Hiển thị các bài đăng có nhãn Cái Trọng Ty. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cái Trọng Ty. Hiển thị tất cả bài đăng

25.2.11

Bên dòng Trà Bương




tuyệt đường Kỳ Lộ lưu đày
kiếp tù lỡ vận kéo cày vỡ hoang
trông xa tre gẫy măng tàn
xó rừng Xuân Phước úa vàng bãi dâu

hương tan mùi Tết cơ cầu
vàng mai ngõ trước Em đâu dấu hài
vườn Uyên phương ấy mùa phai
nhớ người úa sắc dặm dài sóng mây

bỗng khi không vướng tù đầy
mộ tình thiên lý nhìn cây nhớ rừng
tù qua đây đất rưng rưng
nghe trong lao nhục mấy từng khổ đau

kiếp tằm giăng mãi tơ nhàu
Em chìm khổ nạn bạc màu phế nan
thôi Em đường rẽ xế tàn
miếng cơm manh áo võ vàng xót xa

trông lên hạnh phúc trăng tà
trông sao Khuê đã mù xa bến trời
lạnh bờ cát ẩm mù khơi
nghe hơi Thu tận tơi bời dáng Thu

đêm về bóng đổ âm u
rừng Thu lá rụng xuân tù áo quan
hết trăm năm cuộc chiến tàn
khói mùa lửa đạn cháy vàng chiến y

CÁI TRỌNG TY


(nguồn: http://caitrongty.wordpress.com)

24.12.10

Cuộc thảm sát thầm lặng



tưởng niệm 30 năm
các Anh Hùng của A20
thoát trại bị thảm sát.
(13/11/1980)

Cuộc thảm sát thầm lặng

Tưởng niệm:
cố Đ/u Đặng Lý Thông -trường SNQĐ
- Tr/u Nguyễn Duy Đức-BĐQ
- Tr/u Nguyễn Ngọc Bửu-TQLC
- Tr/u Trần Lưu Uý-phi công F.5
- Tr/u Nguyễn Hồng Quân-nhà báo QĐ
- Tr/u Nguyễn Văn Minh-TQLC
Gửi đến Lê Thái Chân (kẻ sống sót)

năm ấy nơi núi rừng Xuân Phước
nơi mật khu Kỳ Lộ cuộc chiến tàn
se lạnh mùa đông
khí rừng ẩm ướt
đoàn tù phong phanh áo rách xác xơ
cuốc đất trồng khoai
lao động khổ sai
đi chân đất chốn gai rừng đá sỏi
trong lao nhục chẳng hề khuất phục
vẫn hiên ngang thách thức bọn cai tù
sau bao đợi chờ
bi kịch xảy ra
làm xáo động nếp đời tù tàn tạ
cướp súng kẻ thù
đập đầu quân dữ
những Anh Hùng thoát trại
giữa trùng vây
cai tù hốt hoảng
súng đạn cướp cò bắn loạn vào chân
chúng nuốt hận chửi thề
bọn phản động
âm mưu trốn tù chống lại nhân dân
nhân dân là ai
miếng khoai mì đang nhai
muốn nghẹn
chúng tôi kẻ sống còn một thời tao loạn
nhớ chuyện tù xưa
món nợ vẫn còn

******

một ngày cuối năm bảy sáu
nơi núi đồi long Giao
vào trưa Chủ Nhật
bạn tù tán gẩu chuyện nắng mưa
Đức buồn bã nói về Mẹ già bệnh hoạn
cùng cô em gái ở phố Hàng Bè
tận xứ Huế xa xuôi
vừa đến thăm nuôi hôm trước
một sáng mùa đông sương rừng tối mịt
trên đồi cao su Long Khánh
vợ Minh râu thất thểu tìm chồng
đứng chết lặng từ xa
khi đoàn tù vừa ra khỏi trại
tháng tám bảy chín trong trại Tân Hiệp
chúng tôi bị bịt mắt còng tay
ném lên xe bít bùng chuyển trại
bởi biến động mùa Gíáng Sinh vùng dậy
năm bảy tám nơi trại tù Suối Máu
trong khám Chí Hòa u tối
Trần Lưu Uý
đứng buồn bã nhìn song tù lạnh lẽo
chàng phi công F.5
nhớ lại những phi tuần đan lưới đạn
nhớ khói rừng xa lượn cuối trời
tháng chạp mưa rừng Xuân Phước
cuốc đất trồng khoai
nghe Nguyễn Ngọc Bửu kể chuyện quê nhà Tây Ninh
người cha già lặn lội đường xa
tìm thăm con nơi núi rừng heo hút
chàng sĩ quan võ bị khoá 25
sinh bất phùng thời
đất nước nhiễu nhương

******

cuối năm tám mươi
tôi bị cùm biệt giam tại A20
tên tù hình sự thi đua
cho xem bức hình oan nghiệt
"bạn các anh chết hết rồi"
bàng hoàng đau đớn
hôm ấy nắng chiều
Bửu ôm khẩu AK nằm sấp
chúng bắn Anh từ sau lưng
nhìn xuống rừng chồi bát ngát
phía sau chàng những thi thể đồng đội
Đức. Quân. Thông. Minh. Uý
máu nhuộm đất rừng
manh áo rách phất phơ trong gió
sau mười bốn ngày vượt thoát
giữa núi rừng biên giới
chàng pháo binh Dù Lê Thái Chân
kẻ sống sót
ra toà án nhân dân
lãnh mười tám năm biệt xứ

******

Họ. những Anh Hùng tuyệt lộ
tìm cái chết như tìm đất sống
như tặng vật cuối cùng
đến từ vô vọng
ôi đất nước tôi
đã một thời dã man hoá thú
những đứa con ưu tú
một đời hy sinh cho lý tưởng Tự Do
đã chết thật oan khiên

CÁI TRỌNG TY
 11/2010

14.11.10

khúc tù ca


ra khỏi trại tù ngỡ ngàng hụt hẫng
quê hương lầm than đoạn đời cơ khổ
gặp lại mày một thời thân áo khố
những ân tình cũ thoáng bơ vơ

đất Huế của mày sao còn bỡ ngỡ
đau xót nhìn cha sống đời bại liệt
những năm tù không một lần được biết
chớp mắt tủi mừng héo hắt bờ môi

đời mẹ nhọc nhằn ngấn lệ bồi hồi
con đã về đây mừng vui tê dại
dưới mái tranh xưa tấm tình thân ái
xóm giềng gần bè bạn thuở xa xưa


mười năm lưu đày trông vời cố xứ
lê chiếc nạng cùn vượt đường ra bắc
đất tù đày lũ ma đói thảm thương
núi đồi hoang vu suối sông dằng dặc

lòng người đổi thay chẳng hợp môi trường
những chị những em xem chừng lạnh nhạt
núm ruột rà quặn thắt đau thương
một gã cùng đường như tên khất thực

vợ chồng mày đêm mặn nồng ân ái
sắp lại đời chung tính chuyện tương lai
những xa cách mười năm cũng đã
mới qua đi cơn ác mộng hôm nào

rồi cuộc đời thường tai ương điên đảo
đói rách lầm than đâu chuyện dửng dưng
mày lại bắt đầu cuộc đời lam lũ
đạp xe thồ lượm nhặt mớ lu bu

nuôi vợ nuôi con ngày khoai ngày củ
vợ tuyệt vọng bởi chồng vô sản
rách rưới bi thương đành dứt sống chung
nàng cũng rất buồn bỏ về Phan Thiết

Huế nắng Huế mưa nặng tình da diết
mày cô đơn chăn chiếu rộng một mình
bữa đói bữa no từng bữa mong manh
cha mẹ qua đời quê nhà tách biệt

gặp em đây cuộc tình sao thê thiết
cũng rộn ràng như thuở mới yêu
xin chút môi em có gì mà ngại
duyên nợ cuối đời năm tháng có bao nhiêu

CÁI TRỌNG TY




14.9.10

Qua Sa Huỳnh nhớ Cái Trọng Ty




Trưa ghé Sa Huỳnh còn nghe biển hát
cát rất mịn màng sao bước chân đau
Trường Sơn mùa tan cơn nóng hạ Lào
khum tay mồi thuốc nhớ người xa xứ


Thuở chiến chinh người từng qua chỗ đó
nóng của cát vàng, nóng của rượu cay
áo mặn mồ hôi, phủi nợ một ngày
Sa Huỳnh đợi có lần người quay lại


Một chút gió phất phơ vài ngọn cỏ
tiếc bước ai qua, Sa Huỳnh buồn hiu
trên đá xanh còn lại lớp rong rêu
trời tháng chín mây đùn quanh đèo ải


Một ngụm rượu xanh thêm màu nước biển
thêm một ly nhớ người đến rồi đi
nắng miền Trung còn đó dấu biên thùy
của vàng đá ngày xanh vừa mới chết


Trưa ghé Sa Huỳnh đứng trông biển lặng
đìu hiu như thân thế một người quen
lớp chiến y khuất trong núi cũ mèm
buồn như gió thổi về từ phía biển

nguyễn thanh-khiết
12-09-2010




29.8.10

Đêm trong vịnh Vũng Rô


chiều Vũng Rô
nước một màu xanh thẳm
sóng êm đềm vỗ mãi
vịnh buồn tênh
đồn đóng chênh vênh
dọc đường huyết lộ
du kích về đây pháo vào chân núi
nghe rào rào như sóng đập ghềnh hoang
trời tháng chạp
biển khơi mù sóng
chiều tối rồi
biển núi sạm màu
đêm tối rồi
biển mờ bóng vạc
điệp một màu
mây vạc hoàng hôn
dặm đường cố xứ
sóng dạt vào bờ áo lụa lân tinh
quạnh hiu bờ bãi
lớp sóng trước
lớp sóng sau
vượt lên cao chới với
như vạn cánh tinh hà
rồi rụng xuống một trời tơi tả
trong hồn tôi
tựa đổ vỡ mong manh
nhìn lại một đời
mây mây khói khói
mây mỏi khói mòn
dã tràng xe cát
cát mệt nhoài lặng lẽ
sóng hoang vu


****

Cái Trọng Ty

 

 

25.8.10

bến sông Cai Hạ



trời tháng ba
theo quân rời biên trấn
ghé tạt bên đường
quán lá liêu xiêu
cửa khép tiêu điều
bốn bề đất chết
đứng bơ vơ súng nổ bìa rừng
tháng ba bỏ ngõ cao nguyên
phố phường bát nháo
lớp sóng người tháo chạy quàng xiên
dặm đường vô vọng
chạy về đâu
rừng sâu vây khổn
buổi chàng đi
thưở nón xanh rừng úa
bước cùng đường tử biệt nghẹn ngào
chàng đi vườn ổi mùa ươm nụ
hoa thơm dìu dịu
mảnh vườn xưa
hôm qua đầu ngõ
hoa phượng rũ
rơi lạnh hiên chiều
xác đỏ buồn hiu
nhớ hôm triệt thoái, quân di tản
bạn chàng chết gục lên tháp súng
vuốt mắt người
đốm lửa cháy hờn căm
gió rừng xoáy lốc
qua ngàn dặm
hồi kèn vĩnh biệt
kẻ hào kiệt chết theo thành
mưa sụt sùi chiều bến sông Cai Hạ
trước mặt trùng trùng
dặm người nhếch nhác
con đường vô vọng về phương Nam
mưa như đổ nước chiều tối xạm
tiếng gọi hồn nghe gió thoảng bên sông

Cái Trọng Ty




6.8.10

Huế trong tranh Dương Phước Luyến



Bình phong Long Mã*
màu hoàng thổ
trường cũ bóng chiều nhịp thở trong tranh
thu phai sắc Huế vàng Ấn tượng
vàng một Vương Triều
nhạc ngựa phiêu diêu
màu nước kiêu sa nắng vàng thuở ấy
góc Khiêm Lăng nét cọ phôi pha
màu nắng chiều xưa
tảng màu tương phản
mắt Huế diệu kỳ**
ẩn một trời giông
những trái ngô đồng một thời trẻ dại
những tượng đài nâu màu lịch sử u sầu
ngược giòng cố thổ đêm trăng núi
Em với trăng đầy một bến sông
trong tranh chuyển một thời luân lạc
Em ngắm đời trôi Phượng Hoàng thành
Hạc vàng đổi sắc
trăng Công Chúa
nàng về trong tranh
người Họa Sĩ lưu vong
hôm kia khoát nước lên cầu cũ
ướt vạt áo dài lạnh nhũ hoa
thức trắng tìm Em mờ biển phố
gió Kỳ Đài áo lụa ai bay
gió bay làm nón che nghiêng mắt
Trời vào Thu Phượng ngủ trong tranh
tiêu điều sông lạnh xanh bờ vắng
giọt lệ vàng khô lem hạt màu
những ai giày mỏi chưa về kịp
vọng tiếng đàn
Nhị-Nguyệt hương trầm
khúc Trường Lưu Thuỷ
khúc Trăng Oán
rớt xuống gam màu hạt Luyến sương

Cái Trọng Ty


*** tên một bức họa của DPL



23.7.10

Đêm uống rượu nghe Biên cương hành



(gửi Phạm Ngọc Lư)

Biên cương hành
chí ngươi hồ thỉ
ngôn ngữ trong Thơ di lụy một đời
ngươi về một cõi nhà tan nát
tâm tư ưu uất tháng năm trôi
ngồi đây mời bạn chung rượu đắng
kẻ sĩ Biên cương giày cỏ qua sông
đã bao năm một ngày thoáng gặp
gió phi trường Bình Định cát bay bay
vội vàng tay vẫy không hẹn lại
thuở ấy bụi đường lấm tai ương
tôi theo trận mạc về An Phú
thời Xuân Thu
sớm biển chiều rừng
bước đi lửa tình như muốn cạn
nhìn lại bóng mình rách rưới tang thương
Bạn tôi chí lớn như gươm bén
chảy máu đời Thơ buổi chợ tàn
ai hiểu cho ngươi đời thất chí
chén rượu này đối ẩm cùng ai
đêm xưa gác trọ vài ba đứa
vui một phùa sảng khoái tan hàng
nay hong bếp cũ lò than lạnh
nhìn đăm đăm vách lá chơ vơ
chỉ thấy tháng ngày trôi lớp lớp
thấy đời mình quạnh quẽ vào ra
thấy bóng mình đen
đêm không sao mọc
nhớ bạn đêm về đau như cắt
vết thương xưa dao nhọn cứa vào tim
ta qua cầu nhìn lại sông khập khiểng
máu theo sông chảy nhịp luân hồi
đêm nay ngâm lại giòng Biên trấn
ngôn ngữ trong Thơ mọc ở Phương Đông
Thơ tràn trên những đồng hoang hóa
hoa Quỳ cô đơn nở giữa núi ngàn
mây thành kìn kịt từ đất khổ
vó ngựa Biên cương bốc bụi mù
cung đàn xưa ai người tri kỷ
trên chiếu bạc đời
nỗi đắng cay
buồn bã đêm xuân đành rơi bút bạc
giông bão đời xoay
tâm muốn sụm
trang Thơ khép vội
khúc oan tình
hình như gió thổi qua liếp cửa
vi vu nghe tiếng gọi trùng khơi
gọi ai nơi tận cùng sơn thủy
ai người khách lạ gió muôn phương
ta về bạn hỏi từ đâu lại
thấy khói tàn tro phủ tượng đài
thấy rơi giọt lệ sôi trên bếp
dấu giày thô đời ở trọ quê nhà

Cái Trọng Ty
tháng Bảy, 2010



6.7.10

chiều Sa Huỳnh năm ấy




Nắng quái chiều giông
vàng bãi sậy
lá qua sông tàn uá
trôi lênh đênh
tôi theo gío chướng đời xuôi ngược
đất cũ bạc màu
Em bỏ quê đi
tôi nghe sóng vỗ
buồn như sóng
lặng lẽ một dòng tận biển khơi
đêm trên biển
đêm đen mù biển chết
chìm nổi một đời
thời hổn mang
tiếng ai hát vang vang
vọng về Lương Quán
thuyền qua Đại Lược ngược Kim Long
ký ức rối mòng
cờ tàn sóng giạt
mơ thuyền bến cũ
ngóng đời xa
chiều qua đây nghe tháng ngày tơi tả
ngồi bên sông
nghe nước chảy về đâu
trong tận cùng
nghe rã rời hạnh phúc
tôi còn gì
cánh chim biển mù tăm
bên rừng dừa chiều Sa Huỳnh năm ấy
bóng Em dài ướt đẫm bóng dừa nghiêng

Cái Trọng Ty


về lại Mang Yang


Hãy nghe âm thanh của một cánh A 20 trong những xót xa vô cùng tận của một đời người, và quá khứ như những tiếng ru  trong nỗi nhớ từng ngày. Cánh chim A 20 một thời oanh liệt.
Cái Trọng Ty.........., đó chính là Cái Trọng Ty


về lại Mang Yang


đây Mang Yang chuyến xe chiều lạc lõng
mình tôi qua ngơ ngác giữa lưng đèo
Ai réo gọi
mơ hồ rừng im lắng
trông núi ngả màu nắng quái dài lê
về An Khê
gío gào trong rừng lá
nghe âm âm rờn rợn tháng năm xa
chén rượu này đêm xưa mày uống cạn
khúc hồ trường ngâm một đêm mưa
cây cổ thụ xác mày không bia tạc
đất oan trầm đất lắm tai ương
đời trơ ám
trời cong chiều tối xám
trời chao nghiêng
dài qúa bóng tôi nghiêng
tim chợt nhói gió gào cơn lốc xoáy
trời âm u đồng vọng cuối rừng thu
nghe vó ngựa Phương Nam về Tây Bắc
trống ngủ liên dồn nhịp tiếng quân xa
tôi bước chậm vòng quanh đồi cỏ dại
những cây gìa dấu đạn nắng mưa phai
giày lính rách bươm
giòng đời cơ cực
tôi ngồi đây khóc bạn bóng lưng đồi
bóng xa khuất những đêm dài phố núi
dấu giày xưa in biếc những mùa hoa
màu kỷ niệm
những sắc buồn đá tảng
mưa cầu vồng tựa núi đứng bơ vơ

Cái Trọng Ty



3.7.10

dạ khúc vàng


thức qua đêm
viết vội cho người
chữ Rằng u uẩn
chữ Thì đa mang
chữ Là khuất lấp hai hàng
người về cố thổ
tìm Nàng chiêm bao

Cái Trọng Ty
Houston 2010

từ thuở ấy


rét cuộn mưa dầm lạnh tuỷ xương
từ thuở ấy
mùa thu lá rụng đầy
cổ xe đẫm máu
đẩy vào bến mê
sắc mây lịch sử ê chề
chảy giòng độc dược
đỏ nguồn sông xưa
trăm năm cuộc thế như vừa
cơ trời đáo hạn
đất chờ gian nan

Cái Trọng Ty
Houston 2010


bãi phù sa


mình Em qua biển phù sa
một mùa nước thuận một dòng mù khơi
Em đi động gối mây trời
lênh đênh sóng cuộn một thời xót xa
tôi tìm tôi khói Hoàng Hà
chuyện mình bi thiết chuyện người tang thương
tôi tìm Em lạc dấu đường
vườn im cổng khép hương vừa hôn mê
bên sông hoa dại não nề
chén tàn nhắp bọt men tình còn say
núi xa chim Phượng lưu đày
ai người kẻ chợ hơi thơ bạc lòng
đứng đầu sông lạc cuối dòng
nắng qua biển lụy thẩn thờ mây trông

Cái Trọng Ty
Houston June 2010



25.5.10

đêm trăng hoang dại



về sông mao
về chợ lầu phan rí
phòng tuyến dài từ dạo ấy sang xuân
sân ga vắng phố chàm trăng hoang dại
tháp hời khuya chìm vô vọng trăm năm
đồi sương đọng dấu giày mờ lau lách
trảng lưa thưa mưa xóa bãi mìn chông
mùi máu tươi oi nồng bên lộ vắng
tai kiếp rình mò
chẳng khước từ ai
đêm hôm ấy trăng khuya đồi bát ngát
tôi theo trăng về muộn trước sân ga
nghe xa vắng còi tàu qua phố chợ
thân thế bọt bèo sống chết theo mây
dòng sông tím nước trôi mù mịt sóng
cuồn cuộn tai ương


đời bạc đến vô cùng
tôi đứng trên đồi
lau sậy đôi bờ đêm trắng xóa
soi bóng mình chìm nổi lênh đênh
người ngợm dỡ hơi
một thời quá tải
tiếng ai hú rừng chồi
vọng về lớp lớp
sóng từ trường trời đất giao thoa
khoảnh khắc mong manh vỡ tràn huyết sử
cô em chăm mắt đẹp thiên thu
buồn não nuột
ngàn dặm sao hôm
đêm sông mao về trong cô quạnh
còn nghe điệu hát hồn câm
kinh thành đổ tượng chàm u tịch
phía biển trời phát tán
lửa ưu trầm trăm năm

cáitrọngty   09
 (trích từ Thư Quán Bản Thảo tập 40 tháng 12-2009)



24.5.10

khúc tạ Tuy-Hòa



thuở gió lùa mây rừng tới biển
mắt Em nghiêng xuống đã trùng khơi
thuyền đi - con nước theo Em mãi
đôi mắt trời ơi - cháy một đời

tôi trót hôn mê màu mắt ấy
màu ve chai Em tàn nhẫn nhốt tôi
tôi đóng đồn xa nắng lạc lưng đồi
thời động loạn sá gì thân với thế

yêu Em giữa một Trời thất lạc
chiếc bóng buồn lê - sắc dị thường
chiều tàn theo bóng vàng lau dại
hạnh phúc gầy trên những nốt sai

đêm trắng đồi mây đùn lớp lớp
tôi giật mình trăng vỡ bên sông
trăng nhểu xuống vàng khuya lênh láng
đò theo trăng biền biệt biển đông

lòng bàn tay có một chỉ thừa
đường Em đi tôi về ảm đạm
Em đem rét mướt lên môi xám
mỗi bước Em xa một đoạn tình

một hôm tôi lạc đường đi mãi
Trời Tây phương tôi ngóng phương đoài
Liên xưa - Hoàng hạc - sông Đà trắng
ngắt vội bên bờ một đóa sen

theo Em đuổi bắt từng hơi thở
Liên đốt tình tôi lửa cháy thành tơ
tôi cấy đời thơ - luống đời em mọc
tình tôi đau - ngậm ngải sắc màu

Cái Trọng Ty
2010


6.5.10

chim Phượng về Tây Bắc


Nhớ xưa chim Phượng bay vào núi

tiếng kêu buồn thảm vọng về Nam
thành tan xiêu đổ chàng đi biệt
ôi, nước sông Ngân chảy bên trời
năm ấy trên đường bay truy kích
Chàng về Lương Sơn ngày cuối năm
nơi đất Phương Đoài mây xám bạc
phi vụ hành quân
chiều mật khu
gío thổi cát vàng
thấm máu đỏ tươi
vùng đất hiểm hung
chuyện sống chết như đùa
nơi tử địa
Chàng bỏ lại nhà xưa
chiều khói bếp
người vợ yêu kiều
hơi ấm còn thơm
một thân theo gío vào đất địch
hiu hắt ngậm ngùi lên cỏ cây
như tiếng Sơn Ca trưa lồng lộng
bay vút tầng không vọng bốn phương
nhớ xưa chàng như cơn lốc bụi
Thiên Mã về Trời
vó ngựa bốc mù trên đồi tranh
giày cỏ tha phương
cơn mưa đầu mùa phố chợ
ngồi bệt thềm hoang
gío lùa ủ rũ
chiều Tàn Quân
về ngang sông Lũy
Phượng đỏ bên đường
tà áo xưa bay
guốc gỗ đường trơn
một thời thê thiết
lượn tóc mây bay
suốt mùa ly loạn
Hồng Hạc bên trời đậu bến sông xa
Thiên Thu chim Phượng về Tây Bắc
hồn ngóng Trùng Dương
chỉ thấy Rừng

Cái trọng Ty


26.4.10

Tháng Tư - Nhớ bạn tù Xuân Phước

-->

Tháng Tư - Nhớ bạn tù Xuân Phước

Tôi đứng bên sông nghe chiều đổ xuống
chiều bên sông trông nắng quái ngậm ngùi
có đàn chim lạ bay sà vào núi
ở lưng trời nghe hốt hoảng tiếng kêu

bạn tù đưa tôi qua sông một đoạn
dòng nước mênh mông chảy xiết đôi bờ
đôi bờ xa quá đoàn tù lưu xứ
đắng cả một trời thuở ấy sa cơ

tôi về A20 bạn ra Xuyên Mộc
anh bạn Hải Quân đến từ đảo Guam
làm gã đưa đò chở tù mạt vận
rách rưới thảm thương thống hận bao lần

tôi.bạn.vào đây lũ người quẩn chí
đánh đấm cùng đường buổi sáng Ba Mươi
sông nước ngậm ngùi chiều qua Phan Rí
aó mão phù hoa thảy lại cho người

tù qua Kỳ Lộ núi rừng hoang vắng
đất dữ mật khu.vượn hú.chim kêu
lội suối về ngang nghe mưa thác đổ
ta gọi hồn ta những xác chim khô

ai kẻ vùi thây một thời oan khốc
đêm giữa núi rừng gió thổi đá khô
dưới ngọn đèn mờ sầu rơi huyệt mộ
trăng núi tàn xám ngoét cuộc phù du

phê điếu thuốc lào thấy trời trái khoái
có con chim lạ hót nửa đêm khuya
bắt cô trói cột nghe buồn rợn gáy
vinh quang một đời lao động thay trâu

như lũ ma rừng đói xanh mửa mật
tuổi thanh xuân vàng ứa máu trên rừng
đào ao nuôi cá ta nuôi mập cá
mưa núi ngậm ngùi .chân đất.phù.sưng


Cái Trọng Ty
Houston-2010