A20 Võ Lâm Tể
Trước biển hoàng hôn
Một
mình trước biển hoàng hôn
Nhìn
theo con nước sóng dồn ra khơi
Mênh
mông tựa sát chân trời
Cô
đơn réo gọi như lời của ai
Em về
chẻ tóc làm hai
Cho
ta một nửa nối dài tuổi thơ
Em ơi
đời huống hững hờ
Thuyền
ta neo giữa biển mơ đã chìm
Để rồi
tình cũng lặng im
Chân
mòn mặt đất qua thềm lãng du
Tuổi
vàng như lá mùa thu
Xạc
xào trên cát mịt mù thế nhân
Thế
nhân ơi nửa chừng xuân
Phải
chăng con tạo cũng ngần ấy thôi
Em về
chẻ tóc làm đôi
Thay
dây mà nối nhịp cầu tri âm
Cho
dù tóc trổ hoa râm
Chén
đời mật đắng tơ tằm vẫn se
Này
Em hãy lắng mà nghe
Thuyền
kia vỗ sóng cầu tre gập ghềnh
Quê
hương! Ừ, lắm hữu tình
Ai đi
mà chẳng quay nhìn bóng xưa...
Hướng
Dương Vũ Đình Thụy
(trại
tù A20 Phú Yên 1993)
Về đây em
Em lặng
đứng bên kia bờ biển cả
Nhuốm
u buồn trên má tuổi hai mươi
Nét
đăm chiêu tràn ngập dấu chân người
Chiều
viễn xứ xa quê lòng tê tái
Bước
tha phương bao giờ em trở lại
Với
quê hương là cái bóng cuộc đời
Biển
Thái Bình sóng dậy mặt trùng khơi
Thuyền
độc mộc vẫn chở đầy chí lớn
Em đã
mất hơn một lần đùa giỡn
Trên
con đường đất Mẹ lắm đau thương
Dáng
thư sinh màu áo trắng sân trường
Hoa kỷ
niệm vấn vương từng trang giấy
Còn
đâu nữa những ngày yêu dấu ấy
Nón tai
bèo giặc cướp lấy tuổi thơ
Quên
làm sao ngày hai buổi dưới cờ
Nhìn
dân tộc từng giờ trong ánh nắng
Phải
không em bên kia bờ biển mặn
Nơi
trời Âu, đô thị xứ Hoa Kỳ
Nơi
phố phường tráng lệ đất Paris
Em có
nhớ quê hương mình không nhỉ,
Hờn
vong quốc máu trào dâng uất khí
Che
trên đầu Dân Tộc chít khăn tang
Buổi
chia tay đôi dòng lệ ngỡ ngàng
Tình
cốt nhục ai hóa thành dâu bể
Nhà
Việt Nam xác xơ nằm hoang phế
Dưới
chân cầu ven núi đá bờ sông
Trẻ
khóc cha người thiếu phụ xa chồng
Bồng
con đứng đau lòng cơn quốc biến
Hồn
Thục đế đã qua rồi vĩnh viễn
Thế
nhưng sao tái diễn ở nơi này
Tiếng
bi thương ai oán vẫn còn đây
Gông
xiềng xích giam thân trong ngục sắt
Ba
mươi tháng tư ngập tràn nước mắt
Lịch
sử quay cuồng trong ánh mắt chúng ta
Thì
Em ơi - về cứu sơn hà
Và
Dân Tộc cũng bắt đầu tái thế
Và ở
đó có một phần thân thể
Của
cha ông từng ngạo nghễ tự hào
Em trở
về nối lại khúc đồng dao
Hòa
nhịp sống câu ca lời của Mẹ
Tiếng
ru con giữa trưa hè quạnh quẽ
Bốn
ngàn năm không lẽ lại vô tình
Nếu
cuộc đời phút cuối phải hy sinh
Cũng
vui vẻ sẵn sàng chân bước tới
Nên
em hãy tự tin - Mình đứng dậy (…)
Hướng
Dương Vũ Đình Thụy
(trại tù A20 Phú Yên 10/1994)
Không thể tình cờ
Anh cứ
trách cho lòng em dậy sóng
Cho nỗi
buồn dừng lại giữa câu thơ
Dẫu
hiếm hoi nhưng không thể tình cờ
Em chợt
thấy đâu bến bờ thương nhớ
Dù sự
thật đó là điều đáng sợ
Đã
cho em bao khốn khổ không cùng
Nhưng
nếu đời là một mẫu số chung
Thì
chắc lẽ mình cũng cùng số phận
Nên
em đã không ngại ngùng chấp nhận
Xích
xiềng kia thôi cũng chỉ tầm thường
Bởi
anh là biểu tượng của quê hương
Là
dáng đứng trên đường em bước đến
Là
ánh sáng của muôn ngàn ngọn nến
Dìu
em qua cùng với trái tim người
Với nụ
cười của cha ông
Của từng
giọt máu trên sông Bạch Đằng.
Hướng
Dương Vũ Đình Thụy
(trại tù A20 Phú Yên 12/1993.)
Trung
Tâm Văn Bút HK
Tặng Giải Vasyl Stus Quyền Tự Do Viết Văn Lần Thứ 10
Cho Nhà Thơ Hướng Dương Vũ Đình Thụy
Tặng Giải Vasyl Stus Quyền Tự Do Viết Văn Lần Thứ 10
Cho Nhà Thơ Hướng Dương Vũ Đình Thụy
-
Nguyên Hoàng Bảo Việt, hội viên Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại, Nhà Văn
Việt Nam Lưu Vong và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại/ PEN Âu Châu.
Theo
Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ, Trung tâm Văn Bút Hoa Kỳ/PEN
New England đã quyết định trao tặng nhà thơ tù nhân Hướng Dương Vũ Đình Thụy Giải thưởng Vasyl Stus Quyền Tự Do Viết
Văn 2007 (Vasyl Stus Freedom-to-Write Award).
Đây
là người cầm bút thứ 10 trên thế giới được vinh danh từ khi có Giải thưởng cao
quý này. Trước nhà thơ Việt Nam, Hội Đồng Tuyển Chọn đã tuyên dương ông Recep
Marasli, nhà thơ Kurdistan (1998), bà Ferida Durakovic, thi sĩ Bosnie (1999),
hai anh em ông Daniel & Philip Berrigan, nhà văn Hoa Kỳ và ông Alejandra
Marcela Matus Acuna, nhà văn Chí Lợi (2000), ông Mehrangiz Kar, nhà văn và luật
sư Ba Tư (2001), ông Grigory Pasko, nhà thơ và nhà báo Nga (2002), ông Ali
Al-Domaini, nhà thơ và nhà văn Arabie Séoudite (2005) và ông Shi Tao, nhà thơ
và nhà báo Trung Hoa (2006).
Giải
thưởng Vasyl Stus Quyền Tự Do Viết Văn được trao tặng cho những nhà văn nhà thơ
bị ngược đãi hoặc tù đày chỉ vì đã dùng ngòi bút để diễn đạt những tư tưởng của
họ. Hơn nữa, đối diện với chế độ kiểm duyệt và đàn áp, lòng dũng cảm của họ thật
gương mẫu xứng đáng được ca ngợi.
Giải
thưởng mang tên Vasyl Stus để vinh danh nhà thơ và nhà phê bình văn học nước
Ukraine. Ông Vasyl Stus là tiếng nói lãnh đạo của thế hệ ông. Năm 1965, ông
Vasyl Stus bị trục xuất khỏi Viện Văn Chương thuộc Hàn Lâm Viện Khoa Học Liên
Sô vì ông phản đối những vụ công an bí mật bắt giữ các nhà dân chủ đối kháng và
những phiên tòa xử kín ngày càng nhiều thêm.
Bị
buộc ‘tội khích động và tuyên truyền chống Liên Sô’, ông bị bắt năm 1972 và bị
kết án 5 năm tù trong trại cưỡng bách lao công với chế độ khắc nghiệt, kèm theo
3 năm lưu đày. Gia nhập Nhóm Nhân Quyền Helsinki Ukraine năm 1979, ông bị bắt lại
năm 1980 và một lần nữa bị kết án 10 năm tù trong trại cưỡng bách lao công với
chế độ khắc nghiệt kèm theo 5 năm lưu đày. Ông là nhà văn cuối cùng đã chết
trong ‘Goulag Sô viết’, một đại địa ngục từng được chế độ Cộng sản Việt Nam coi
như tấm gương. Ông Vasyl Stus mất ngày 4 tháng 9 năm 1985, mới có 47 tuổi.
Nhà thơ Hướng Dương Vũ
Đình Thụy, tên thật Võ Lâm Tể,
59 tuổi, nguyên sĩ quan VNCH động viên thời chiến Việt Nam, là tác giả của những
bài thơ rất truyền cảm. Nhiều bài được sáng tác trong trại tù cộng sản. Thơ ông
biểu lộ tính nhân bản, tình yêu quê hương và lòng quý chuộng tự do. Ông bị lưu
đày không xét xử để “cải tạo” trong các trại tù lao công cưỡng bách từ 1975 đến
1978.
Sau khi trốn trại tù Pleiku khoảng năm 1979, nhà thơ tiếp tục
tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền. Ông bị bắt lại, bị kết án 20 năm tù
và giam tại trại A20 Phú Yên. Khoảng năm 1984, ông tìm cách gởi tập thơ ‘Trước
tòa nhà Công lý’ của ông ra bên ngoài nhưng bất thành. Bọn cai ngục phát hiện
ra bản thảo của ông. Án tù của ông bị xét lại. Nhà thơ bị phạt thêm 12 năm tù nữa
tại một phiên tòa lưu động tỉnh Phú Yên thành lập ngay trong trại tù. Ông bị
hành hạ, đánh đập và bị hư một mắt.
Chính
bản án bất công để trừng phạt ông về ‘tội làm thơ trong tình trạng giam cầm’ và
thái độ dũng cảm của nhà thơ tù nhân trước bạo lực áp bức dã man đã gây xúc động
Hội Đồng Tuyển Chọn Giải thưởng Vasyl Stus Quyền Tự Do Viết Văn, cũng như nhiều
văn hữu khác.
Ngay
từ cuối năm 2004, Ủy ban Văn Bút Quốc Tế Bênh vực nhà Văn bị đàn áp và cầm tù bắt
đầu quan tâm đến trường hợp ông và công nhận ông là một tù nhân ngôn luận. Rồi
tại Bled, nước Slovénie, tháng 6 năm 2005 và tại Berlin, nước Đức, tháng 5 năm
2006, Đại hội Thế giới Văn Bút Quốc Tế thông qua hai Quyết Nghị về Việt Nam do
Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại đề xướng. Các đại biểu thay mặt cho một
trăm Trung tâm Văn Bút đã đồng thanh đòi nhà cầm quyền Hà Nội phóng thích nhà
thơ Hướng Dương Vũ Đình Thụy cùng với
các nhà cầm bút dân chủ đối kháng bị giam cầm trái phép ở trong nước, như Phạm
Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, v.v.
Ngày
19 tháng 4 năm 2007 tới đây, thân thế, tiểu sử nhà thơ Hướng Dương Vũ Đình Thụy,
tân khôi nguyên Giải thưởng Vasyl Stus Quyền Tự Do Viết Văn 2007 và tân hội
viên danh dự Trung tâm Văn Bút Hoa Kỳ/PEN New England, sẽ được giới thiệu với
báo chí trong một Buổi Lễ tổ chức tại nhà thờ First Parish Unitarien
Universalist Church, thành phố Cambridge, tiểu bang Massachusetts Hoa Kỳ. Cũng
vào dịp này, Trung tâm Văn Bút Hoa Kỳ/PEN New England sẽ còn trao tặng Giải thưởng
Thomas Paine Quyền Tự Do Viết Văn 2007 (Thomas Paine Freedom-to-Write Award)
cho ông Piri Thomas, nhà văn Hoa Kỳ gốc Phi châu và Porto Rico.
(Viết
theo tin của nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt, hội viên Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ
Pháp Thoại, Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại/ PEN Âu
Châu).
Genève
ngày 6 tháng 4 năm 2007
Liên
Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ (Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme en SuisseVietnamese League for Human
Rights in Switzerland)
(Nguồn:
http://www.vietbao.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét