lý do được giải thích rõ ràng, tù sẽ được thụ hưởng ao cá dành
riêng, thu hoạch sau. Cũng đến ngày bắt cá cho tù cải thiện nhưng lần này ao
không được tát nước. Trưởng Ban Thi Đua đem lưới về rồi chọn vài người tù lặn
xuống ao lưới cá. Lặn hụp cả buổi vẫn không bắt được con nào, phân trại trưởng
Lê Đồng Vũ nói lớn: “Các anh trại viên kém quá, muốn tìm bao nhiêu bác sĩ, kỹ
sư cũng có, mà tìm người bắt cá để ăn thì không có”. Việc bắt cá diễn ra nhiều
lần vẫn không bắt được con nào mà cá thì hết dần vì mỗi khi vào phòng khóa cửa
lại thì cán bộ xách lưới đến bắt.
Một hôm tôi hỏi Hiên, người tù phụ trách lặn
bắt cá: “Sao cậu lặn hụp mãi mà không bắt được con cá nào vậy”. Hiên trả lời:
“Đ.M., bắt cho mà chết à, tôi được lệnh lặn xuống giở lưới cá ra đấy”. Hiên là
Thiếu úy Công an người Bắc, can tội bán bãi cho tổ chức vượt biên bị tòa Đồng
Nai xử 12 năm. Tiêu chuẩn ăn lễ có thịt 4 lần trong năm cũng bị tước đoạt bớt.
Tiền ăn của tù nhà bếp mua lợn giống nuôi ăn dịp lễ. Ăn xong dịp Tết, nuôi ăn lễ
1/5 và sinh nhật Hồ Chí Minh, ăn lễ 1/5 xong nuôi ăn lễ Quốc Khánh, ăn lễ Quốc
Khánh xong, nuôi lợn ăn tổng kết cuối năm và dịp Tết. Lợn nuôi bằng rau và cơm
cháy của nhà bếp tức là phần ăn của tù. Đến gần ngày lễ con lợn lớn và mập mạp,
tù mừng và trông chóng tới lễ, nhưng gần ngày hạ thịt lợn thì bỗng nhiên tù thấy
con lợn nhỏ lại. Thì ra đội chăn nuôi đã nhận lệnh nhận con lợn nhỏ của phân trại
trưởng đem xuống đổi. Khi làm thịt cán bộ quản giáo đội chăn nuôi được nhận cái
đầu cắt đến tận vai, đó là công của hắn đã đốc thúc việc chăn nuôi, cán bộ quản
giáo nhà bếp được hai ký thịt nạc, cán bộ trực trại đều có quyền lợi chia phần
- phần những người tù được ưu đãi hơn trong phận sự nấu cơm nấu nước được quản
giáo nhà bếp thông cảm cho tăng tiêu chuẩn, phần của trật tự thi đua. Cuối cùng
lễ nào cũng giống nhau, tiêu chuẩn của mỗi người tù còn lại một mẫu thịt bằng
ngón tay cái; nhưng đối với tù có còn hơn không, lâu lâu được một tí mỡ.
Lao động, sinh hoạt học tập, đọc báo, chiếu
phim, trình diễn văn nghệ được thực hiện liên tục, chiếm hết thì giờ của tù và
nhồi nhét vào đầu óc những người tù những lý luận Mác-xít sơ đẳng, phim ảnh, tuồng
tích bôi bác chế độ cũ nhất là hình ảnh người lính Cộng Hòa, càng làm cho tinh
thần chống Cộng củng cố thêm. Phim thần thoại tuyên truyền của Liên Sô rất kém
về kỹ thuật, nghèo nàn về nội dung và hình ảnh. Không tưởng tượng được Liên Sô
là một siêu cường đứng đầu thế giới Cộng sản mà sản phẩm phim ảnh họ kém cỏi
như vậy, không hơn phim loại tồi của Việt Nam và kém cả phim Ba Lan, Tiệp Khắc
và các nước Tây phương. Phim ảnh, văn chương nghệ thuật là sản phẩm của nền văn
hóa của xã hội con người, như vậy chế độ chứng tỏ Cộng sản không những không giải
quyết được nhu cầu vật chất của xã hội, mà độc tôn tư tưởng trong giáo điều
Mác-xít đã hạn chế sự phát triển của con người, tiêu diệt sáng kiến và khả năng
sáng tạo nghệ thuật. Tù nhân không thích xem các buổi trình diễn văn nghệ chiếu
phim dù đời sống trong trại tù đơn điệu, buồn tẻ, thô bạo ở mức độ sơ khai; tù
nhân còn tiếc vì mỗi lần có đoàn văn nghệ, chiếu phim, mọi phí tổn tiền ăn của
tù phải chịu trang trải nên phần ăn ít ỏi là gạo bị cắt bớt, bữa ăn chỉ còn lại
khoai mì. Nhìn thấy khoai mì đã phải sợ mà vẫn phải cố nuốt cho trôi mà sống
qua ngày, làm lao động quần quật suốt tuần. Buổi sáng chủ nhật phải đi làm công
tác xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra những buổi lên lớp học tập, viết thu hoạch
không thì giờ nào được ngơi nghỉ. Mỗi tuần chỉ còn lại buổi chiều chủ nhật. Những
buổi lên lớp thì không ai lạ gì, những đề tài cũ rích được nhắc đi nhắc lại
mãi, những từ ngữ nhàm chán mà cán bộ chưa nói ra tù nhân đã biết. Tù được giải
nghĩa về ý nghĩa của trận du kích trên không “của quân đội và nhân dân miền Bắc
anh hùng”. Trong buổi học tập toàn trại rất trang trọng tại hội trường có Thân
Yên chủ tọa, chính ủy trại, cán bộ Nghị, Bí Thư Đoàn Thanh Niên đã giải thích:
”... quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã đánh thắng liên tục những đế quốc lớn
nhất, và là kẻ thù của loài người tiến bộ trong đó đế quốc Mỹ là tên hung nô thời
đại, tên đế quốc đầu sỏ hung hãn nhất. Nghệ thuật đánh du kích của quân Việt
Nam là thần thánh đã đi vào tư tưởng quân sự của thế giới, nhưng du kích trên bộ
thì không còn lạ gì, mà Bác Hồ vĩ đại và Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh đã đề
ra chiến thuật du kích trên không. Trận du kích trên không đã đánh thắng không
lực Mỹ hùng mạnh nhất thế giới. Đánh hạ pháo đài B-52 và những phi cơ con ma của
Mỹ bắt sống hàng ngàn tên giặc lái... ‘Phi công Việt Nam anh hùng’ của ‘quân lực
Việt Nam anh hùng’ đưa phi cơ lên những đám mây, tắt máy chờ sẵn phi cơ địch
bay qua, bất ngờ nổ máy trở lại đè B.52 của Mỹ từ trên không xuống bắt chúng phải
hạ cánh...” Tù nhân ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng tưởng tai mình nghe nhầm, tưởng
là nằm mơ, nhưng là sự thật, đang học tập ở hội trường, thuyết trình viên cán bộ
Nghị vẫn thao thao thuyết giảng, trại trưởng Trung Tá Thân Yên ngồi ngay ngắn,
thỉnh thoảng gật gật đầu đắc ý và cả đoàn cán bộ ngồi trên sân khấu hội trường
đều nghiêm trang. Không phải tên cán bộ Nghị đang diễu, mà hắn đang nói thật,
và cả đoàn cán bộ cũng đang tin là trận du kích trên không là thật. Chỉ có những
tù nhân biết mình đang nghe con vẹt lập lại một cách ngu xuẩn tài liệu học tập
ngu xuẩn của đảng đưa xuống, và những tên người máy ngu xuẩn đang ngồi nghe và
tin một cách máy móc.
Chúng tôi còn được học những bài học về tiềm
năng kinh tế của Việt Nam, một nước Việt Nam “tiền rừng bạc bể”, một nước Việt
Nam mà cái gì cũng quí giá. Cán bộ giáo dục trại Trung Úy Hanh đọc cho chúng
tôi nghe “tài liệu lịch sử” cho biết thời Pháp thuộc, người Pháp đã biết quí
phân người Việt Nam nên phơi khô đóng thùng mang về nước. Hắn cũng kể cho chúng
tôi nghe là hiện tại ở miền Bắc có một món vô cùng quí giá, đó là khói của nhà
máy ciment Hải Phòng, nước Nhật đã thương lượng với chính phủ Việt Cộng để mua
khói đó, nhưng chính trị bộ đã quyết định không bán vì biết là Nhật mua khói đó
để về chế tạo bom nguyên tử. Cán bộ nói hăng say, cán bộ nghe thích thú đắc ý,
tù muốn cười to lên mà không dám cười, chỉ đưa mắt nhìn nhau và cùng cảm thấy ức.
Trình độ cán bộ Cộng sản như vậy mà họ đã thắng mới thật đau.
Để kích thích lòng yêu nước và tự ái dân tộc,
phục vụ chiêu bài giải phóng dân tộc, đảng Cộng sản dùng Viện Sử học để viết lại
lịch sử một cách bừa bãi. Họ dìm dân chúng và cán bộ của họ ở trình độ hiểu biết
thấp nhất, để tài liệu tuyên truyền của họ được nghe, tin và nói lại như con vẹt.
Cán bộ chính trị chỉ biết nói theo đúng tài liệu học tập. Nói mãi, học mãi và
tin điều mình nói, tin điều mình học, tin vào lãnh tụ và rồi chỉ biết tiến tới
chiến đấu với kẻ thù như một thứ người máy được lên dây cót, như một thú vật bị
trích thuốc kích thích. Trình độ của cán bộ giáo dục ngành công an cấp sĩ quan
mà tin du kích trên không là phi cơ tắt máy nấp vào trong mây, tin khói ciment
là của quí chỉ Việt Nam có và có thể dùng chế tạo bom nguyên tử.
Yêu nước, hãnh diện vì lịch sử dân tộc, có
một niềm tin là dân tộc trường tồn và vững mạnh trong cộng đồng thế giới là điều
đúng đắn nhưng khoa trương quá đáng về tiềm năng dân tộc một cách lố bịch là điều
chỉ có Cộng sản Việt Nam làm và thành công trong điều kiện người dân bị dìm
trong sự dốt nát. Trình độ giáo dục được nâng cao của người dân miền Nam; sự phổ
quát kiến thức và tin tức khoa học kỹ thuật, những biến chuyển nhanh chóng của
chính trị kinh tế thế giới mà người dân miền Nam đã hấp thụ được, đã làm cho kế
hoạch tuyên truyền và giáo dục người dân của Cộng sản hoàn toàn thất bại. Trước
mắt người dân miền Nam cán bộ Cộng sản trở thành một người kỳ quái, nói dai,
nói dở, nói dài, nói dối. Mọi thủ đoạn lừa bịp dân chúng Việt Nam đều sẽ thất bại.
Không riêng gì Cộng sản, những chính trị gia bắt chước theo Cộng sản dùng thủ
đoạn để lừa bịp dân chúng Việt Nam cũng bị dân chúng nhìn như tên hề diễu dở.
(còn tiếp)
*Mời đọc những phần trước:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét