23.5.10

Phỏng vấn Vũ Đức Nghiêm




 Vũ Đức Nghiêm

Hương Kiều Loan thực hiện

Trong một khu vườn trăm hoa đua nở, thông thường những bông hoa sặc sỡ, hương thơm ngào ngạt hoặc có một kích thước dễ được nhìn thấy, thường được tự phô bầy ngay trước mắt khiến mọi người có thể nhận thức được ngay khi mới bước vào vườn hoa. Còn có những loài hoa với hương thơm nhẹ diụ quyến rũ và với những mầu sắc hài hoà thanh nhã, tuy đã hiện hữu cùng với những loài hoa khác, nhưng loài hoa hiếm quí này không dễ gì mà thấy chúng dễ dàng được?.
Trong vườn hoa âm nhạc, Vũ Đức Nghiêm là một trong những loài hoa hiếm quí ấy. Nhạc cuả ông thanh nhã, tiết điệu rất tuyêt vời, không quá cầu kỳ để trở thành diêm dúa lố bịch, nhưng cũng không giản dị mộc mạc thái quá để dễ bị đồng hoá với hình ảnh của người "nhà quê đi guốc mộc".
Nhạc của VDN có một sức quyến rũ lạ thường rất dễ thông cảm , càng nghe càng thấm thía và thích thú. Nhạc cuả VDN không ồn ào xô bồ, mà lãng đãng như mây trời, có khi như tiếng suối reo, có khi ầm ì như sóng biển vỗ trên ghềnh đá và đôi lúc tuôn trào như thác lũ. Cũng có chút thoáùng buồn nhưng không cay đắng. Bằng thanh âm trầm bổng trong tiếng nhạc VDN đã diễn tả tài tình một "Tình Yêu" thanh nhã, thật lãng mạn nhưng cũng không kém đam mê. Tình yêu qua nhạc VDN quả thật là những bông hồng, những nụ hồng hiếm, thật đẹp, trân quí và nồng nàn cho "người yêu dấu".
VDN, một tên tuổi đi vào lòng người không bằng xảo thuật cuả thương trường âm nhạc, không bằng những quảng cáo ồn ào nặng mùi thương mại, mà bằng những nét nhạc trong sáng, nhẹ nhàng đầm ấm, rất dễ ru hồn người vào những cơn mộng ảo cuả "Tình Yêu."
Hôm nay Hương Kiều Loan mời độc giả bước vào khu vườn hoa cuả nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm để trò chuyện cùng ông, và cùng thưởng thức những đoá hoa thơm, xinh đẹp mà nhạc sĩ đã tặng cho người và cho đời.




Hương Kiều Loan (HKL): Thưa anh, sau khi nghe CD " Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu" thì tôi đã nghĩ phải nhấc điện thoại, để nói lời cảm tạ nhạc sĩ đã cho nghe những bản nhạc mà tôi rất yêu thích. Nhân tiện, cũng xin anh cho độc giả biết chút it về thân thế, tiểu gia đình và đại gia đình cuả anh ạ.
Vũ Đức Nghiêm (VDN): Tôi sinh năm 1930 tại làng Hoành Nha, tỉnh Nam Định. Tôi là con thứ nhì trong một gia đình gồm 8 anh em trai và 2 em gái. Chín anh em tôi đang sống rải rác nhiều nơi ở hải ngoại. Một người còn đang ở Việt nam.
Tôi lập gia đình năm 1954. Chúng tôi được 7 cháu, tất cả đều đã có gia đình.

HKL : Xin anh cho biết ngoài CD "Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu", anh có ra những CD khác không ạ? và thể loại cuả nhạc? Tình ca? Thánh ca? Quân hành??
VDN: Ngoài CD "Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu", tôi còn có mấy CDs về Tôn Vinh Ca và về Giáng Sinh. Tôi gọi là Tôn Vinh Ca, mà không dám gọi là Thánh Ca, vì "Thánh Ca" là những bài đã được giáo hội công nhận từ bao thế kỷ. Tôi chỉ viết Tôn Vinh Ca để ca ngợi Thương Đế, chứ không dám có cao vọng viết thánh ca, từ ngữ có vẻ lớn lao quá. Tôi đã thực hiện những CDs Tôn Vinh Ca 1,2,3,4 và một vài CDs về Giáng Sinh mà tôi sẽ cho ra mắt trong dịp Giang sinh năm tới. Còn về nhạc quân hành, thì ngày xưa, tôi có viết, nhưng bây giờ, còn có ai hát quân hành nữa đâu? Bản nhạc Tôn Vinh Ca đầu tiên tôi sáng tác trong tù là Thi Thiên 90, bài thánh vịnh cổ nhất, cũng là bài cầu nguyện cuả thánh Môi se.
Vào tù rồi, nhưng Vũ Đức Chỉnh , em tôi, đã giấu đuợc một cuốn Kinh Thánh. Đây là cuốn Kinh Thánh của bố tôi cho, trước khi mất nước. Trong tù, hai anh em tôi đã phải lén lút, mỗi lần đọc Kinh Thánh. Một hôm, đọc đến Thi Thiên 90, tôi đã phổ ngay bài này trong vòng tuần lễ sau đó. Tôi tìm cách chuyển bài hát ra ngoài, và Thi Thiên 90 đã đuợc phổ biến rộng rãi ở nhiều Hội Thánh Tin Lành trong nước, cũng như ở ngọai quốc. Ca khúc này dài vào khoảng 200 trường canh. Nhạc sĩ Vĩnh Phúc, cô em tôi ở nhà thờ Tin Lành Saigòn, đã tìm cách chuyển được bản nhạc qua Mỹ, gửi làm nhiều lần, mỗi lần một vài tờ.

HKL : Xin anh cho biết cơ duyên naò khiến anh bước vào lãnh vực âm nhạc.?
VDN: Ngay từ ngày còn nhỏ, tôi thường đi hát trong ca đoàn của nhà thờ, đến khi là tráng niên cũng vậy. Tôi yêu âm nhạc, có lẽ do ảnh hưởng của bố tôi. Ông cụ ngâm thơ rất hay. Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn còn thấy bồi hồi, tưởng như đang nghe đươc giọng ngâm thơ của cụ, Hơn nữa, tôi cũng được ảnh hưởng của mẹ tôi, qua những lời ru ngọt ngào của bà, nên từ đó, lòng yêu âm nhạc đã gắn liền với tôi tự bao giờ không hay.

HKL : Anh có tốt nghiệp ở trường âm nhạc nào, hay là theo học với một nhạc sĩ nào không?
VDN: Thưa không, tôi không hề được đặt chân đến một trường âm nhạc nào, và cũng như chưa đựợc theo học một nhạc sĩ nào cả. Tôi tự học, và học hỏi qua bạn bè. Tôi có những người bạn thân rất giỏi về âm nhạc như Phạm Đình Chương, Nhật Bằng đã chỉ vẽ cho tôi. Sau này, thì đuợc thêm một số nhạc sĩ khác chỉ bảo cho. Ngoài ra, khi ở trong tù, tôi có cơ may đươc hoc hỏi thêm về âm nhạc qua những nhạc sĩ Thiên Quang, Lê Như Khôi, và Lê Ngọc Linh.

HKL : Bản nhạc đầu tiên anh sáng tác vào thời điểm nào, xin anh cho độc giả đuợc biết .
VDN: Bản nhạc đầu tiên tôi sáng tác là một bản nhạc tình, tặng cho cô bạn gái cùng tuổi, học cùng trường ở Hải Phòng. Năm đó, chúng tôi mới 15, 16 tuổi, cùng thích hát, thường nghêu ngao hát với nhau. Bây giờ nhớ lại, bản đó thật quá đơn sơ về nhạc lý, nhưng vẫn thấy lòng bồi hồi rung cảm, bởi vì đó là bản nhạc đầu tiên mình viết được.
HKL : Thưa anh, trong đại gia đình anh, có người nào có khả năng về văn nghệ như anh không ? Nếu có, thì trong lãnh vực nào ? Văn , thơ , hoạ, v.v.?
VDN : Tôi có người anh lớn, chơi Violon, nhưng chỉ là chơi nhạc chứ không sáng tác. Ngoài ra, tôi có người em gái là Bạch Cúc, chơi piano, và người em út, Vũ Trung Hiền, chơi guitar, và hát, nghe cũng được. Vũ Trung Hiền viết cuốn Duyên Anh và Tôi, Những Câu Chuyện Bên Ly Rượu, xuất bản đầu năm 2000, ghi lại rất nhiều kỷ niệm với Duyên Anh.
HKL : Người ta nói văn thơ..thường vận vaò đời sống, số mạng con người. Anh thấy những nhận xét naỳ có đúng không ạ ? Và nếu đúng, đã vận vaò số mệnh anh như thế naò ?
VDN: Theo tôi nhận xét, những người nghệ sĩ thường đuơc Thiên Chúa ban cho một sự linh cảm nhiệm mầu, đôi khi họ có thể cảm đươc những gì sẽ xẩy đến, Thí dụ như Nhạc Sĩ Phạm Duy, cách đây mấy chục năm, ông đã viết bản nhạc Viễn Du: "Ra sông, biết mặt trùng dương, biết trời mênh mông, biết đời viễn vông, biết ta hãi hùng" Tôi có cảm tưởng như Phạm Duy đã đuợc một mặc thị nào đó, và tiên đoán đuợc những gì xẩy ra cho đất nước ở tương lai.
Riêng với tôi, những năm còn ở Đàlạt, tôi đã viết bài hát Trong Ngục Tù Bao La khi nghĩ đến người yêu bé nhỏ của mình, vì hoàn cảnh trái ngang, phải xa tôi. Nàng đi lấy chồng, và người chồng đó vì quá ghen tuông, sau đám cưới, đã nhốt nàng ở nhà, không cho nàng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Tôi đã hình dung ra một nàng cung phi bị giam nơi lãnh cung, khi nghĩ và nhớ về nàng.
Không đầy sáu năm sau, tôi đã bước vào tù ngục, khi miền Nam chúng ta thua trận, hàng trăm ngàn đồng bào và đồng đội của tôi đã bị giam nhốt vào cái nguc tù bao la đó.

HKL : Đuợc biết anh đã bị cầm tù trong traị cải taọ tới 13 năm, thưa anh trong tù, anh có gặp đuợc những nhac sĩ nào? Và đã có những kỷ niệm vui buồn nào anh muốn chia sẻ với độc giả Hồn Quê ?
VDN: Tôi đã gặp đươc các nhà thơ Hà Thương Nhân, Tô Thùy Yên, Nguyễn Xuân Thiệp..v.v,?và anh em đã chia sẻ với nhau những vui buồn, nâng đỡ tinh thần nhau, và sáng tác chung với nhau. Trong thời gian bị biệt giam cùng với Hà Thượng Nhân, tôi có dịp trao đổi với ông về những cảm xúc dạt dào nhớ vợ thương con, và tôi đã phổ nhạc một số bài thơ tù của Hà Thuợng Nhân, cùng mấy bài thơ cuả Tô Thùy Yên ( Mùa Hạn) và Nguyễn Xuân Thiệp ( Điệu Hoài Hương Xanh, Giả sử Mai Ta Về ) .Tôi nghĩ đó là những tuyệt bút sẽ đưa tên tuổi của họ vào thi sử, nhất là trong địa hạt thơ tù. Bài thơ " Xin Làm Cỏ Biếc Vương Chân Em Đi" của Hà Thượng Nhân, do tôi phổ nhạc năm 1981 đã được thu băng ( Bích Ngọc hát). Bài này còn được biết đến dưới tên Mai Em , Anh Về. Bài thơ đó như sau:


Xin làm cỏ biếc vuơng chân em đi

Mai em, anh về
Xin làm cỏ biếc
Vương chân em đi
Xin làm giọt mưa
Mưa dầm rưng rức
Trên vai người yêu
Anh cầm tay em
bàn tay khô héo
anh nhìn mắt em
gió lùa lạnh leõ
anh nhìn lòng mình
muà đông mông mênh
cỏ non mùa xuân
còn xanh dấu chân
trăng non mùa hạ
uớt đôi vai trần
có xa không nhỉ
ngày xưa thật gần
có xa không em?
Ngày xưa thật gần.

Mong rằng có dịp thu âm lại và gửi HKL để tạ lòng tri kỷ, xin HKL vui lòng chờ nhe’.

HKL :Được biết anh đã từng ở trại tù Long Giao. Kỷ niệm naò đặc biệt tại nơi đây đã khiến anh viết bản nhạc Mưa Long Giao ?
VDN: Trong hơn 13 năm tù ngục, có một thời gian tôi ở cùng trại với nhạc sĩ Nhật Bằng ( đài phát thanh quân đội), nhạc sĩ Thiên Quang, chỉ huy trưởng quân nhạc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa . Chúng tôi có nhiều lần trao đổi tâm tình và kinh nghiệm sáng tác. Thiên Quang cũng giúp tôi học hỏi thêm về hoà âm. Những ngày tù đầu tiên ở trại Long Giao, tôi cũng ỏ gần các nhạc sĩ Lê Như Khôi, Lê Ngọc Linh và cũng học hỏi đuợc thêm từ hai anh nhiều kinh nghiệm sáng tác và lý thuyết hoà âm.
Bây giờ kể đến kỷ niệm những ngày ở trại tù Long Giao, năm 1975. Có nhiều hôm trời mưa , mưa nhiều như nuớc mắt những người tù.
Hà Thuợng Nhân ở tù chung với tôi trong thời gian đó. Ông là một nhà thơ nổi tiếng từ lâu. Lúc ấy, ông đã khỏang 60 tuổi rồi, nên coi tôi như một người em. Một hôm, anh Hà Thượng Nhân đưa tôi một bài thơ, và bảo:
- Tôi mới làm bài này, cậu xem có được không?
Tôi xem xong, nói ngay:
- Em sẽ phổ nhạc bài thơ này .
Bài thơ như sau:

Mưa Buồn Long Giao

Trời có điều chi buồn
Mà trời mưa mãi thế
Cây cỏ có chi buồn
Mà cỏ cây đẫm lệ

Mà cỏ cây lệ tuôn?
Anh nhớ em từng phút
Anh thương con từng giây
Chim nào không có cánh
Cánh nào không thèm bay
Người nào không có lòng
Lòng nào không ngất ngây
Gủi làm sao nỗi nhớ

Trao làm sao niềm thương

Nhớ thương như trời đất
Trời đất cũng vô thường
Ngày xưa chim hồng hộc
Vượt chín tầng mây cao
Ngày xưa khắp năm châu
Bước chân coi nhỏ hẹp

Bây giờ giữa Long Giao
Ngồi nghe mưa sùi sụt
Cuộc đời như chiêm bao
Có hay không nẻo cụt?
Anh châm điếu thuốc lào
Mình say, mình say sao?

HKL : Thưa anh, làm cách nào anh cho bản nhạc đi thoát ra ngoài để đến tay người nhà và được phổ biến sau đó a.?
VDN: Năm đó có người tù đuợc thả về. Tôi gửi anh bạn tù bản nhạc, nhờ anh mang ra ngoài. Anh ta nói nếu đề tên VDN, thì không cách gì lọt qua đuợc mạng lưới kiểm soát của ho, nhưng nếu ghi là Nhạc Liên Xô, chắc mang ra đuợc. Nhờ thế, bản nhạc đã đến tay người nhà tôi.

HKL : Trong 13 năm bị giam cầm đó, xin anh cho biết, anh đã traỉ qua những trại giam nào ? Và nơi nào đã có những kỷ niệm vui buồn, đau thuơng?.đặc biệt nhất?
VDN :Từ trại giam Tân Hiệp, Biên Hòa, tôi bị đưa ra Bắc ( Hoàng Liên Sơn),tháng Sáu 1976, và chuyển qua nhiều trại ở vùng Yên Báy , Lào cay,v.v?
Tháng 10,1978, chuyển trại về trại giam Nghệ Tĩnh G ( NT 6)
Tháng 1/1981 chuyển trại về Hàm Tân
Tháng 4/1982 chuyển về trại Xuân Phước ( Phú Khánh), cho đến tháng 9/88, đuợc trả tự do.


HKL : Nhiều bạn bè khen bản nhạc Giả Sử Mai Ta Về ,thơ Nguyễn Xuân Thiệp, do Vũ Đức Nghiêm phổ nhạc. Anh có kỷ niệm đặc biệt nào với nhà thơ đó không? Và do đâu anh cóï cảm xúc để viết thành bản nhạc?
VDN: Tôi rất thích thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Bài Giả Sử Mai Ta Về đã gợi trong tâm hồn tôi một nỗi buồn khi nghĩ đến thân phận mình ngày đuợc thả về, nếu như có một ngày như thế.
Bài thơ ấy như sau:


Giả Sử Mai Ta Về


Giả sử mai đây ta về lại trên đường, gặp tuổi thơ ta cười giòn tan trong nắng
Đuổi bắt trái sao khô xoay tròn khi gió vang, ai gọi ta mà mùa Thu rơi đỏ mộng
Giả sử mai đây ta về trên con phố cũ, ai đốt lên cho ta những ngọn đèn trong sương?
Có đôi mắt nào nhìn ta qua khung cửa kính?
Ôm con gấu bông vàng từng mơ mùa chín mật hương
Ôm cuộc đời dẫu đã xa còn y như ngày trước
Những bức tường nghiêng và những khóm tầm xuân
Ai trèo lên cao mà vừa nghe huýt sáo
Mặt trời, bạn hiền ơi, chờ ta qua mấy ngọn thùy dương
Bởi chiếc roi bạo lực chẳng thể vung hoài trong gió
Chú ngựa non reo tiếng lạc trên đồi
Các con ta duới vầng trăng tuổi nhỏ với ước vọng xanh như người thổi bóng lên trời
Và em nữa tất nhiên vẫn là em thời trẻ, của Saigon nằm mở cửa những đêm vui
Em và Saigon ăn ô mai ngoài phố, em và Saigon như một vệt son môi
Đã lâu lắm dường như ta không còn trẻ nữa
Con chim biếc bay rồi vườn vắng cây khô
Chợt một buổi nghe dòng sông nức nở, gọi ta về thầm kể những đêm xưa
Ôi giả sử mai đây ta về lại bên đời
Dẫu chẳng còn ai biết đến ta chẳng còn ai đợi cửa
Thì trọn kiếp ta xin làm người nghệ sĩ rong chơi
Đi đọc thơ ta giữa vùng bụi đỏ?

HKL : Trong tù, bị kiểm soát nghiêm ngặt như vậy, làm thế nào những người nghệ sĩ như các anh vẫn sáng tác được, và làm sao để giấu được những sáng tác của mình?
VDN: Tôi có đọc một cuốn sách tựa đề "Hót Trong Tháng Tù". Bià sách in hình mấy con chim nhảy nhót trong lồng. Tôi thầm nghĩ " Trong ngục tù chim vẫn hót mà sao ta không hót được?". Do đó, tôi tiếp tục sáng tác trong tù để nói lên tâm tư, tình cảm, và những uớc vọng thiết tha nhất của mình .  Tất cả đều đuợc ghi trong ký ức, sau khi tôi đã nghiền ngẫm, suy nghĩ về cấu trúc và lời ca. Có một số bài đặc biệt, như Thi Thiên 90, Khi Tôi Quỳ Nơi Chân Chuá, và Tôi Uớc Mơ Là Viên Than Hồng đều được chuyển tới tay Vĩnh Phúc ( tác giả ca khúc Ngàn Thu Áo Tím, viết cùng với Hoàng Trọng) bằng đường bưu điện. Thật là một phép lạ, vì nếu cai ngục kiểm duyệt thư, biết được tôi chuyển nhạc đạo ra ngoài, thì họ cùm tôi là cái chắc! Những bài hát ấy đã đuợc chuyển qua Mỹ và được hát nhiều lần trên đài phát thanh Far East Broadcasting Company( FEBC) và các Hội Thánh Tin Lành hải ngoại.
Bản nhạc đó đã viết năm 86, 87 tại trại giam Xuân Phưóc. Hơn 10 năm mòn mỏi trong tù, cuả chờ đợi và tuyệt vọng, bản nhạc đã nói lên tâm tư người tù là tôi, và những người khác nói chung.

HKL : Có kỷ niệm nào trong tù mà anh không quên được?
VDN : Một kỷ niệm đau thương mà tôi nhớ mãi, là một lần đi lao động về, ngang qua một cánh đồng lúa mới đâm bông, lúa non vừa lên đòng đòng. Theo thói quen của một người nhà quê, tôi đã tuốt một cọng lúa non, cho vào miệng nhâm nhi, vì lúa khi đó ngọt lắm. Không ngờ tôi bị hai tên cán binh bắt gặp. Khi về đến trại, bọn cán binh tuổi chừng 18, 19, lôi tôi ra sân. Mỗi đứa đứng một góc, chúng đấm đá tôi văng từ đầu này qua đầu kia, và chỉ đấm đá vào ngực, vào bụng tôi thôi. Lúc ấy tôi đã gần 60, rất ốm yếu vì thiếu ăn , và lao lực. Chúng đánh dã man lắm, đánh đến khi tôi chịu không nổi, tiêu tiểu trong quần và ngất đi, lúc đó chúng mới dừng tay!. Anh em bạn tù đã vực tôi dậy, đưa tôi về phòng và dùng nước muối xoa bóp những vết thương cho tôi.

HKL : Thưa anh, chắc là những tù nhân khác cũng bị hành hạ, không dưới hình thức này thì cũng ở hình thức khác? Đau đớn thật, tại sao con người có thể trở thành dã man đến như thế!
VDN : Vâng, nếu nhắc lại thì còn phải kể nhiều nỗi đau thuơng khác nữa, nhưng tôi đã tin theo Thiên Chúa, và làm theo lời Ngài dạy là tha thứ cho kẻ thù mình. Làm đuợc như thế, lòng mình thanh thản hơn. Còn kẻ ác, hãy để Thượng Đế xét xử họ.




HKL : Anh có thể cho biết tên một số bản nhạc mà anh đã sáng tác trong thời gian bị caỉ tạo, và những bản nhạc đã được thu vaò CD.
VDN : Trong CD Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu, có chừng 10 bản tôi sáng tác trong tù, như Tâm Tư Chiều, Muôn Trùng Xa Em Về, Như Mây Bay Về, Tâm Khúc Đêm Sao, Đoá Hồng Cho Ngươì Yêu Dấu..v..v?

Xin mời nghe:
Tâm Khúc Đêm Sao
Hạ Vân trình bày

HKL : Chắc bản nhạc này anh đã sáng tác khi vợ hiền lên thăm nuôi?
VDN: Vâng, một kỷ niệm quá vui là được nhìn thấy mặt vợ con mà mình hằng ngày đêm mong nhớ. Sau bao nhiêu năm xa vắng, thế mà nào có đuợc cầm tay nhau! Nhưng... cuối cùng cũng ráng lén hôn vợ đuợc một cái.
"Khi nụ hôn trao nhau vội vàng
Còn ấm chút hương môi,

Em đã xa tôi rồi, tay rời tay, con tim bồi hồi?."

Xin nghe bài
Muôn Trùng Xa Em Về
Ái Vân trình bày

HKL: Thưa anh, không phaỉ mình HKL đâu, mà HKL tin rằng những bản nhạc hay, những bài văn hay, đuợc độc giả yêu thích là vì họ tìm thấy họ trong tác phẩm cuả tác giả, không ở khía cạnh này, thì ở khía cạnh khác. thông thường những tác phẩm về tình cảm, nhất là về tình yêu, thì đều đuợc dễ dàng đón nhận.
VDN: Vâng đúng vậy, " Yêu Em anh bỗng thành thi sĩ, Ở tù anh bỗng thành nhạc sĩ." Những bài thơ và nhạc viết trong tù, thường rất cảm động và hay, Trong tù có những anh em, không phải là nhạc sĩ, mà họ cũng sáng tác nhạc bằng âm điệu, nghe hát lên cũng hay lắm. Bản đầu tiên tôi sáng tác trong tù là một bản tôn vinh Chúa, vì trong tình trạng tuyệt vọng cuả cuộc sống, lúc đó chỉ còn biết cầu nguyện và cầu nguyện?Tôi có đươc cuốn thánh kinh, do người em là Vũ Đức Chỉnh giấu đuợc, nên anh em có những ngày mang ra chỗ sáng để đọc, và tôi đã phaỉ nhập tâm đoạn nguyện cầu đó, rồi  tôi đã phổ. Bài này đuợc phổ biến nhiều ở Hội Thánh Tin Lành. Đưa về Sài gòn, sau đó chuyển qua Mỹ, dài vào khoảng 200 trường canh, cỡ 5,6 tờ. Nhạc sĩ Vĩnh Phúc, cô em tôi ở nhà thờ Tin Lành Saigòn, đã tìm cách chuyển đuợc bản nhạc qua Mỹ, gửi làm nhiều lần, gửi rời từng tờ một.

HKL : Anh đã sáng tác đuợc bao nhiêu bài tôn vinh ca tất cả.
VDN: Khoảng 50 đến 70 bài, tôi cũng có sáng tác Tù ca, một CD 12 baì, phần lớn viết trong tù. Thơ nhạc viết trong giai đoạn ở tù này đã nâng đỡ tinh thần tôi rất nhiều. Nên tôi đã viết : "Xin tạ ơn Chúa, đã ban cho con một đời tự do, xin tạ ơn Chúa đã ban cho con ngày tháng lao tù?"

Xin mời nghe:
Như Mây Bay Về
Nguyễn Thành Vân trình bày

HKL : Khi nhỏ, anh có từng dự thi về sáng tác nhạc trong một buổi tổ chức nhạc không ạ?
VDN: Những năm cuối thập niên 50, tôi có tham dự cuộc thi sáng tác ca khúc do đài quân đội tổ chức, tôi được may mắn trúng tuyển một số bài :
1955 Đoàn Quân Bắc Tiến
1956 Chào Mừng Quốc Khánh 26 tháng 10
1960 Chúng Ta Đi Xây Nền Cộng Hoà

Ngoài ra tôi cũng viết một số nhạc, vài bản Quân Hành Khúc.

1956 Sư Đoàn 3 Hành Khúc ( sau đổi là SưĐoàn 5 )
1958-59 Sư Đoàn 22 hành khúc
1967 Sư Đoàn 23 Hành Khúc.
Và  tôi cũng đuợc giải thưởng cuộc thi viết nhạc cho các sư đoàn; như Sư Đoàn 22 ở KonTum. Bản Sư Đoàn 22 Hành Khúc gồm 62 trường canh:

"?Sư đoàn 22 đi lên
Sơn hà mang trên vai?"



Và năm 67 viết hành khúc cho sư đoàn 23, đuợc giaỉ nhất. Khi đó sư đoàn ở dưới quyền đại tá tư lệnh Trương Quang Ân.
Tôi cũng viết hành khúc cho sư đoàn 3, sau đổi thành sư đoàn 5, bản nhạc cũng đổi tên theo luôn, " Đi lên sư đoàn 5,Muôn dân đang chờ ta. Làm cho núi sông lừng danh Sư Đoàn 5?"
Bài hát đó, từ năm 70 tới 73, đuơc nhạc sĩ Thục Vũ, khi đó là trưởng phòng 5 cuả sư đoàn cho hát hàng tuần trên đài phát thanh SàiGòn.

Xin mời nghe:
Vùng Trời Kỷ Niệm
Bích Ngọc trình bày

HKL : Được biết anh học khóa đầu tiên của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, năm 1951, cùng khoá với những tên tuổi lớn sau này, như Trung tướng Nguyễn Bảo Trị,Trung tướng Nguyễn Đức Thắng, Trung tướng Lê Nguyên Khang?.Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ .v?v?.Xem như vậy, coi như đường binh nghiệp cuả anh không đuợc may mắn như những người bạn cùng khoá, vì họ lên lon vù vù?Anh có thể cho biết vì nguyên nhân nao đã làm cản trở sự thăng cấp bậc cuả anh không a.?
VDN: Thuở còn là trung uý đóng ở miền Bắc, tôi lập gia đình giữa năm 1954. Sau đám cuới, tôi về phép trễ đến 7,8 ngày, và bị cấp trên báo cáo đào ngũ. Tôi bị nhiều ngày trọng cấm. Do đó. việc thăng cấp của tôi sau này bị lận đận.

HKL :Kỷ niệm nào đáng nhớ nhất trong đời văn nghệ của anh?
VDN:  Kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời văn nghệ của tôi là vào năm 1969, tháng 11, sau khi viết Gọi Người Yêu Dấu, tôi tình cờ gặp ca sĩ Thanh Lan ở Đàlạt. Thanh Lan hỏi tôi có bài  nào mới viết không? Tôi đã đưa bài  Gọi Người Yêu Dấu cho Thanh Lan. Sau đó it lâu, khi tôi đang uống cà phê ở một tiệm nước khu Hoà Bình, gần chợ Đàlạt, chợt nghe tiếng hát rất quen. Đó là tiếng Thanh Lan hát Gọi Người Yêu Dấu Ngọc Chánh thu thanh trong băng Shotguns Nhạc vàng 70. Tôi xúc động lắm, nghe Thanh lan hát bài ấy lần đầu tiên.

Xin mời nghe:
Gọi Người Yêu Dấu
Ái Vân trình bày

HKL : Tên anh đuợc gắn liền với bản nhạc này  khi bản nhạc được ra đời, đã là top hit của giai đoạn đó, và bản nhạc đến bây giờ vẫn còn hay, vẫn làm người nghe bồi hồi xao xuyến, nếu không muốn nói là ray rứt trong caí đau thương mất mát cuả tình yêu., HKl nhớ đến những tình khúc trong CD, có những lòi nhạc. Khi đọc lên, không khỏi ngậm nguì, nhất là khi nghe nhạc đuợc hát. HKL nhận thấy không phải chỉ có bản Goị Người Yêu Dấu là xuất sắc, trong cái  CD 12 bản nhạc kia, đã có những bản nhạcxuất sắc, mà chưa có cơ hội để đươc phổ biến rộng rãi , như bản Bâng Khuâng Nhớ Tình Xưa , Tâm Tư Chiều, Vùng Trời Kỷ Niệm, Thấp Thoáng Như Giấc Mơ..v..v?

Xin mời nghe:
Bâng Khuâng Nhớ Tình Xa
Đoan Trang trình bày

VDN : Cám ơn HKL đã rất rộng lượng đối với những nhạc phẩm của tôi. Tìm đuợc tri kỷ cảm thông đuợc những gì mình viết ra, thật hiếm và quý.

HKL:  Âm nhạc là tiếng nói chân thành nhất cuả nguời nhạc sĩ, tình khúc của anh mang nhiều giai điệu tha thiết, luyến nhớ., tuyệt vọng..Phải chăng đã phản ảnh phần nào cuộc đời tình cảm riêng tư của anh?
Thưa anh, trưóc khi hỏi anh về một chút riêng tư, HKL phải  xin rào  trước đón sau như thế naỳ: Từ bao thế hệ, ngay cả bây giờ , nhiều người vẫn còn thắc mắc về những nhân dáng trong bài  thơ hay nhạc đã nổi tiếng. những bản nhạc đã đi vào  lòng người  mãnh liệt cuả những mối tình không trọn, dang dở, đau khổ giấu  kín trong một góc đời của thi, nhạc sĩ?nên đã khiến họ viết đuợc những tuyệt tác để lại cho đời..
Bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu của anh cũng đã đuợc coi như nằm trong những con số nói trên. Người ta cũng ao ước muốn đuợc biết chút xíu về những nhân dáng nào, đã đánh động đuợc tâm linh nhạc sĩ như thế, nhất là anh khi viết về Gọi Người yêu Dấu. Anh có thể tâm sự chút it với độc giả đuợc không a.?
VDN : Tôi xin cám ơn HKL đã thông cảm tâm trạng tôi trong hoàn cảnh trái ngang: một người nghệ sĩ khi đã có gia đình, không thể phụ bạc vợ con để đi theo tiếng gọi của tình yêu, nên thật đau đớn lúc cắt đứt chuyện tình đó. Kết quả của nỗi đau đớn khôn nguôi ấy là bài Gọi Người Yêu Dấu. Cho đến cả chục năm sau, có đêm trong tù, khi nhớ về kỷ niệm xưa, tôi đã mơ thấy Ly Cơ, và gọi tên nàng trong giấc mộng. Ngày xưa , những năm còn nhỏ, đọc truyện Tàu, tôi đã say mê những nhân vật Bao Tự, Ly Cơ... Ly Cơ là người yêu của Sở Bá Vuơng. Ly Cơ với dáng đi dịu dàng, tha thướt kiêu sang.

HKL: Thưa anh, như vậy nhân dáng Ly Cơ chắc là nhiều  lắm trong các nhạc phẩm cuả anh?
VDN: Vâng, đúng vậy, bản nhạc đó đã viết riêng cho nàng, cho Ly Cơ. Nàng là nhân dáng trong bài   Gọi Người Yêu Dấu.

HKL: Thưa anh, những gì người nghệ sĩ viết ra từ cảm xúc chân thành nhất, bao giờ cũng là những tác phẩm hay, làm rung động lòng người, và theo thiển ý của HKL thì Gọi Người Yêu Dấu đã là bản nhạc mà tất cả những ai đã yêu, đuợc yêu, hoặc mất tình yêu, đều thấy bóng dáng mình trong đó. Thế còn Vùng Trời Kỷ Niệm, Thấp Thoáng Như Giấc Mơ?, anh đã viết chung về một nhân dáng hay từ những cảm xúc khác?.
VDN : Tôi đã viết cho Ly Cơ, cho nhân dáng trong Gọi Người Yêu Dấu. Cám ơn HKL thật nhiều về những cảm nhận từ giòng nhạc tôi viết. Phần lớn các bài hát đều hướng về một nhân dáng. Ly Cơ là một nhân vật có thật, hiện sống tại Mỹ nhưng đã không còn liên hệ gì mật thiết từ hơn 30 năm. Biệt hiệu Ly Cơ tôi tặng nàng là do một baì thơ cuả Xuân Diệu mà tôi yêu thích:
Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi
Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng
Trong trăng nhớ nàng Dương Quý Phi
( Nhị Hồ cuả Xuân Diệu)

HKL :Trong số những bản nhạc anh đã sáng tác, anh ưu aí bản nhạc nào nhất a.? và vì sao?
VDN: Tôi có bẩy người con, tôi đều yêu quý như nhau, thì những đứa con tinh thần cũng vậy. Có những bản nhạc, may mắn đuợc nhiều người biết đến, và có những bản nhạc kém may, vẫn nằm đâu đó trong hộc tủ, nhưng không phải vì thế mà tôi không yêu quý, Tôi qúy tất cả những gì mình đã sáng tác. Tôi ưu aí tất cả những bản nhạc đã viết, đặc biệt là Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu và những bài Tôn Vinh Ca đã viết trong tù.




HKL : Hiện nay có rất nhiều nhạc sĩ trẻ, amateur, nhưng nhạc họ sáng tác thật hay, và họ cũng bị kẹt như nhiều  nhạc sĩ tên tuổi khác khi không đuợc những trung tâm lăng xê, cho nên những bản nhạc hay đành ngậm ngùi phổ biến trong nhóm nhỏ bạn bè, hoặc may mắn trên mạng luới. Tuy nhiên, nghe nhạc trên mạng lưới không thể hay bằng những bản nhạc đã đuợc thâu vào CD, với hoà âm, phối khí chuyên nghiệp. Anh có điều gì nhắn nhủ hay góp ý với những nhạc sĩ trẻ này không?
VDN: Xin cứ tiếp tục theo đuờng lối của mình, không sáng tác theo thị hiếu quần chúng, nên trau dồi nghệ thuật, học hỏi, trao đổi với các bạn cùng chí huớng, Thận trọng trong sáng tác và thực hiện băng nhạc.

HKL : Về môi truờng phổ biến hạn hẹp của loại nhạc A (xin xem bài phỏng vấn Nguyễn Ngọc Ngạn) thì anh có nghĩ lọai nhạc này sẽ dần dần mai một; và rồi trong tuơng lai, loai nhac A này sẽ không còn thấy nữa?
VDN: Tôi không nghĩ rằng loại nhạc A sẽ có ngày mai một. Không phaỉ là trình độ thẩm âm cuả người nghe quá kém, nhưng là sự lan tràn cuả loại nhạc rẻ tiền quá mạnh, gây một thói quen thưởng ngọan quá dễ dãi trong quân chúng . " Hũu xạ tự nhiên hương", cái gì hay và có giá trị sẽ tồn tại. Điển hình là những ca khúc tiền chiến của các nhạc sĩ Văn cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Qúy, Đoàn Chuẩn?đến nay vẫn còn đuợc mến mộ.

HKL : Anh có ý kiến gì để chúng ta có thể duy trì loại nhạc A mà chúng ta yêu thích?
VDN: Sự lan tràn cuả nhạc rẻ tiền chỉ có tính cách giai đọan. Sẽ có ngày, người ta sẽ chán những loại ca khúc này, và sẽ đi tìm kiếm những ca khúc có giá trị nghệ thuật. Tôi cũng hy vọng các nhà sản xuất băng nhạc sẽ lưu tâm phổ biến những ca khúc có giá trị nghệ thuật để nâng cao trình độ thưởng ngoạn của đa số quần chúng.

HKL : HKL rất thích CD Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu. Qủa thật CD này đã như một món quà qúy giá tặng tất cả những người vợ hiền đã vất vả lo nuôi con, nuôi chồng trong những năm dài tù tội. Biết bao nhiêu người vợ VN , và chỉ có những người vợ VN thôi, mới có thể kiên nhẫn chịu đựng những nỗi khốn khó nhọc nhằn trong giai đọan tang thương, tuyệt vong đó. Có phải thế không, anh Vũ Đức Nghiêm? Anh có kỷ niệm nào đặc biệt hôm ra mắt CD Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu không ?
VDN: HKL thật tinh ý. Vâng, có một câu chuyện nhỏ. Hôm ra mắt CD đó, anh MC có hỏi khó tôi một câu: " Đóa hồng này có phai cho người trong bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu và người đó có phải  là hiền nội của nhạc sĩ bây giờ?" Tôi không thể nói dối, nên tránh né như sau: " Gọi Người Yêu Dấu là gọi người mình yêu mà mình đem giấu đi. Kẻo vợ biết thì nguy lắm. Còn Cho Người Yêu Dấu là tặng người vợ hiền đã vất vả vì tôi trong suốt 13 năm tù tội."

HKL: Cái tựa CD của anh rất hay, chắc anh đã lấy từ tên một bài thơ nào chăng?
VDN: Thưa không phải. Lúc đầu, tôi định đặt là : "Đóa Hồng Cho Vợ Hiền" thì các con tôi góp ý là nghe không thơ, không lãng mạn gì cả, và đề nghị tôi đổi là "Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu" . Khi viết Đoá Hồng Cho Người Yêu Dấu, tôi đã hình dung ra đến ngày mình đuợc trở về, 13 năm hay hơn nữa, chắc sẽ thấy vợ hiền biến thành một bà già lụ khụ rồi
"...Xin cho tôi hôn mái tóc điểm sương
Xin cho tôi hôn vầng trán ưu phiền

Xin cho tôi hôn đôi mắt héo hon, năm tháng mỏi mòn, chờ người xa vắng
Xin cho tôi hôn bàn tay chai sần, thay chồng nuôi con, một đời vất vả....."

Xin mời nghe:
Đóa Hồng Cho Người Yêu Dấu
Elvis Phương trình bày

HKL : Bức hình anh chụp trên bià CD của anh, coi rất nghệ sĩ và rất là "lãng tử" khiến HKL nhớ đến đoạn văn cuả Ký giả Lô Răng đã viết về anh: hồi ông ấy ở tiểu đoàn 6 bộ binh đang theo dấu trung đoàn cuả VC đến vùng duyên hải Buì Chu , Phát Diệm, nơi xứ đạo đang yên vui thì bùng khói lửa, tại đó ông đã gặp Trung uý Nguyễn Bảo Trị, Trung Uý Nguyễn Đức Thắng.v..v..và Trung Uý Vũ Đức Nghiêm. " Qua vùng Hoành Nha, một miền xứ đạo thuần thánh, có những chiếc cầu đá rệu phong bò qua những con nước trong leo lẻo tôi gặp một sinh viên khoá Một nữa, Trung Uý Vũ Đức Nghiêm đồn trưởng Hoành Nha, nhưng khác với những quân nhân ném cả tâm hồn lẫn thể xác vào cuộc chiến. Tôi thấy Vũ Đức Nghiêm ngồi một mình trên lô cốt, đang nghiêng đầu trên cây gưitar, dạo một khúc đàn. Một hình ảnh tương phản hẳn vói tình hình chiến trận ở chung quanh. Hình như người dạo đàn kia đang quên trời quên đất, quên chiến sự đang sôi sục, để sống riêng cho hoài cảm cuả mình?"
VDN: Tấm ảnh đó là do nhiếp gia danh tiếng Nguyễn Ngọc Hạnh chụp tặng cho tôi.

HKL: Xin cám ơn anh đã đành cho HKL buổi phỏng vấn này, và xin chúc anh tiếp tục sáng tác thật nhiều .

Hương Kiều Loan
2001


(Nguồn: http://www.honque.com)

22.5.10

Xuân Hành



Viết tặng anh Hà Thượng Nhân

Mây trắng lững lờ trên tầng cao
Đàn chim én lượn bay lao chao
Lòng ta chơi vơi xao xuyến quá
Ô hay, mùa xuân đến rồi sao?

Đã qua rồi, sáu năm tù ngục
Những ngày lưu xứ sống lao đao
Hắt hiu chốn rừng sâu, núi thẳm
Nhớ nhà thương nước tim nghẹn ngào
Núi rừng Hoàng Liên Sơn, Yên Bái
Có bao giờ lòng nguôi khổ đau!

Ta gọi tên đàn con yêu dấu
Duyên, Thơ, Trinh, Dũng, Tuấn, Quỳnh, Giao!
Thương tuổi thơ học hành dang dở
Mái đầu xanh sớm chịu cơ cầu
Mang nặng dĩ vãng bị trù giập
Ông cha xưa trí phú địa hào
Chập chững bước vào đời vắng bố
Tương lai mờ mịt biết về đâu

Thương vợ hiền sớm khuya tần tảo
Nuôi dạy con thân liễu gầy hao
Chắt chiu giọt mồ hôi nước mắt
Vượt ngàn trùng thăm ta trong lao
Phút gặp nhau nói cười ngoài mặt
Nhưng con tim nức nở réo gào
Giờ chia tay lòng đau chất ngất
Em nhìn ta nước mắt rơi mau!
Xót tình nghĩa tao khang nồng đượm
Nửa đường đời sớm tối bên nhau
Hơn sáu năm đoạn tình chăn gối
Oan khiên ơi đất thảm trời sầu!
Đêm trên nền xi măng lạnh giá
Thương căn nhà xinh trên đồi cao
Viên ngọc trắng bên lùm cây biếc
Chiều mây trôi thông reo rì rào
Chập chùng bỗng cuồng phong nổi dậy
Mái nhà thân yêu nay còn đâu?
Ôi tổ ấm một đời xây dựng
Chợt tan tành như giấc chiêm bao!

Từng đêm từng đêm sâu trằn trọc
Từng đêm thao thức với trăng sao
Nỗi hờn căm quân thù cướp nước
Tâm sự này xin gửi trời cao
Quanh ta vòng kẽm gai khép kín
Những bạn tù khuôn mặt vêu vao
Cùng ta đau niềm đau mất nước
Ôi tự do, lòng ta khát khao
Bao đêm mơ giấc mơ phục quốc
Than ôi! ta chẳng già rồi sao?

Vũ Đức Nghiêm
Trại 6 Thanh Chương, Nghệ Tĩnh 1/1981


(Nguồn: http://thovuducnghiem.blogspot.com)



Cảm Đề



Đã mấy trăng hao gầy ngóng trông,
Mưa khuya trăn trở, sương mênh mông.
Suy tư dằn vặt, nhầu chăn gối,
Sự nghiệp tan tành, thẹn núi sông.
Tủi với tiền nhân ca chính khí,
Ngượng cùng hậu thế luận anh hùng
Tuổi tri thiên mệnh tàn cơ nghiệp,
Lại bắt đầu đi từ số không.

Vũ Đức Nghiêm
Trại Tù Long Giao, tháng 9-1975


(Nguồn: http://thovuducnghiem.blogspot.com)



Thơ Viết Trong Tù - Tự Trào

 

Tuổi trời cho ta năm mươi mốt,
Đau đớn thay, 5 năm bị nhốt,
Sáng sáng đẩy xe, dăm chục xe,
Chiều chiều ngô hột, vài trăm hột.
Thi đua lao động chẳng cần hay.
Học tập tăng gia không mấy tốt.
Thơ thẩn lăng nhăng, ngày lại ngày.
Lòng son sắt trước sau như một.

Ta sinh ra, biếng lười ngu dốt,
Hút thuốc lơ mơ ngồi dựa cột.
Mặc kẻ lên voi ưa nói ngông.
Thương mình xuống chó không thưa thốt.
Gặp thời, ừ nhỉ chúng khôn ngoan,
Lỡ vận, đành thôi ta dại dột.
Say cuộc cờ, nghĩ mình pháo xe,
 

Than ôi, ta chỉ là con chốt!
Chốt đã qua sông, bèn thí chốt.
Ba năm kiếm củi, một giờ đốt.
Thảm thương thay, chiến sĩ mang cùm.
Ngao ngán nhẽ, cáo cầy đội lốt.
Sông cạn khát khao vài trận mưa
Núi cao rung chuyển từng cơn sốt
Mơ ngày phục quốc cứu quê hương,
Thù giặc cộng minh tâm khắc cốt.


Vũ Đức Nghiêm
Trại Tù Nghệ Tĩnh 6 (NT6), 1980


(Nguồn: http://thovuducnghiem.blogspot.com)
 


20.5.10

Những ngày cuối cùng của Vùng I và miền Nam


                     Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn


Những ngày cuối cùng của Vùng I và miền Nam



Lời giới thiệu:
Duy Lam, cháu của nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, trong nhóm bút Tự Lực Văn Đoàn, một nhân chứng lịch sử viết rất trung thực về những ngày cuối cùng của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 29-4-1975, tôi gặp anh mới từ Đà Nẳng di chuyển vào Sài Gòn. Chúng tôi, Bảy Bốp Phạm Thái và kỹ sư Đỗ Hữu Cảnh, có mặt đứa con gái lớn của Duy Lam, ngồi quán Cà phê đối diện Trụ sở Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến trên đường Phan đình Phùng, bàn thế bối thủy, và ai đi ai ở, rốt cuộc cả bốn đều ở lại. Tôi qua Mỹ trước, Duy Lam qua sau 14 năm tù đày, có lúc bị cùm chân đến thúi thịt . Phạm Thái bị tù đến gần chết mới được thả. Đỗ Hữu Cảnh bị bắt đi bắt lại mấy lần. Ngày gặp lại Duy Lam tại Virginia, tôi có dẩn anh đến bàn thờ cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy vừa mất cách đó 3 tháng, anh đã làm tất cả anh em hiện diện hôm đó cảm động khi anh khóc sướt mướt và độc thoại những lời tâm huyết với di ảnh Giáo Sư Huy. Bài viết của anh làm tôi liên tưởng đến anh chàng Pierre, triết gia cô đơn trong tác phẫm War and Peace của Léon Tolstoy ...
(Thái Thụy Vi)

Phải nói là những ngày cuối cùng của Vùng I và Miền Nam, mỗi khi tôi ôn lại trong những năm tháng tù đầy, hoặc viết lại trong cuốn hồi ký nầy, luôn luôn lại làm tôi xúc động một cách mạnh mẽ và có phần khó hiểu.Trở lại những tháng đầu năm 1975, tôi nhớ lại cái không khí lo âu, mơ hồ cứ lẩn quẩn thấm vào tâm trí mọi người, những lo âu sợ hải hình như không có nguyên cớ rõ rệt.
Sau cái lần Trung tướng Ngô Quang Trưởng đi phó hội với CINPAC về, trong bữa uống rượu ở vườn buổi chiều trước tư dinh của ông, khi được tôi hỏi ông đã thở dài nói chậm rải: "Anh biết đấy, kỳ nầy mà địch tổng tấn công vào Vùng I, Hoa Kỳ sẽ chẳng còn có thể yểm trợ mình về hải pháo hay phi cơ của hạm đội. Khi đó đương nhiên mình phải tự lực cánh sinh chiến đấu với những gì mình có và với tình trạng tiếp vận giảm sút đến gần 80% so với thời kỳ chưa ký hiệp định Paris". Sau đó chúng tôi đã ngồi lẳng lặng uống rượu tiếp và cũng chẳng trao đổi với nhau lời nào cả nửa tiếng đồng hồ.
Khi Đại tướng Trần Thiện Khiêm kiêm Thủ tướng tới họp tại Tiểu khu Quảng Trị, ông đã quay sang nói một câu ngắn ngủi với Đại Tá Kỳ, Tỉnh trưởng Quảng Trị;" Anh Kỳ hãy lo đưa Tòa Hành Chánh và dân Quãng Trị di tản vào Huế". Một quyết định đã có sẵn và được ban bố không một lời giải thích về nguyên nhân chiến lược xâu kín và áp lực của địch, đã nổ ra như một tiếng sấm động trong một ngày trời đang quang đãng. Cả một hội trường, từ cấp cao đến cấp thấp đều ngồi lặng đi, trước viễn tượng của một thảm họa, vì trong thâm tâm, ai cũng có một ý nghĩ thế là đúng rồi: Trung Ương đã quyết định rút quân ra khỏi Vùng I và như vậy là bỏ Vùng I.
Trước đó Tướng Ngô Quang Trưởng có tiết lộ với tôi biết trước là Tướng Nguyễn Văn Thiệu có liên lạc với ông và ra lệnh cho ông phải rút lực lượng Tổng trừ bị đã được tăng cường cũng như các sư đoàn vào Nam để thu hẹp lãnh thổ phòng thủ chiến lược giới hạn bởi Quân Khu III. Tướng Trưởng đã trả lời thẳng với vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội:" Tôi là tướng cầm quân ở tiền tuyến, nên không thể ra lệnh rút quân, và nếu Tổng Thống muốn rút quân, chính Tổng Thống phải ban hành lệnh đó. Thay vì đích thân ra vùng I, ông đã cử Thủ tướng Khiêm thay mặt ông để chính thức ban hành lệnh rút quân.
(Tôi xin mở ngoặc ở đây để các bạn muốn theo dõi chi tiết cuộc rút quân hãi hùng thiếu kế hoạch và thiếu trật tự từ miền Trung, xin hãy đón đọc cuốn hồi ký cả ngàn trang của Duy Lam sắp xuất bản).
Sau khi tướng Ngô Quang Trưởng cáo ốm nằm tại Bịnh viện Cộng Hòa, rồi về nghỉ ngơi tại biệt thự của ông tại cư xá sĩ quan Chí Hòa, tôi có ghé đến thăm anh và bàn qua về diễn tiến của tình hình và những giải pháp chính trị quốc tế khả hữu có thể đưa tới một cuộc điều đình giữa miền Nam và Cộng sản. Anh cũng cho tôi biết riêng theo những tin tức thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sắp từ chức, để nhường lại cho ông Trần Văn Hương. Tôi tỏ vẻ nghi ngờ về sự từ chức quá muộn màng như vậy, và e rằng các chính phủ chuyển tiếp cũng khó lòng đòi hỏi những điều kiện thuận lợi khi miền Nam tiếp tục rã ra từng mảng lớn, và quả thật khó nói đến chuyện điều đình mà cả quốc tế, khi quân lực và lãnh thổ càng ngày càng thâu nhỏ lại.
Tôi cũng ghé lại trụ sở Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, gặp lại anh Nguyễn Ngọc Huy và một số anh em trong Ban Chấp Hành Trung Ương. Sau một buổi họp khẩn cấp tại trụ sở Cấp Tiến, một buổi ký cam kết quyết tử được tổ chức công khai với sự hiện diện của các báo chí Sài Gòn.
Vì tôi là một người đã chứng kiến sự cam kết quyết tử và bảo vệ lãnh thổ Đà Nẳng đã được công bố bởi các vị lãnh đạo các cấp quân sự vào những ngày cuối của thành phố nầy, đã chỉ đưa đến kết quả là các lực lượng chính quy lẳng lặng rút lui đi bằng đường thủy, để các khối quần chúng hoảng loạn tự lo liệu lấy sự đào thoát, nên tôi cũng không mấy tin tưởng vào tất cả những cam kết quyết tử, nhất là của một đảng chính trị không có dù một lực lượng quân sự nhỏ bé để tự bảo vệ.
Tôi cũng tiến lên ký vào bản cam kết chung cùng với các đại diện của Ban Chấp Hành Trung Ương, và thực sự tôi cũng không hiểu cam kết nầy sẽ được thực hiện như thế nào, hay đó chỉ là một sự biểu lộ muộn màng của tinh thần chống Cộng cố hữu của những người quốc gia. Quyết định chung cuộc là trên chiến trường và những biến chuyển trên mặt trận quân sự và những tin đồn đại về những giải pháp điều đình với phía bên kia, với sự bảo đảm của các đại cường ký trong Hiệp Định Paris thực ra rất khó thực hiện. Đơn giản, khi bên kia đang trên đà thắng thế và với đà tiến quân và tương quan lực lượng hiện nay, họ cũng khó mà bị áp lực phải chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị.
Sau hai lần từ chối không đi Mỹ, một lần ông Scott và một lần Trung tướng Ngô Quang Trưởng, vào tuần lể cuối cùng của tháng tư, tôi ghé thăm anh Nguyễn Ngọc Huy tại công thự khiêm nhường của anh ở đầu đường Cao Thắng, chúng tôi bàn thảo về các biến cố chính trị đang diễn tiến và thái độ thích hợp phải có của chính chúng tôi, về chuyện đi hay ở. Anh có nhắc tôi giải pháp do Pháp trung gian của Mereillon , và theo tôi anh có vẻ đặt hi vọng nào đó vào giải pháp nầy sẽ cứu được miền Nam.
Tôi đã nói thẳng với anh, theo tôi tôi không tin Mỹ sau khi bỏ Việt Nam lại chịu để Pháp và Trung Quốc tạo được ảnh hưởng với Việt Nam chung cả hai miền Nam Bắc theo như thỏa thuận Mao Trạch Đông-Nixon năm 1972. Tôi cũng cho anh biết thuần túy trên lãnh vực quân sự, Cộng Sản sẽ tiến thẳng vào Sài Gòn chiếm gọn miền Nam và tạo một sự đã rồi, fait accompli, cả về quân sự lẫn chính trị. Tôi hỏi anh những nhà lãnh đạo miền Bắc đang đà thắng thế quân sự có chịu ngừng lại để điều đình hay không? Theo tôi chắc là không và miền Nam sẽ mất trong một tương lai rất gần.
Anh Huy có vẻ suy nghĩ nhận định nặng về quân sự của tôi và rồi anh thở dài khi tôi lên tiếng hỏi anh liệu anh tính ra đi hay ở lại? Vì tôi đã nói qua cho anh biết hai lần từ chối không đi Mỹ của tôi, nên anh nhìn thẳng vào mắt tôi và nói cả quyết:" Như vậy là chúng ta cũng phải ở lại với anh em mà thôi". Tôi thầm khâm phục cái thái độ cương quyết của anh, như là một nhà lãnh đạo chính trị trong một tình huống cực kỳ khó khăn. Tôi nhìn anh rồi chậm rãi trình bày những gì tôi biết về chính sách của người Cộng Sản đối với những người thuộc chế độ cũ thời sau năm 1954. Tôi nói nếu chúng ta ở lại chắc sẽ bị đưa đi đến các trại tập trung và cứ nhiều lần ba năm cho đến chẳng biết là khi nào mới được tự do. Theo tôi cái chết của một kẻ sĩ nhẹ tợ lông hồng nhưng trong một số trường hợp lại nặng như núi Thái Sơn, nhất là đối với những người có trách vụ lớn phải gánh vác. Anh sức khỏe yếu như vậy, tôi sợ dù anh chọn ở lại thời chắc cũng khó sống qua vài tháng tù. Anh có uy tín đối với quốc tế, anh xuất ngoại hoạt động có lợi nhiều hơn cho người Quốc Gia, tôi trẻ hơn anh mười tuổi nên chúng ta phân công, một mình tôi ở lại đủ rồi, còn anh nên đi. Tôi hẹn anh một này nào đó nếu tôi còn sống sau thời gian bị Cộng Sản tù đầy, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở một nợi chốn nào đó ở hải ngoại để tiếp tục hoạt động và sát cánh với nhau. Đấy chỉ là một sự phân công suy tính căn cứ trên cái lợi cái hại của sự ra đi hay ở lại và chẳng phải đi là tham sống sợ chết hay ở lại là can đảm.
Anh Huy rất buồn khi bắt tay từ biệt tôi và tôi nghĩ khi anh không còn nhắc đến chuyện ở lại với tôi, thời có nghĩa anh đã chọn ra đi. Tôi cũng đâu ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp anh Huy và sự chia tay đã không phải là tạm biệt mà là vĩnh biệt.
Thôi, thế là xong. Tôi nhìn những chiếc xe Jeep cắm cờ Mặt trận Giải phóng với những thanh niên hò hét, phất cờ và giơ cao vũ khí, tay mang băng đỏ, những nhà sư ba mươi đi phát cờ Giải Phóng và ôm các bà nhảy tửng tửng hô: "Phe ta thắng! Phe ta thắng!". Họ là ai vậy? Cộng sản nằm vùng hay những kẻ theo thời? Cách mạng giờ thứ hai mươi lăm? Tôi thoáng nghĩ không chừng có kẻ thấy tôi mặc quân phục đeo vũ khí, sẽ có thể bóp cò súng nhắm vào tôi? Tuy nhiên tôi vẫn lặng lẽ đi và tính về nhà sẽ tìm cách trút bỏ quân phục và vứt bỏ khẩu súng Colt. Quạ từ đâu bay về nhiều quá, đen cả bầu trời. Lại có cả tơ trời nữa, đó là điềm lạ hay điềm gở của miền Nam. Mùa nầy bông cây dầu nồng nàn thơm mùi nam tử. Bây giờ trộn lẫn với hương đêm và mùi khói súng bắn chỉ thiên, loạn xạ. Tin dử đồn tự tử tập thể ở trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám và vài đơn vị lẻ tẻ. Tất cả những cái đó giờ đây đâu còn mang một ý nghĩa nào dù nhỏ nhất. Tại sao chỉ qua vài phút ngắn ngủi mà tôi thấy quang cảnh ngoại vật đột nhiên mất hết các ý nghĩa thông thường quen thuộc, nhà cửa, con người và ngay cả đến lời nói từ ngữ và cách xưng hô với nhau, liên hệ cố hữu giữa người và người và người và vật. Tiếng Trung tá mà vị Thiếu tá vừa gọi tôi chắc cũng chỉ một thói quen lâu đời. Trung tá Thiếu tá Đại tướng Thiếu tướng cũng như là tiếng người ta xưng tụng những kẻ đã nằm dưới mồ. Tôi vốn là một người viết văn quá nửa đời người nên từ ngữ vốn mang nặng những ý nghĩa xâu xa với cái ma lực riêng của nó. Tôi bây giờ là ai? Một cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Một kẻ thất trận? Một tù binh chiến tranh? Chắc tôi chỉ còn cái danh hiệu là nhà văn với những tác phẩm cụ thể đóng góp cho văn chương? Thực sự đọc nhiều về chính sách của kẻ địch, tôi hiểu trước sau họ sẽ tự bỏ luôn cái danh hiệu cuối cùng đó của tôi, nếu tôi từ chối không cộng tác với họ. Tôi tin dù họ bỏ tù được thân xác tôi, nhưng họ khó có thể tha hoá được tôi, biến đổi tôi thành một bộ máy vô hồn. Tôi nghĩ tôi đang mỉm cười, hơi một chút chua chát, hơi một chút ngạo nghễ. Cuối cùng ai sẽ thắng? Điều đó thời phải năm mươi năm nữa, tôi mới có câu trả lời chính xác, đúng theo phương pháp luận của sử học. Hiện thời tôi chỉ có thể bình tĩnh và đầy đủ tự tin đón chờ số phận của tôi, cũng như tất cả các người sống trên mảnh đất miền Nam nầy. Nói cho cùng chẳng phải nhà quân sự hay nhà chính trị trong tôi đã đưa ra những lý luận thuần lý để biện minh cho việc tôi đã ba lần từ chối xuất ngoại, để ở lại. Xâu xa hơn nữa, trong con người tôi, chính cái con người nhà văn dấn thân trong tôi, đã chi phối sự chọn lựa nầy của tôi. Cái lòng tò mò ghê gớm đã thúc đẩy tôi từ trước đến nay, là luôn chọn đi vào trung tâm các cơn bão lốc của thời thế, để có thể đích thân sống qua và chứng kiến các xúc cảm, về những gì các hoàn cảnh sống mang lại cho tâm hồn của một người cầm bút. Tôi sợ nếu tôi đã ra đi một ngày nào đó lưu vong ở một đất nước xa xôi và xa lạ nào đó, tôi sẽ tiếc là không có dịp ở lại, để bị tù đày hành hạ, vì như vậy tôi sẽ thành một người ngoại cuộc, đối với nỗi thống khổ mà dân tộc tôi phải chịu. Chắc lúc đó tôi sẽ khổ tâm và ân hận, điều mà tôi sợ nhất trong đời. Tâm trạng tôi lúc đó giống như một người nhảy xuống vực sâu, chỉ mong chạm đáy vực dầu thịt nát xương rơi, nhưng không bao giờ tới đáy. Mãi đến gần 20 năm sau những hoạt cảnh của ngày 30/4 mới tuần tự xuất hiện trong bài thơ Tháng Tư Đen. Điều đó vào giây phút mọi sự diễn biến trước mắt tôi, tôi chỉ tỉnh táo quan sát, mà chưa ý thức được rõ rệt là rồi chúng sẽ được thể hiện trong văn hay thơ của tôi vào lúc nào, cách nào trong đời của một người cầm bút. 


DUY LAM

(Nguồn: vnthuquan.net)



14.5.10

Anh Hùng Tử Sĩ Nguyễn Ngọc Bửu

-->
  
                                          
  


Anh Hùng Tử Sĩ Nguyễn Ngọc Bửu


Nguyễn Ngọc Bửu, SVSQ/Đại Đội A/K25/TVBQGVN. Là một SVSQ hiền lành cương trực, sống yêu đời với nụ cười thân mật luôn nở trên môi. Bạn bè khóa 25, ai cũng đều thương mến.
Ngày mãn khóa, anh "không cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao nắng mưa cùng nguy hiểm", anh chọn binh chủng lừng danh của QLVNCN, binh chủng TQLC.


6.5.10

chim Phượng về Tây Bắc


Nhớ xưa chim Phượng bay vào núi

tiếng kêu buồn thảm vọng về Nam
thành tan xiêu đổ chàng đi biệt
ôi, nước sông Ngân chảy bên trời
năm ấy trên đường bay truy kích
Chàng về Lương Sơn ngày cuối năm
nơi đất Phương Đoài mây xám bạc
phi vụ hành quân
chiều mật khu
gío thổi cát vàng
thấm máu đỏ tươi
vùng đất hiểm hung
chuyện sống chết như đùa
nơi tử địa
Chàng bỏ lại nhà xưa
chiều khói bếp
người vợ yêu kiều
hơi ấm còn thơm
một thân theo gío vào đất địch
hiu hắt ngậm ngùi lên cỏ cây
như tiếng Sơn Ca trưa lồng lộng
bay vút tầng không vọng bốn phương
nhớ xưa chàng như cơn lốc bụi
Thiên Mã về Trời
vó ngựa bốc mù trên đồi tranh
giày cỏ tha phương
cơn mưa đầu mùa phố chợ
ngồi bệt thềm hoang
gío lùa ủ rũ
chiều Tàn Quân
về ngang sông Lũy
Phượng đỏ bên đường
tà áo xưa bay
guốc gỗ đường trơn
một thời thê thiết
lượn tóc mây bay
suốt mùa ly loạn
Hồng Hạc bên trời đậu bến sông xa
Thiên Thu chim Phượng về Tây Bắc
hồn ngóng Trùng Dương
chỉ thấy Rừng

Cái trọng Ty


5.5.10

Tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4 ở đâu và như thế nào?



Vũ Ánh
(03/13/2010)
 
Trong những trại cải tạo, cái đói khát triền miên, ốm đau không có thuốc, công việc lao động khổ sai không làm chúng tôi sợ bằng hằng năm cứ vào đêm 29 tháng 4, đám cai tù buộc chúng tôi phải xem lại toàn bộ hình ảnh sự thất bại của chính mình vào sáng ngày 30 tháng 4 cách đây 35 năm. Tôi không hiểu những người bạn tù khác nghĩ sao, nhưng riêng tôi, hành động này là một đòn tra tấn tinh vi nhất mà những người chiến thắng sử dụng với người chiến bại.
Hàng ngàn người tù bị đẩy ra sân trại vào buổi tối để bắt buộc phải ngó lên một màn ảnh, nhìn những thước phim được chạy qua một ống kính của máy chiếu 16 ly ghi cảnh tan hàng tức tưởi của một trong 4 quân lực hùng mạnh nhất thế giới. Hàng đống xe cơ giới, thiết giáp, M-113, đại bác, súng cối, M-16, ba lô, quân phục, cờ, thẻ bài được quay cận cảnh chen lẫn đó đây, những nhóm quân nhân VNCH phải cởi bỏ quân phục, chỉ còn chiếc áo lót và quần đùi trước mũi súng của kẻ chiến thắng. Còn nỗi cay đắng nào hơn, nhưng cuối cùng cũng phải uống những chén thuốc đắng, dù chỉ là để “nhớ nước đau lòng con quốc quốc.”
Ðầu tiên, anh em chúng tôi tìm cách khai bệnh và ở lại buồng giam để khỏi phải tập họp xem phim. Sau đó, bọn cai tù phát giác ra chuyện này và đem nhốt tất cả những ai không chịu xem phim vào xà lim để trừng phạt. Nhưng riết rồi số người từ chối xem phim ngày một đông hơn và họ vui vẻ đưa chân vào cùm trong những xá lim cá nhân. Mỗi xà lim cá nhân chỉ nhốt 2 người nhưng vào những dịp 30 tháng 4, nhân số gia tăng lên 10, rồi 15 người mỗi xà lim. Chúng tôi ngộp thở đến nỗi phải chia phiên nhau thò lỗ mũi ra cửa tò vò duy nhất của cánh cửa xà lim để thở, nhưng sao vẫn thấy lòng vẫn nhẹ nhàng và cùng nhau hát tù ca hăng hái hơn.
Nhưng sau khi được định cư ở Hoa Kỳ rồi, cảm tưởng sợ hãi lại trở lại với tôi mỗi năm đến dịp cộng đồng tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4. Ðã được may mắn hơn người khác thoát được cái nhà tù lớn Việt Nam, được sống trong một đất nước tự do, dân chủ, quyền con người được tôn trọng, được tự do phát biểu những ý nghĩ của mình, sao lại sợ hãi?
Quí vị độc giả hãy cùng tôi nghĩ lại xem trong hai thập niên qua, đã bao lần trong cộng đồng này, cứ đến gần ngày tưởng niệm, đã nảy sinh các cuộc tranh cãi về việc ai được quyền treo cờ trên phố Bolsa, ai được quyền tổ chức ngày 30 tháng 4. Rồi đến khi có được khu Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ, sự tranh cãi ai được quyền tổ chức ngày tưởng niệm 30 tháng 4 đúng ngày và phải tổ chức ở khu tượng đài vẫn là một hình ảnh đậm nét nhất.
Dĩ nhiên, không ai có thể không công nhận là tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4 ở Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ là điều kiện tối ưu. Nhưng nếu kẹt là trước đó đã có người có giấy phép làm đúng ngày này thì tại sao lại không tổ chức vào vài ngày trước đó. Ngày 25 tháng 4 thì có khác gì ngày 30 tháng 4? Ngày 20 tháng 4 thì có khác gì ngày 25 tháng 4. Thời gian đó cũng đã có thể gọi là tuyệt vọng đối với VNCH rồi. Mọi người chờ đợi cái thòng lọng tròng vào cổ mình nên đã có người gọi toàn bộ tháng tư năm 1975 là Tháng Tư Ðen cũng không ngoa.
Và nếu như thế thì việc tưởng niệm được tổ chức đúng vào ngày hay trước ngày 30 tháng 4 thì cũng vẫn là quốc hận như thường. Nếu đã gọi là quốc hận thì từ dân đến quân, cán, chính đều cùng có những đau khổ, cay đắng và nhục nhã như nhau, có gì mà phải tranh đấu cho được chính mình hay tổ chức của mình mới là người có quyền tổ chức tưởng niệm ở tượng đài.
Thực tế, ngày giờ và địa điểm tổ chức lễ tưởng niệm không quan trọng lắm mà quan trọng là nội dụng của chương trình tưởng niệm có đáp ứng được mối quan tâm của đồng hương không, có biểu lộ được tinh thần đoàn kết đồng lòng rửa mối hận mất nước bằng cách khôi phục nền dân chủ và nhân quyền cho hơn 80 triệu đồng bào Việt Nam ở trong nước hay không? Nói đoàn kết mà ngay trong việc tổ chức ngày tưởng niệm 30 tháng 4 cũng còn tranh cãi với nhau thì sao tạo được niềm tin trong đồng hương.
Cho nên, hình ảnh sẽ gây được ấn tượng mạnh nhất trong lễ tưởng niệm năm nay, nếu tất cả các tổ chức tạm xếp những khác biệt chính kiến nắm tay nhau đứng hàng một dọc theo các con đường từ Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ dẫn về trung tâm Little Saigon. Làm được điều này chúng ta cũng sẽ tránh được việc phải nhờ đến thành phố, nhất là phải nhờ đến những người chẳng bao giờ thông cảm nổi nỗi đau của chính chúng ta giải quyết chuyện tranh chấp về ngày và vị trí tổ chức lễ tưởng niệm. Cá nhân, tôi ủng hộ mạnh mẽ ý kiến của luật sư Chris Phan, thành viên trong Ủy Ban Tượng Ðài và Chủ tịch Hội Quân Nhân Người Mỹ Gốc Việt, là hãy cố gắng thương lượng dàn xếp và thảo luận với Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Sát Orange County Janet Nguyễn để hợp tác tổ chức một Lễ Tưởng Niệm 30 tháng 4 thật ý nghĩa.
Ý nghĩa của một lễ tưởng niệm không phải chỉ là sự hoành tráng của những tiết mục mà còn là nội dung nói lên được gì. Hà Nội hiện đang thuê Bắc Hàn giúp tổ chức những màn đồng diễn lớn lao. Nhưng những người tham dự đồng diễn cũng như những người ra lệnh tổ chức sẽ chỉ là những con người máy không trái tim nếu họ không nêu rõ được tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm Trung Hoa, bởi vì hoàng thành Thăng Long tượng trưng cho cuộc chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm phương Bắc.
Ở hải ngoại, cũng vậy. Nếu chúng ta không biểu lộ được tinh thần dẹp bỏ những khác biệt để cùng nhau bày tỏ sự đoàn kết trong một lễ tưởng niệm, dù nó được tổ chức lớn lao, dềnh dàng, ở đâu đi nữa, thì vẫn không nói lên được đầy đủ ý nghĩa.
Năm nay lại còn là năm bầu cử, nhưng bất cứ ban tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4 nào biến lễ tưởng niệm thành cơ hội tuyên truyền cho bất cứ ứng cử viên nào cũng sẽ gây tai hại khôn lường. (V.A.)


(Nguồn:  http://www.vietherald.com)


2.5.10

Ði “thăm” một vị tướng anh hùng QLVNCH






Nguyễn Thanh Khiết (viết riêng cho Việt Herald)



Ðã 5 năm qua, năm nào cũng vậy, cứ mỗi cuối tháng 4, sau khi đã như chết rồi trong tiếng reo hò chiến thắng, tiếng pháo mừng đì đùng của giặc, tôi lui cui chuẩn bị ra khỏi nhà vào buổi chiều, đi lên phía Gò Vấp, trên đường Lê Quang Ðịnh, một trong số những con đường may mắn chưa bị đổi tên suốt 35 năm nhục nhằn của thành phố Sài Gòn từ sau ngày 30 tháng 4, 1975 tang thương cũ.


Chùa Già Lam, một cái tên dễ gọi nhưng thật khó. Năm năm về trước, tôi mày mò trên mạng, vào một trang web, một ai đó ghi hàng thông tin “...theo nguồn tin của gia đình tướng Nguyễn Khoa Nam, hài cốt ông được đưa về ‘chùa Gia-Lâm’ đường Lê Quang Ðịnh, Gò Vấp.” Tôi bỏ ra 3 ngày đi nát con đường nầy, Lê Quang Ðịnh không dài, chỉ là con đường cũ từ trước cửa chợ Bà Chiểu thẳng một mạch lên Gò Vấp và kết thúc tại khu nổi tiếng là ngã năm chuồng chó. Vậy mà tôi đi miết 3 ngày, hỏi cả trăm người cái “chùa Già Lâm” ai cũng lắc đầu chẳng biết nó ở đâu. Buổi chiều cuối cùng, với thất vọng và mệt mỏi, tôi ghé vào trạm xăng bên đường, định đổ đầy một bình rồi lên xe về.


Chiều xuống thành phố chật chội bụi xe, người ngựa dân đi làm từ các công sở ùa ra đường phố, đường nào cũng chật, cũng kẹt xe, tôi cố mà không băng qua được bên kia đường cho đúng chiều. Chán nản, tôi dắt con ngựa sắt phong trần, bung bửng, mất vè, đi dọc về phía chợ Bà Chiểu. Ngừng ở một ngã ba, châm điếu thuốc, tự thưởng chuyến hành hương bất thành.


Tôi ngước lên phà khói, bất thần tôi nhìn thấy ba chữ “chùa Già Lam.” Tôi chợt hiểu, cái trang mạng mắc dịch nào đó, một đương sự, không biết tiếng Việt nào đó, một cu cậu không cài phần mềm bỏ dấu tiếng mẹ đẻ nào đó, đã lỡ tay gõ trên thông tin hai chữ “Gia-Lam,” rồi một ông cốt đột nào đó (chắc chắn không phải là cư dân Gò Vấp) đã quá tay dịch từ tiếng Việt sang... tiếng Việt là “Gia-Lâm” báo hại tôi lội 3 ngày trên con đường không hơn 5 cây số này.


Tôi thở ra một cái, tự thưởng cho cái thông minh quá muộn màng của mình, sau khi đã đẫm mồ hôi tới 3 cái áo. Tôi lên xe đi theo hướng mũi tên trên biển báo, lại một phen ngất ngư vì hẻm Sài Gòn. Từ mặt lộ, vào chưa tới 50 mét, con hẻm chia ra hai hẻm nhỏ, mỗi con hẻm có tới hai ngôi chùa tên nghe lạ hoắc, tôi phải lộn ngược ra ngoài hỏi thăm thật cặn kẽ rồi mới an tâm vào bên trong.


Già Lam là một ngôi cổ tự, nằm tận cùng trong con hẻm, ngôi chùa rộng, có khoảng sân ngoài lát đá thật khang trang, qua khỏi cổng là cái sân trồng hoa, một số cội mai lớn sắp hàng trên lối vào chánh điện.


Bên trái là địa tạng đường, xây đơn giản, gồm hai tầng với một cầu thang bằng xi măng vừa đủ cho một người đi lên. Tôi hỏi thăm người giữ xe ở cổng, một cảnh sát trước năm 1975, vóc dáng gầy gò, nhưng nhiệt tình. Khi biết tôi muốn thăm và thắp nhang cho tướng Nguyễn Khoa Nam, ông nắm tay tôi kéo lên cầu thang và giới thiệu tôi với một tăng nhân trạc hơn 30 tuổi có nhiệm vụ trông coi địa tạng đường.
Quả thật, cũng khó mà tìm ra nơi đặt hài cốt, nếu không có người hướng dẫn và sơ đồ chỉ rõ. Trong địa tạng đường, nếu tôi không nhầm, có gần mấy ngàn tro cốt chứa trong các lọ nhỏ lớn đủ kiểu, đủ dáng, đặt trong những tủ kính nằm dọc và dài bằng bức tường phòng.


Có bốn hàng tủ như vậy với hai lối đi nhỏ dọc theo chiều dài, mỗi tủ cao bằng trần nhà nên luôn có một cái ghế gỗ cao cho thân nhân dùng leo lên đối với những hài cốt nằm phía trên cùng.


Hũ tro cốt của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam có lẽ do một duyên may nào đó hoặc do vị trụ trì chùa này, một thượng toạ đã viên tịch sau lần cầu siêu cho tướng Nam vào ngày bốc cốt và gởi vào chùa, là người có giao tình với gia đình của thiếu tướng. Hũ tro cốt của tướng Nam được đặt vào ngăn thứ 5 trong tủ kính nhỏ kê sát bức tượng Ðịa Tạng Vương trên bàn thờ giữa phòng.


Khác những năm trước, chiều nay tôi vào thăm ông từ lúc 1 giờ trưa, địa tạng đường khóa ngoài, người trông coi vắng mặt. Tôi trở ra quán cà phê Dương Cầm nằm trên con đường nhỏ gối đầu Lê Quang Ðịnh, tôi không chờ, không đợi ai, và tôi biết ngày hôm nay tôi chỉ có một việc: Bước vào địa tạng đường, thắp một nén hương cho một vị anh hùng đã tuẫn tiết theo thành khi nước mất nhà tan, bằng khí tiết của một tướng tư lệnh.









Ông tự kết liễu đời mình vào ngày + N, sau khi đã vào thăm các binh sĩ của mình trên con đường giữ nước không may thương tật đang được nằm điều trị trong bệnh viện Phan Thanh Giản. Ông vô cùng can đảm khi phó tướng của ông, chuẩn tướng Lê Văn Hưng đã đi trước ông một bước. Tướng Hưng đã tự sát bằng chính cây súng lệnh của mình khi giặc tràn vào bộ tư lệnh và khi kế hoạch phản công của tướng Nam cùng ông với những đặc lệnh truyền tin đủ chuẩn bị cho cuộc kháng cự “cố thủ miền Tây” dù Sài Gòn đã thực sự buông súng để rơi vào tay Bắc quân.


Một kế hoạch dựa vào kinh nghiệm chiến đấu trên sông rạch của hai ông bị một đại tá có nhiệm vụ thi hành đã nhẫn tâm ném nó vào sọt rác và ra đi theo đoàn người di tản, để lại một hậu quả tang thương cho vùng IV sông ngòi.


Ly cà phê nhỏ những giọt chậm, buồn hơn mọi ngày. Trong cái sánh đen của màu cà phê, tôi còn như thấy được hạt máu những anh hùng bất tử đã đổ xuống cho quê hương nầy như năm tướng Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng và Nguyễn Khoa Nam.


Uống ly cà phê tôi còn nghe vẳng đâu đó một bản nhạc buồn “Anh hỡi anh ở lại Charlie, anh hỡi anh giã từ vũ khí.” Tôi nghĩ tôi phải tội nghiệp cho ông tướng mà chiều nay tôi sẽ đốt một nén nhang tưởng niệm ông. Ông chết chi vào cái ngày mắc dịch đó để không có ai làm cho ông một bài hát đại khái như vầy cũng được:
“Tôi thương ông, người chiến sĩ không bán mình cho giặc, biết chết và chết oai hùng, ngay trên đống tro tàn còn bốc khói...”


Tôi trở lại chùa Già Lam lúc 6 giờ chiều, và đúng chiều nay sau khi uống ly cà phê suốt 4 giờ chết tiệt.


Người giữ cửa vẫn chưa tới. Tôi bước thẳng vào trong khi thấy lấp ló một tăng nhân trong đó, tôi trình bày ngắn gọn và được giúp đỡ tận tình. Ông đưa cho tôi xâu chìa khoá, chỉ cho tôi cái chìa để mở cửa phòng chứa tro cốt của tướng Nguyễn Khoa Nam. “Ông biết chỗ rồi phải không? Hay để tôi chỉ cho ông?” Tôi cám ơn vị tăng nhân và cầm chìa khoá đi thẳng lên tầng trên.


Ðịa tạng đường tối âm u, cái u uất thường cảm nhận ở những nơi như vầy. Chiều đã hết, bây giờ là thời gian của âm khí, cái âm khí rợn dọc sống lưng, giống như một bãi tha ma. Theo lời chỉ dẫn của tăng nhân khi nãy, tôi kéo cầu dao bật điện, mở cửa bước vào phòng.


Bức tượng Ðịa Tạng Vương bồ tát to lớn đặt giữa phòng, cái lư hương trống trơn không một que nhang tàn trong đó. Tôi thật sự xúc động. Hôm nay ngày giỗ của ông, thì tại nơi này, nơi đặt lọ tro cốt của ông, chút thân xác hóa tro đó, anh linh của một thời hiển hách đó, nhang tàn khói lạnh. Không ai, quả thực không ai buồn thắp nén nhang cho ấm lòng.


Tôi lấy cái quẹt ga để sẵn trên bàn thờ và lựa ba nén nhang, loại nhang thường nhất, nhỏ nhất và ngắn nhất thắp lên bàn thờ bồ tát. Tôi đứng nghiêm trước di ảnh tướng Nam, chụm chân chào ông theo kiểu nhà binh mà tôi học lóm được trong bộ đồ dân sự, trong tính cách một thường dân Nam Bộ. Tôi chào viên tư lệnh vùng IV đã tuẫn tiết theo thành vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5 của 35 năm về trước với tất cả lòng kính trọng và một chút ngậm ngùi. Khi nhìn quanh, chỉ có mình tôi trong chiều xuống giữa địa tạng đường âm u với duy nhất 3 nén nhang thường.


Tôi nhớ trong lòng, 5 năm qua, những lần tôi đến đây, hôm nay ngày tôi buồn nhất. Trước khi ra về, tôi nói nhỏ với di ảnh của người, tôi xin ông cho tôi ghi lại bức ảnh của một tư lệnh, trong chân dung người lính ngày mới ra trường, dù nó không đánh dấu tính oai nghiêm của một danh tướng, nhưng nó là tất cả cái cao thượng, thanh liêm và chất phác của một người đã nằm xuống thực sự hiến dâng cho đất nước.

Bước xuống trả xâu chìa khoá trên bàn vị tăng nhân đã cho tôi mượn, sau khi kéo cầu dao trả lại bóng tối cho những người đã chết, tôi bước ra sân ghé cái quán lá của người lính cũ giữ xe ngoài cổng, tôi mua bao thuốc. Chưa kịp chào, ông đã nhận ra tôi với nhiều lần lui tới, ông trầm giọng cho vừa đủ nghe: “Ba năm nay, ngày này sao không thấy ai đến đốt nhang cho thiếu tướng, chỉ có mình ông thôi hả?” Tôi cười như mếu quay mặt bước đi, tôi lẩm bẩm một mình: “Hôm nay ngày 1 tháng 5, ba mươi lăm năm rồi. Và ba năm qua chưa có ai nhớ mà về đốt cho tướng Nguyễn Khoa Nam một nén nhang!” (N.T.K.)


(Nguồn: http://www.vietherald.com)