6.9.11

TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC


Hồi Ký 26 năm lưu đày

Thích Thiện Minh
CHƯƠNG 6
TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC:
NƠI RỪNG THIÊNG NƯỚC ĐỘC…
“THUNG LŨNG CỦA TỬ THẦN !”
1. NGƯỜI NỮ ANH HÙNG: THÁI THỊ KIM VÂN
Sau vụ đào tường trốn trại bất thành. Tôi bị cùm quyện suốt ngày đêm, bị cúp thăm nuôi, không được nhận quà gia đình đã hơn một năm, đôi chân teo nhỏ lại và gần như bại liệt, đôi mắt trở nên mờ, thân thể ốm dần. Bất ngờ một hôm có một sĩ quan an ninh đến tại cửa phòng và thông báo tôi phải chuẩn bị đồ đạc cá nhân di chuyển gấp, chưa đầy năm phút sau, họ đến mở cửa, anh em các phòng bên cạnh đến kè tôi ra xe … một chuyến đi xa chưa biết sẽ về đâu?.
Chúng tôi tất cả gồm 21 người, 20 người nam và 1 nữ như sau :
1. Ông Huỳnh Quang Tiên, nguyên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh tỉnh Bạc Liêu.
2. Ông Danh Hồng, nguyên Hạ sĩ quan Ban Quân nhạc Sư đoàn 21
3. Ông Trương Hồng Phến, nguyên Hạ sĩ quan Tiếp liệu Quân đoàn 4.
4. Quách Văn Hoạch, nguyên Hạ sĩ quan Tiếp liệu Địa Phương quân tỉnh Bạc Liêu.
5. Huỳnh Hữu, nguyên Sĩ quan Đà Lạt.
6. Nguyễn Hồng Phúc, nguyên Sĩ quan Thủ Đức.
7. Nguyễn Long Hội.
8. Thái Kim Lái.
9. Trương Văn Nam
10. Đặng Văn Hai
11. Trịnh Thanh Sơn
12. Lê Văn Tài
13. Võ Anh Dũng
14. Lâm Văn Hoàng
15. Nguyễn Văn Mạnh
16. Nguyễn Thanh Xuân
17. Nguyễn Thanh phong
18. Huỳnh Văn Ba
19. Lâm Hồng Sương
20. Lý Son
21. Chị Thái Thị Kim Vân, nguyên sĩ quan huấn luyện viên trường Nữ quân nhân.
Điều khá trùng hợp là vụ án chính trị của tôi có 21 người, 20 nam và 1 nữ và chuyến viễn hành bị lưu đày kỳ này cũng 21 người, 20 nam và 1 nữ. Đặc biệt chuyến lưu đày biệt xứ này có chị Thái Thị Kim Vân là người được ưu ái và được sự quan tâm nhiều nhất của các anh em. Sự ưu ái quan tâm không những vì chị duy nhất là giới nữ lưu, mà mọi người còn trân trọng, khâm phục và mến mộ vì chị là một người nữ “Anh hùng” tại tỉnh Bạc Liêu. Phải nói rằng, chị có trái tim bằng thép của một ” Đấng nam tử trượng phu” hay là một “Nữ tướng hào kiệt” mới đúng. Trước đây chị từng là một Sĩ quan huấn luyện viên trường “Nữ quân nhân” về môn sử địa, quê quán Sài Gòn chị tham gia vào tổ chức” Mặt trận Dân tộc Tự Quyết”. Với chức vụ là Chánh văn phòng Mặt trận Trung ương, chị bị kết án chung thân. Ngay khi vào tù tôi đã được nghe tiếng tăm vang lừng của chị, với tinh thần nhiệt quyết, bản lĩnh, gan dạ một tấm lòng son sắt, chị có tài hùng biện, lời lẽ đanh thép. Chị từng ứng đối trước Hội đồng xử án 2 lần, sơ và phúc thẩm khiến các vị chánh án phải đuối lý mất mặt. Tòa án có căm giận, ghét chị chứ không dám khinh thường, bao năm qua, bản thân tôi cũng nằm trong kỷ luật chỉ nghe danh chị chứ chưa có dịp diện kiến. Chị luôn đi đầu trong các phong trào đấu tranh vì quyền sống, đòi hỏi yêu sách trong nhà tù, vượt hẳn tinh thần và ý chí của nhiều nam giới, tôi bị cùm quyện kéo dài bao lâu, thì tại phòng nữ kỷ luật chị cũng bị xiềng xích gông cùm, bị hành hạ đủ điều. Thậm chí chị còn bị công an đánh gãy cả hàm răng, chỉ vì chị dám hô to trước trại “Đả đảo cộng sản”. Chuyến đi xa này cũng là lần đầu tiên tôi trực tiếp, tiếp xúc hỏi thăm chị, bởi có dịp cùng chuyến viễn hành. Ngược lại chị cũng nghe nói nhiều về tôi “một ông thầy tu hay luôn xông pha vào dầu sôi lửa bỏng” sự gặp gỡ này cũng là đánh dấu kỷ niệm những năm tháng khổ sai, lưu đày biệt xứ của những người dấn thân đi cứu nước cứu dân.
2. DỪNG CHÂN HAI ĐÊM TẠI KHÁM CHÍ HÒA, GẶP ĐẠI BÀNG NHƯNG BÌNH AN VÔ SỰ …
Kỷ niệm hai đêm tạm nghỉ tại khu AH khám Chí Hòa Sài Gòn trên đường di chuyển lưu đày ..
Chuyến xe đưa 21 người chúng tôi khởi hành từ buổi sáng sớm, nhưng vì lý do thủ tục, xăng dầu, gạo thóc, vũ trang theo xe bảo vệ v.v…Cho nên từ trại cải tạo Cây Gừa đến thành Phố Sài Gòn thì trời đã sụp tối. Đèn thành phố trong những năm này có chỗ sáng chỗ tối, những doanh trại của quân đội, công an hay những cơ quan đầu não của chính quyền thì đường phố nơi ấy sáng trưng dưới ánh đèn điện, còn những nơi khác thì tối tăm, quang cảnh tiêu điều. Người đi dạo phố thưa thớt, trên các ngã đường không còn nhộn nhịp như xưa, những quán xá cũng giảm bớt. Thế nhưng trên đường phố xuất hiện những tên Việt cộng quần áo, mũ nón đủ loại của một đoàn quân ô hợp. Người ta chỉ nhìn lên hễ trông thấy các tòa nhà nào có phơi treo đủ loại quần áo lớn nhỏ kể cả loại kín đáo nhất của phụ nữ hay quần đùi, áo thun lá của nam giới bay phất phới trước mặt tiền của ngôi nhà, thì biết đó là nếp sống “văn hóa mới”, nền ” văn minh thời thượng” của cộng sản rồi ..! Những tầng lầu cao có lá cờ đỏ sao vàng thật to hay có những khẩu hiệu thật lớn thì nơi ấy có VẸM loại to rồi, cho nên:
Đất Sài Gòn chốn đô thành hoa lộng
Được nổi danh là vang bóng yêu kiều
Vui bao nhiêu nay buồn thảm bấy nhiêu
Bởi cộng sản dùng luật điều khắc khổ ..!
Xưa du lịch động cơ máy nổ
Nay đạp xe lội bộ đi chân
Nền văn minh chính ủy chuyển sang
Quay trở lại cả trăm năm về trước ..!
Thiếu nhiên liệu, điện, than, củi, nước
Bao nhu cầu thiếu trước hụt sau
Như mũi tên bắn tận trời cao
Không điểm tựa tên lao xuống đất ..!
Lỡ bấy lâu lên lưng cọp vác
Nên cũng đành nhắm mắt xuôi tay
Nhảy xuống thì bị xé xác phanh thây
Đành nhắm mắt rủi may cho định số ..!
Nhìn xã hội mịt mù tăm tối
Bao thanh niên tấn thối lưỡng nan
Kẻ ăn chơi phóng túng hoang đàng
Kẻ bất mãn bi quan yếm thế ..!
Sống gửi thân trở thành người hư phế
Như chỉ mành khác thể treo chuông
Như cây dâu thân tầm gửi dựa nương
Đành hủy diệt như hạt sương gặp nắng ..!
Kẻ ý thức biết phân tà chánh
Vội lên đường xa lánh chốn phồn hoa
Vào mật khu quyết chiến xông pha
Để chống lại bọn gian tà bạo ác ..!
Bế cửa chùa, nhà thờ, thánh thất
Có Linh mục, có Chức sắc, có nhà sư
Có Mục sư, có Đại đức, có Tăng ni
Có con Chiên, Tín đồ trong các đạo ..!
Có các tầng lớp,Thiếu thanh, Phụ lão
Quyết vùng lên như sóng bão trùng dương
Kẻ công khai người bí mật lên đường
Từ thành thị, núi rừng miền thôn dã ..!
Sự tự nguyện do lòng dân tất cả ..!
Chuyến xe họ đưa chúng tôi suốt một ngày đường, khi đến thành phố Sài Gòn là vào chiều tối thứ bảy, Công an Bạc Liêu gửi 21 người vào khám Chí Hòa để tạm nghỉ hai đêm, sáng sớm thứ hai sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Ngày chủ nhật bọn công an nhà quê Bạc Liêu ở tỉnh lẻ muốn đi cho biết Chợ Lớn, Sài Gòn. Số gạo mang theo đường cho chúng tôi họ đem đi bán để lấy tiền tiêu vì ở Sài Gòn lúc bấy giờ gạo đắt đỏ lắm ! Hai mươi người đàn ông chúng tôi được gởi ở tầng trên của khu AH, nơi phòng giam của thường phạm, còn chị Thái Thị Kim Vân được gởi ở tầng trệt phía dưới các phòng dành cho nữ tù.
Thông thường theo phép lịch sự của người mới đến, khi bước vào phòng giam tất cả anh em chúng tôi đều mĩm cười gật đầu chào xã giao với những người cố cựu trong phòng. Bỗng có một chú thanh niên, tuổi chừng 20 mình trần mặc chiếc quần đùi xanh da trời, thân thể có nhiều vết xâm ra đứng ngay giữa phòng tay kéo lưng quần xuống khỏi rốn, để lộ cả hạ mao… anh ta vỗ tay ba tiếng, hai tay chống nạnh và la to
- “Tập thể hãy im lặng, giữ trật tự”.
Mọi người trong phòng liền im phăng phắc, tất cả đều ngồi thẳng lưng và họ đang trố mắt nhìn chúng tôi. Khi đợi mọi người im lặng, anh Đại Bàng trẻ tuổi này nhìn thẳng vào chúng tôi và nói:
- “Tất cả các anh mới nhập phòng hãy nghe lệnh tôi, phải thực hiện đúng quy định của phòng đề ra. Bây giờ ngay tức khắc tôi yêu cầu tất cả các anh tự chính mình cởi quần áo ra hết, mỗi người chỉ còn duy nhất chiếc quần đùi và tất cả hãy quì gối xuống quay mặt vào tường nhanh lên”.
Tôi thật quá bất ngờ với câu nói đầy quyền uy và mệnh lệnh mà tôi chưa từng được nghe trong đời.Tôi tự hỏi tai của mình nghe không biết có chính xác không? Tôi dường như không mấy tin vào tai của mình nữa! Lúc ấy cả 20 người chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau chưa biết phải đối phó như thế nào? Như nóng lòng chờ đợi, anh Đại Bàng trẻ tuổi này lập lại một lần nữa…..
Trong lúc ấy phía trên đầu hàng ông Thiếu tá Huỳnh Quang Tiên và ông Nguyễn Long Hội quay nhìn xuống phía cuối hàng hỏi ý kiến của tôi :
- “Theo ý Thầy Thiện Minh mình quyết định như thế nào?”.
Tôi quan sát toàn phòng khoảng 40-50 người đa số là ốm yếu bệnh hoạn còn chúng tôi 20 người, ngoài tôi ra thì mọi người thể lực rất sung mãn, đa số là quân cảnh, sĩ quan huấn luyện viên võ thuật, đặc biệt ông Danh Hồng người Khmer biết gồng dao chém không đứt. Bản thân tôi tuy đi đứng không vững, nhưng đôi tay có thể tự bảo vệ cho mình, nếu có sự xô xát xảy ra.Tôi suy nghĩ mình làm việc đại nghĩa này mà lại có người cư xử với mình thô bạo như vậy thì làm sao chấp nhận được! Tôi liền lên tiếng và nói to :
- “Tất cả 20 người chúng tôi đều là tội chính trị, đa số là án tử hình mới giảm xuống chung thân. Chúng tôi làm chính trị để đi cứu lấy đồng bào trong đó có các anh em. Công an tạm gởi chúng tôi ở đây 1 – 2 đêm thôi, sáng thứ hai chúng tôi sẽ lên đường bị lưu đày tận miền Trung rồi! Không biết chừng nào được về và cũng không biết sống chết ra sao? Không lẽ đến đây chỉ ở tạm một vài đêm mà các anh em nỡ lòng nào cư xử với chúng tôi như thế này sao?”
Khi nghe tôi nói anh Đại Bàng hỏi vặn lại một lần nữa!
- “Các anh nói các anh tội gì?”
Tôi trả lời:
- “Tất cả chúng tôi đều là tội chính trị, âm mưu lật đổ chính quyền, hầu hết là án tử hình xuống án chung thân.”
Liền khi ấy anh Đại Bàng vội vàng kéo lưng quần lên khỏi rốn, anh bảo một người đem chiếc áo cho anh mặc vào. Anh ta hoàn toàn thay đổi thái độ, lời nói ôn tồn nhã nhặn rất lễ phép và trân trọng như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Anh đổi cách xưng hô gọi chúng tôi bằng các bác, các chú và xưng là con anh ta nói:
- “Con không biết, con tưởng là tội hình sự, vì khu AH này là khu giam giữ thường phạm từ trước đến nay, xin các bác, các chú tha lỗi cho”.
Sau đó anh đi thẳng đến chỗ tôi đang ngồi, anh ngồi xuống nắm chân tôi vừa nói anh vừa đứng lên miệng mĩm nụ cười hiền lành:
- “Xin thầy tha lỗi và thông cảm cho con! Thầy hơi nóng quá !”
Anh Đại Bàng ra giữa phòng vỗ tay ba tiếng lần thứ hai và nói:
- “Tôi ra lệnh cho tất cả mọi người cũ trong phòng hãy dọn chỗ nằm ra hai bên để khoảng trống chính giữa dành chỗ nằm cho các bác, các chú và ai còn dự trữ nước hãy đem hết xuống cho các bác, các chú tắm nhanh lên!”
Khi chúng tôi tắm xong trong người cảm thấy tinh thần sảng khoái, khỏe khoắn vô cùng vì rửa sạch hết bụi bám đường xa trong một ngày dài mệt nhọc, lúc ấy nhà bếp khám Chí Hòa đã mang lên một thúng cơm còn nóng hổi. Nhưng thức ăn và hành lý chúng tôi hoàn toàn để hết trên xe rồi! Anh Đại Bàng lại tiếp tục ra lệnh lần thứ ba nữa
- “Ai có thức ăn mang xuống cho các bác, các chú”
Thật là xúc động khi nhìn thấy mọi người rất vui vẻ và sẵn sàng mang thức ăn đến, trong đó có cả thức ăn chay cho riêng tôi nữa !
Đêm đó 20 người chúng tôi thao thức khó ngủ, mọi người trong phòng quây quần nhau tâm sự trong một không khí thân mật đầm ấm. Tôi hỏi ra dường như qui định ngồi tại chỗ, vừa được nới lõng cho toàn phòng sinh hoạt vì có sự nể nang chúng tôi, riêng tôi có 2 cháu nhỏ đến xoa bóp đôi chân bị liệt và kè dắt tôi đi tới đi lui để tập cho đôi chân được lưu thông máu huyết. Sáng sớm hôm sau là ngày chủ nhật toàn phòng sinh hoạt văn nghệ. Tôi không biết hát nhưng kể vài mẫu chuyện ngắn giúp vui. Và rồi, sự đời có hợp có tan, bữa tiệc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Đúng 4 giờ khuya rạng sáng thứ hai anh em cả phòng đều thức dậy thật sớm để tiển đưa chúng tôi, một buổi tiển đưa đầy lưu luyến và hứa hẹn. Mọi người bắt tay từ biệt và cầu chúc những câu nói tốt đẹp nhất mà người đời thường chúc tụng cho nhau.
Chuyến xe bắt đầu chuyển bánh rời khỏi trai giam Chí Hòa lăn mình hướng về Đồng Nai. Suốt một ngày đường phải qua các tỉnh Đồng Nai, Long Khánh, Bình Tuy (Hàm Tân), Bình Thuận (Phan Thiết), Ninh Thuận (Phan Rang - Phan Rí) .v.v…Và xe chở tù cũng tạm dừng nghỉ qua đêm tại trại giam Nha Trang vì trời đã tối. 20 người nam chúng tôi, mỗi người đều bị xiềng một chân chung hai xâu quyện nơi phòng dành riêng điều tra, còn chị Thái Thị Kim Vân được gởi ở phòng đan nón lá của nhà giam lao động nữ. Sáng hôm sau khi lên xe thì chị Kim Vân thông báo cho mọi người một tin vui nho nhỏ là phòng giam lao động nữ Nha Trang biếu tặng mỗi người 1 cái bánh đa và 1 chiếc nón lá đồng thời cầu chúc thượng lộ bình an .Khi xe chạy nhìn hai bên đường cảnh đồng khô cỏ cháy, nhà nhà đều phơi sắn trước sân loại khoai mì Công nghiệp H34 của Ấn Độ, họ xắt lát mỏng phơi chật hai bên đường hoặc trước nhà dự trữ để dành ăn độn. Trên bãi cỏ xa xa, những con bò thiếu cỏ ốm lòi trơ bộ xương, cổ dài ra, bụng teo tóp lại, dáng đi chậm chạp từng bước một, đôi mắt ngờ ngạc trông rất thảm thương. Tôi chợt nghĩ, nơi đây người người còn quanh năm thiếu đói, thì làm sao con vật no đủ được..!
Tôi mải mê với cảnh vật xa lạ thì trời đã xế chiều, ánh mặt trời lùi dần sau những rặng núi Trường Sơn chỉ còn thấp thoáng một vầng màu hồng nhạt ở tận cuối chân trời xa thẳm. Trên trời, những đàn chim rừng từ phương xa lần lượt rủ nhau bay về tổ, cũng là lúc đoàn người chúng tôi trên chiếc xe tù gần đến cổng lớn trại giam. Tôi trông thấy một bảng hiệu to tướng được gắn trên hai cây cột được đúc bằng bê tông cao 7-8 mét “Trại Cải tạo Xuân Phước” và bên trên có nhiều lá cờ ngủ sắc tôi tưởng chừng như nơi đây là hang động hay là am miếu của các vị pháp sư. Đúng ! đây là nơi mà những người đã đi qua còn sống sót đặt cho cái tên khủng khiếp “thung lũng tử thần” là nơi địa ngục trần gian thật vô cùng khốc liệt.
Sau khi xuống xe trình thủ tục nhâp trại thì chúng tôi nhận được một tin buồn là “Nơi đây không nhận nữ tù”, thế là chị Thái Thị Kim Vân phải thu xếp hành lý để quay trở về Bạc Liêu. Là nữ giới mà phải chịu thêm một chuyến khứ hồi thật vô cùng thương cảm. Bản tính chị Vân rất kiên cường, cứng rắn nhưng trước sự chia tay này chị đến bắt tay từ giã từng người trong sự xúc động nghẹn ngào, nước mắt chị chảy nhiều, thật nhiều vì không có dịp ở gần gũi bên cạnh các anh em, trong chuyến đồng hành lưu đày biệt xứ để cùng đồng cam cộng khổ có nhau. Gần 1 năm sau anh em chúng tôi mới hay tin, công an Minh Hải đã chuyển chị đến trại Hàm Tân Z30D ở Bình Thuận. Được biết chị không quen với khí hậu thời tiết nơi đây, vừa bị cưỡng bức lao động khổ sai nên chị đã mắc bệnh lao phổi khá nặng, gia đình đã nhiều lần làm đơn yêu cầu xin bảo lãnh chị về thành phố điều trị nhưng không biết kết qủa thế nào và từ đó đến nay biệt tăm tin tức. Qua trang Hồi Ký, tôi chân thành gửi đến chị lời chúc nguyện an lành.
CHƯƠNG 7
NHÂN CHỨNG SỐNG NƠI
“THUNG LŨNG TỬ THẦN !”
Từ trại cải tạo Cây Gừa tỉnh Minh Hải đi đến trại Xuân Phước, Phú Khánh (nay là tỉnh Phú Yên) nếu xe có dừng nghỉ lại đêm thì phải mất hai đêm ba ngày, đường xa hơn 1200 cây số. Trại Xuân Phước tức trại A20 gồm ba phân trại nhỏ, mỗi phân trại có thể chứa trên dưới 1000 người. Địa thế nằm dưới thung lũng, chung quanh là rừng núi âm u với dãy Trường Sơn bao la, nơi sơn cùng thủy tận, tưởng chừng như là chỗ cuối đất cùng trời nên ít thấy bóng người. Nếu tù nhân nào đi lao động làm rộng, thỉnh thoảng sẽ trông thấy một vài người dân tộc thiểu số, ngưòi miền sơn cước họ thường mang chiếc gùi sau lưng, đi làm rẫy, kiếm củi, săn thú v. v…Tại phân trại 1, lúc bấy giờ hầu hết các phòng đều giam giữ tội xâm phạm an ninh quốc gia, trước kia trại nầy giam giữ các sĩ quan tập trung cải tạo cũ, chỉ có hai phòng dành cho thường phạm. Nơi đây khí hậu thời tiết khắc nghiệt, nắng lửa mưa dầu, sơn lam chướng khí, người tù dễ bị nhiều chứng bệnh bất thường như sốt rét kinh niên, vàng da, bại liệt, sạn thận, mù lòa, lao phổi hay tâm thần điên loạn, cuộc sống khốn khổ ăn uống đói khát, thiếu thốn đủ mọi bề, bệnh đau không đủ thuốc, quần áo không đủ mặc, gia đình ở xa xôi không khả năng thăm viếng, cho nên có đã đến đây dù chỉ một lần thôi thì đã vĩnh viễn ra đi không còn trở lại quê nhà, nếu có về được chỉ là hình ảnh gầy guộc với tấm thân tàn ma dại, chỉ làm khổ thêm gánh nặng gia đình. Xin mô tả nhà tù Xuân Phước bằng vài câu thơ sau đây:
Trại Xuân Phước miền trung Phú Khánh
Nhà giam tù nơi Chí Thạnh Đồng Xuân
Được nổi danh là thung lũng tử thần
Tù giải đến khắp xa gần trong nước
Trại trừng giới tập trung miền sơn cước
Rừng núi đồi liên tiếp phủ vây quanh
Dãy Trường Sơn như một bóng khung thành
Để trấn giữ định ranh miền Trung Việt
Tỉnh Phú Khánh do hai danh từ liên hiệp
Tức Phú Yên ghép tiếp tỉnh Khánh Hòa
DãyTrường Sơn không bóng một căn nhà
Đồng cỏ cháy cách xa dòng suối biếc
Nơi nắng lửa mưa dầu thảm thiết
Thú rừng thiêng trông ghê xiết chốn hoang vu
Trên mây giăng phủ rừng núi âm u
Dưới thung lũng ba trại tù khá rộng
Hàng ngàn người khổ sai trong lao lý…
Còn biệt giam đầy những bóng cùm gông ..!
Tôi đến trại này, thì trước đây trại đã có nhiều người bỏ xác… và hiện giờ:
Còn nhiều nấm mồ đã xanh cỏ mấy mùa qua.
Không ai đốt nén hương cho người nằm xuống ..!
Cũng không ngươì đưa tiển bãi tha ma!
Những người tù còn sống kể lại, chẳng hạn đoàn tàu “Việt Nam Thương Tín” đi tỵ nạn vì một lý do nào đó xin trở về VN. Thay vì được đón tiếp vì đã quay trở về thi hàng trăm người bị bắt nhốt nơi đây. Họ đã chết dần gần hết, số người may mắn còn sống sót, đếm lại không đủ đầu ngón tay. Xuân Phước khét tiếng với khu kỷ luật gồm 3 loại cùm, loại khoen tròn, loại khoen chữ V và loại khoen chữ V có khía hình răng cưa. Tùy theo thái độ của người Tù mà họ ứng xử, hoặc phát cơm chan ngập nước muối, ăn vào mặn đắng không tài nào nuốt nổi. Đặc biệt trại tù xử dụng những tên gọi là Trật Tự để trù dập, đánh đập, bớt nước uống, bớt cơm của tù nhân .v.v…Ở trại K1 có tên “Tân” tội hình sự là bộ đội CS, đã từng ăn gan người ở Campuchia, nên đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trông phát khiếp, còn ở K2 thì có tên “Của” là Thượng Úy cũng tội hình sự, các tên nầy thuộc loại gian ác thâm độc,đều là quân phạm, được Ban giám thị chọn lựa cho làm trật tự coi tù. Trong thời gian tôi bị giam giữ taị K2, hôm nào tên Của vào chia cơm kỷ luật thì hắn ta “chửi chó mắng mèo”,“chỉ kê mạ khuyển”, dùng những lời cạnh khóe chửi bới thậm tệ những người tù Chính Trị và Tôn giáo, xúc phạm đến cả Thần Thánh.
Một hôm từ nơi biệt giam K2, tôi bị bệnh nặng phải đưa về phân trại K1 để cấp cứu, trong khi sức yếu đi đứng không vững, tôi phải chống hai cây nạng mới lê lết đi từng bước. Thấy tôi đi quá chậm, tên“Của” xấc láo nầy cứ hối thúc và mắng chửi thậm tệ, hắn chạy tới đạp tôi té bổ nhào, ngã qụy bên đường không thể đứng dậy nổi. Hắn đi tìm mấy tàu lá dừa, đặt tôi nằm lên và lấy dây buộc thật chặt thân thể tôi lại, rồi kéo tôi trên đường nhiều đá sỏi, lúc nầy đầu mình, tay chân tôi bị xây xát trầy trụa rớm máu tươi, hắn còn chửi đổng nhiều câu tục tằn cho bỏ tức. May mắn lúc ấy có chiếc xe bò của tù đang chở sắn đi ngang, hắn kêu xe dừng lại và nhờ người đánh xe cùng hắn khiêng ném tôi lên xe chẳng khác gì như quăng một khúc gỗ, đã vậy mà hắn vẫn chưa chịu tháo dây, đợi xe bò kéo gần tới trại K1 hắn mới mở trói.
Những tháng ngày kỷ luật tại K2, Linh Mục Nguyễn Huy Chương đã chết vì đói khát, vì bạo bệnh không được chữa trị kịp thời bởi thủ tục rườm rà và nhất là có thành kiến với tôn giáo. Có những hôm trong kỷ luật, Linh Mục Chương cùng Thượng tọa Thích Huệ Đăng tức Thầy Nguyễn Ngọc Đạt phải ngồi rửa từng hạt cơm và đếm chỉ được vài mươi hạt. Hai nhà lãnh đạo tinh thần ngồi nhìn nhau rồi lắc đầu, vì nước muối quá mặn, thóc sạn cũng quá nhiều và thêm mấy lát khoai mì có mùi ẩm mốc; nước muối quá mặn nên ai cũng bị khát nước, khát đến khô cuống họng. Hôm nào có người trong phòng được gọi lên làm việc, khi đi ngang chỗ lò rèn ghé tạt ngồi xuống thật nhanh, uống thật nhiều nước ngâm sắt lò rèn để về phòng tiểu lại cho bạn tù uống, hoặc đi làm việc mà xin được đi tắm thì cũng uống nước thật đầy bụng để về chia sẻ với anh em .
Trại Xuân Phước nầy trong thời kỳ tên Trung Tá Thân Yên làm Giám thị là kinh khiếp nhất, hắn là tên đại ma đầu, đại thâm độc. Nếu ai được dịp tiếp xúc với những người tù đã từng ở trong thời kỳ nầy kể lại thì mới thấy rõ cái chính sách bạo tàn của CS vô lương. Ngoại trừ những tên đã từng làm Ăng-ten thì mới bênh vực cho tên Thân Yên mà thôi. Ngoài ra, thời kỳ tên Trung Tá Nguyễn Văn Bàng về thay thế Thân Yên thì có thay đổi đôi chút, nhưng Bàng là loại vỏ biền chuyên đánh giặc nên cũng thích đấm đá hơn là chính trị, hoặc dùng lời lẽ khinh mạn mạt sát tù chính trị thường ngày, kể cả thuộc cấp của ông ta. Một hôm gặp cơn mưa to, nước chảy xiết cuốn trôi một số mạ vừa mới cấy. Đội 1 chúng tôi được phân công đi dặm lúa…Tên Giám thị Bàng đứng trên bờ nhìn xuống nói: “ĐM … Đồ quân phá hoại, chúng mầy làm nhanh tay một tí” Cán bộ quản giáo Đội tên Trúc có ý kiến đề xuất những khó khăn của phạm nhân trong việc phơi lúa vào mùa mưa. Tên giám thị Bàng hét to trước mặt tù nhân: “Đồ mới nứt mắt mà đã mất dạy rồi, bộ muốn bênh vực cho lũ phản động hả!”. Tên Giám thị này chẳng giữ thể diện cho ai, kể cả sĩ quan thuộc cấp của y, muốn chửi ai thì chửi, muốn mắng ai thì mắng …
Nhiều lần trước mặt tù nhân Chính Trị ông ta thường rêu rao “Chúng ông sẽ nhốt cái quân phá hoại chúng bây cho đến khi nào chống đối trở thành chống gậy”quả thật câu nói nầy gần như phổ biến trong các nhà tù được phát ra từ miệng của những tên trưởng giám ngục ác ôn. Ta có thể suy ra có lẽ họ được chỉ thị hoặc một huấn lệnh nào đó từ Trung ương Hà Nội, cho nên nói ra y hệt có một khuôn. Nhà tù Xuân Phước được tập trung về đây có đủ cả ba miền Nam,Trung, Bắc, đủ mọi thành phần, mọi giới từ những em bé còn thơ cho đến các cụ bô lão tuổi trên 80. Cho nên :
Có những người thương phế binh tàn tật
Có những người đã cụt mất tay chân
Có những em bé tuổi mới mười lăm
Có các bô lão tuổi hơn tám chục
Có đủ tôn giáo, màu da, sắc tộc
Có đạo KyTô, đạo phật, đạo cao Đài
Có đa thần, đạo Hòa Hảo, đạo Ba Hai
Có Miên, Hoa, Việt, Tày, Chàm,Thượng
Có ấp, xã, huyện, tỉnh, thành, bộ trưởng
Đủ thành phần Tá, Tướng, Quan binh
Có Giáo Sư, có Bác Sĩ, có học sinh
Có đủ tầng lớp liên minh và Đảng phái
Có nhân bản, có duy dân, có cộng tồn, nhân ái
Có cần lao, có Đại việt, có Quốc dân
Tất cả đều là chính trị tù nhân
Do luật pháp của Cộng quân xử phạt
Tù lao động cả luôn ngày chủ nhật
Cũng có khi làm cả suốt ban đêm
Ai đấu tranh thì khám tối xà lim
Bốn tiêu chuẩn, nội qui kèm là luật lệ
Bởi nước sông công tù ai tính kể
Khi có quyền có thế ở trong tay
Có lưỡi lê có súng máy có quyền oai
Có roi điện, khảo tra ai chống đối
Có kiên giam, có biệt giam, có khám tối
Có quyện còng, cùm trói, gông xiềng
Cúp thăm nuôi, cúp quà phẩm, cúp lẫn tiền
Phạt kỹ luật buồng giam riêng nơi nhà trắng
Sự mạt sát dùng những lời nhẹ nặng
Hoặc roi đòn tra tấn dã man
Bốn, năm người đánh một tù nhân
Đánh roi điện cho tan thân đổ máu .
Khi làm việc hoặc là tra khảo
Hỏi an tâm cải tạo hay không
Nếu muốn cho sự việc được an thông
Thì chắc chắn phải dối lòng khi phúc đáp .
Bởi an tâm chỉ là công thức
An làm sao khi cùng cực đọa đày
An làm sao khi bản án khổ sai
An làm sao những tháng ngày xa xứ ?
An làm sao khi đêm trường tư lự
Suy nghĩ nhiều về hai chữ Việt Nam
An tâm làm sao khi Cộng Sản quá gian tham
Vì lời nói và việc làm không thiết thực ?
An tâm sao khi xa gia đình, xa quyến thuộc
Xa anh em, xa cốt nhục tình thâm
Xa vợ, xa con, xa tình nghĩa thân quen
Thiếu thốn cả tinh thần và vật chất ..!
An tâm sao khi tự do đã mất
An tâm sao khi bệnh tật đeo mang
An tâm sao khi gia cảnh cơ hàn
Có người còn xuống suối vàng an nghỉ ..!
Chỉ an tâm khi tìm ra chân lý
Chỉ an tâm, khi có chí khí lập trường
Chỉ an tâm khi có lý tưởng kiên cường
Nhất định thắng, con đường ta tất thắng ..
1. ĐỜI SỐNG TINH THẦN VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI TÙ Ở TRẠI XUÂN PHƯỚC
Tại Thung Lũng Tử Thần, đời sống của người tù thật vô cùng thiếu thốn khó khăn về tinh thần lẫn vật chất.
a) Về mặt tinh thần: Người tù bị hạn chế, hay nói đúng hơn là bị cấm không được thể hiện sự tín ngưỡng hay niềm tin tôn giáo, không được sử dụng bút mực, giấy. Không cho mang vào các loại sách báo, kinh sách thánh hiền để người tù có thể cập nhật và nâng cao kiến thức của mình, cho dù sách báo do nhà nước VN xuất bản, người tù chỉ duy nhất được xem tờ báo nhân dân, là tờ báo tuyên truyền của Đảng Cộng Sản mà thôi!
b) Về mặt vật chất: thì họ đày đọa ngươì tù với bản án khổ sai lưu đày biệt xứ, khi vào tù lúc mái tóc còn xanh, mãn hạn tù thì bạc cả mái đầu, cuộc sống quá khốn khổ cho nên nghĩ mà thương:
Thương cho ai kiếm rau trời, …
rau dại sống linh tinh
Ăn cỏ hôi, ăn vỏ chuối …
ăn lục bình, rau trai, rau giớn
Ăn dế, cào cào, cóc …
ốc, cua, nhái sống
Ăn bọ hung, ăn trùng …
ăn rít rắn lẫn kỳ nhông
Kiếm thêm chút sắn khoai …
đã cảm thấy no lòng
Mặc khí hậu bốn mùa …
Xuân, Hạ, Thu, Đông bất kể ..!
Nào ghẻ chóc …
thũng, sưng , bại liệt
Nào mù lòa …
đui, điếc thác oan
Nào bệnh lao …
sạn thận, bàng quang
Đành gởi nắm …
xương tàn vùng Xuân Phước ..!
Có những người ở tù lâu năm, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không đến thăm nuôi được, lại ngặt là có bệnh nghiện thuốc lá … nghiện thuốc mà không có tiền mua thì phải xin anh em. Nhưng, anh em đồng tù cũng chẳng ai khá giả gì, nghiện thuốc đi xin hoài cũng ngại… muốn bỏ thì bỏ không được. Nếu có bỏ được vài hôm sau hút lại thì sẽ hút tăng thêm, nên chỉ còn có kế hoạch cuối cùng là chờ đợi lúc đêm về, chuẩn bị sẵn một cái bọc ni lông, tối đến đầu giường những người có thuốc hút thường xuyên, đổ trút hết những lon gạt tàn thuốc của họ, mang về chỗ nằm của mình, rồi nhặt ra, đem để vấn hút lại. Trong tù thường gọi là “bắt dế nhũi” còn điếu thuốc nào thừa nhiều thì gọi là ” bắt dế cơm”
Có những người tù lâm cơn túng ngặt
Nhặt thuốc tàn để hút đỡ cơn ghiền
Buổi trưa hè thức trọn dưới mái hiên
Nướng bánh bột cho đỡ phiền cơn bụng đói
Không theo Cộng chúng kêu là phản động?
Yêu quê hương là có tội hay sao?
Mang tội danh là âm mưu lật đổ án cao
Thật phi nghĩa và biết bao phi lý !
Trong thời kỳ, người người vượt biên ra đi ồ ạt, nếu chẳng may bị bắt lại thì kết tội “Phản quốc, Trốn ra nước ngoài bất hợp pháp”. Nếu đi thoát được sang định cư nước khác, sau nầy nếu có dịp trở về thăm quê hương thì lại được Nhà nước Việt Nam gọi một cách trân trọng là: ” Việt kiều yêu nước” bởi lúc này có đô-la đem về nên tên gọi cũng thanh cao. Nếu vượt biên bị bắt lại, bị cầm tù mặc dầu thời gian không lâu, nhưng nhà tan cửa nát, ít người đến thăm nuôi, ăn uống thiếu thốn, lại gặp cảnh rừng thiêng nước độc, phát sinh bệnh mà chết cũng không ít cho nên :
Hàng triệu người đã bỏ nước ra đi
Vì sống không nổi với bạo quyền Cộng Sản
Họ cũng yêu nước thương dân vô hạn
Chớ nào ai lại bội phản đồng bào ..!
Cây cột trụ đèn, lòng còn những ước ao
Nếu có chân cột cũng kiếm tàu sang nước khác
Người vượt biển nếu chẳng may bị bắt
Khép tội danh trốn bất hợp pháp bỏ đi ..!
Nếu an toàn thoát khỏi cảnh hiểm nguy
Sang nước khác được tự do sung túc
Sau về nước thăm thân bằng quyến thuộc
Thăm gia đình thăm đất nước mến yêu ..!
Lúc bấy giờ được Cộng Sản chắt chiu
Và trân trọng ông “Việt kiều yêu nước”..!
2. VƯỢT NGỤC NHẰM CƯỚP TRẠI GIẢI THOÁT TÙ NHÂN LẦN THỨ HAI BỊ THẤT BẠI
Chứng kiến nơi “Thung Lũng Tử Thần” tức nhà tù Xuân Phước sự ngược đãi tù nhân rất tàn tệ, người tù sống trong cảnh thiếu thốn mọi bề, vô cùng nghiệt ngã. Hàng trăm người già yếu mắc bệnh tật nguy nàn đang sống quằn quại vật vã vì đau đớn khổ sở giống như cành khô củi mục không biết sống chết lúc nào. Những người bị tàn phế, nỗi bi quan cứ gặm nhắm từng giờ, từng phút, từng giây sức khoẻ của họ, mặc cho thời gian đưa đến đâu hay đến đó như chấp nhận cảnh nước chảy bèo trôi. Bên cạnh, hằng ngày nhiều tù nhân bị kiệt sức vì bị cưỡng bức lao động khổ sai hoặc bị đánh đập tàn bạo man rợ, tính bình quân thì tháng nào cũng có vài người chết. Có khi chết liên tục một tháng 5-3 người, đây là chuyện thường xảy ra…và :
Trông thấy người khác chết
Trong lòng rất xót xa
Nửa thương xót kẻ chết
Nửa nghĩ tới phiên ta ..!
Những ngày đầu mới thành lập trại này thì thật là khủng khiếp, tù nhân bệnh nặng không có thuốc chữa trị, mặc dầu có bác sĩ giỏi, bác sĩ đang cải tạo đành bó tay đứng nhìn bệnh nhân giãy chết. Bệnh nhân là những người anh em cùng cảnh ngộ như mình rất đáng thương, thương lắm nhưng biết phải làm sao? Giai đoạn đầu tù nhân chết không có quan tài, chỉ bó sơ một chiếc chiếu không được lành lặn cho lắm. Về sau mới có quan tài nhưng không đủ đinh để đóng nắp đậy, khi đưa xác đi chôn quan tài được đặt trên một chiếc xe gọi là ” xe cải tiến” dùng tay đẩy đi. Khốn khó trong khi đẩy đinh bị mục, ván thùng xe rớt xuống đất, chiếc quan tài cũng rớt theo thi hài lộ ra ngoài nằm sõng soài trên đất.
Tôi nhận thấy hàng nghìn người đang sống quằn quại, đành cam chịu dưới ách áp bức cai trị hà khắc của những tên cai ngục. Thật lòng mà nói, bản thân tôi ngộ nạn hay gặp hoàn cảnh khổ tôi có thể chịu đựng được, nhưng chứng kiến nhiều người khác đau khổ tôi muốn tìm phương cách để cứu khổ ban vui chứ không thể ngồi yên được. Mặc dù biết thương người nhiều khi cũng “Chuốc vạ vào thân” hay “chuốc oán mua thù”. Vả lại, muốn tiến hành cứu người là việc rất khó khăn gian khổ và còn có thể nguy đến tính mạng của mình chứ không dễ dàng gì. Tuy nhiên một khi chí đã quyết nên phải ra tay, từ đó tôi kết hợp với một số anh em thân quen như bác sĩ Nguyễn Kim Long, chuyên khoa giải phẩu hệ tiêu hóa đang làm tại bệnh xá của trại, anh Nguyễn Đình Văn Long làm trật tự của trại và Trần Văn Long một thanh niên hiền lành đạo đức, bản lĩnh, gan dạ và trung thành. Cùng một số anh em trong trại đứng ra tổ chức cướp trại giải thoát tù nhân, chúng tôi dự định giải cứu đem đi 700 người trong số hơn 1000 người của trại. Tất cả sẽ cùng nhau hoạt động trong rừng và hợp tác đấu tranh. Nhưng sự việc bại lộ cho nên chúng tôi phải bị kỷ luật, cùm quyện tay chân ngày đêm hơn 3 năm.
Trong thời gian điều tra tôi là người bị đánh đập rất dã man, tôi đã từng bị đánh tập thể gồm có các tên cán bộ an ninh của trung tâm như tên : Tri, Thi và Lâm. Họ đánh tôi bằng báng súng, bằng tay chân và 100 roi điện. Tên Tri gốc là giáo viên ở Bình Định trông vẻ mặt bên ngoài rất đạo mạo, tưởng như trí thức hiền lành, ăn nói mềm mỏng là người đánh tôi nhiều nhất. Tôi được biết tên Tri nay đã chuyển về quê làm công an tại Bình Định, nghe nói tên Lâm hiện giờ đã trở thành Giám thị trưởng trại Xuân Phước? Nếu còn đương chức thì cấp bậc của các tên đao phủ nầy ít nhất là từ trung tá trở lên.
Tôi còn nhớ như in, có một buổi điều tra khai thác để bắt thêm người, cả ba tên đao phủ ấy tấn công tôi bằng tay chân tới tấp vào thân thể, đầu, mặt. Buộc lòng tôi phải quay lưng vào vách lá của các căn nhà được xây cất liền nhau để có thể chống đỡ chỉ một phía trước mặt. Không ngờ phía vách lá sau lưng tôi có một tên cán bộ vũ trang đang trực sẵn, hắn đã dùng họng súng dài, thúc mạnh vào lưng trúng ngay lá phổi làm tôi bị trọng thương té ngất xỉu, máu tuôn ướt đẫm cả áo quần.
Sau khi tỉnh dậy, những tên hung thần nầy không cho tôi thay quần áo, tôi đành mặc áo dính máu luôn cho đến khi rách nát. Hậu quả, vết thương lá phổi của tôi đến giờ này cũng còn dây dưa chưa dứt hẳn, nó thường đau buốt và ho liên tục mỗi khi trái gió trở trời. Ngoài ra chính tên Tri đã trực tiếp đánh tôi 99 roi điện vì đếm lộn một roi, Tên trí thức lưu manh ác độc nầy dùng dây điện có ruột bằng đồng rất to khi đánh đầu dây thường quất vào hông, nách nơi chổ hiểm yếu của thân thể. Đến khi kết thúc điều tra vụ án trốn trại các tên nầy quy kết tôi tổ chức “chống phá trại giam”.
Viện kiểm sát tối cao làm việc lần cuối, tòa án tối cao chỉ thị tòa án lưu động tỉnh Phú Khánh mở phiên tòa công khai xét xử tại trại.
Trước khi xử án tôi có làm việc với ông bào chữa viên nhân dân, là một luật sư của chế độ cũ được lưu dụng lại.Trong buổi làm việc ông ta nói với tôi:
“Nếu anh bị án tử hình thì trước khi thi hành án sẽ cho gia đình, thân nhân gặp mặt lần cuối và bị kết án tử hình thì trước hết anh được quyền làm đơn xin tha tội chết trong vòng 15 ngày”. Ông còn nhã ý hỏi địa chỉ gia đình tôi để thông báo trường hợp hiện tại của tôi. Sau khi làm việc hơn ba tháng, Họ mở phòng kỷ luật cho chúng tôi ra sân tắm nắng được một tuần lễ. Sau đó cấp cho mỗi người một bộ đồ mới, để sáng hôm sau ra tòa xét xử. Phiên tòa lưu động khai mạc tôi thấy có sự tham dự của hàng trăm cán bộ, các đội trưởng và các ban trật tự của ba phân trại. Bản án tuyên phạt là ” chung thân” đúng vào năm 1987, thế là cuộc đời tôi phải triền miên thêm một bản án nữa. Sau phiên tòa tôi có làm một bài thơ để kỷ niệm như sau:
TU TÙ ..!
Thêm dấu chữ Tu biến chữ Tù
Chung thân hai án ở thiên thu
Tay còng, chân quyện nơi u tối
Cửa sắt, tường cao chốn mịt mù
Thân thể hình hài trông yếu kém
Tinh thần, trí tuệ sáng trăng thu
Thiên đàng, địa ngục phân hai nẻo
Nửa kiếp thầy tu nữa kiếp tù ..!
Nửa kiếp Thầy tu nửa kiếp tù
Thiền môn giã biệt bước chân du
Từ bi trí tuệ tình thương gọi
Bác ái nghĩa nhân xóa hận thù ..
Y chiến ngày đêm luôn mặc giữ
Nâu sòng kinh kệ gác công phu
Nước non đáp trả tròn xong nợ
Tín, Hạnh, Nguyện, thành vẹn kiếp tu ..!
Sau khi ra khỏi biệt giam, ông Huỳnh Quang Tiên cựu trung tá, kỷ sư tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn công binh tỉnh Bạc Liêu, người cùng chuyến viễn hành lưu đày có tặng tôi một bài thơ như sau:
ĐỜI ĐẠO VẸN TOÀN
Những tưởng nâu sồng biệt thế gian
Nào hay con tạo khéo đa đoan
Quê hương nặng nợ thân tù vướng
Đạo pháp thâm tình xác nặng mang ..
Giữa chốn cùm gông luôn vững dạ
Trong cơn nước lửa vẫn bền gan
Tâm cao chí cả lòng son sắt ..
Đạo pháp cang thường vẹn lưỡng gian
( Huỳnh Quang Tiên Kính tặng)
Trong thời gian ở biệt giam tăm tối chỉ có ánh sáng đêm trăng lọt qua khe cửa, tôi cảm hứng một bài thơ như sau:
ÁNH TRĂNG NƠI BIỆT GIAM
Trăng vào khe cửa biệt giam
Âm u khám tối trăng vàng tìm ai ?
Vô tình dạo bước rông dài
Người nằm trong đó huynh đài Thiện Minh ..?
Mấy lời nhắn nhủ tâm tình
Hỏi xem tu sĩ còn bình thi không ?
Đáp rằng bút trận xung phong
Cũng là pháp khí tấn công gian tà ..!
Đây là bản nhạc của Nguyễn Hồng Phúc người bạn tù tại Bạc Liêu cùng chuyến viễn hành lưu đày nơi Xuân Phước, Phú Khánh thân tặng tựa đề “Chiếc áo nâu” (bản nhạc nầy trên 20 năm )
CHIẾC ÁO NÂU ..!
Viết cho anh bài ca nỗi lòng, từ nơi u tối nhớ thương người đi, từ nơi nước mắt khóc cho người mất, khóc cho tình nước khóc cho tình người, từ nơi u tối dẫn bước ra đi, đi tìm sao sáng tình yêu nhân loại …
Viết cho anh tình yêu của người, từ nơi u tối đẵp xây niềm mơ, thời gian đốt cháy tuổi thơ mầm sống, bước đi ngàn bước cỏ hoa chạy dài, từ nơi u tối dẫn bước ra đi, đi tìm sao sáng tình yêu nhân loại ..
Chiếc áo nâu ngày ấy, áo trắng theo thời gian, xóa đi ngày tháng tuổi thơ muộn phiền, nơi cửa trang nghiêm, con đường tôn giáo dẫn dắt anh đi !
Dĩ vãng vương tầm mắt, nỗi nhớ trong niềm tin, cách xa trần thế tuổi thơ miệt mài, mưa bão quanh anh, con đường đi tới bông lúa ươm vàng ..
Viết cho anh bài ca bất tận, từ nơi u tối chúng ta gặp nhau, từ nơi cõi chết hát cho cuộc sống, hát quên ngày tháng hát vơi đọa đày, từ nơi khám tối gông xích điêu linh, chờ mùa xuân đến hoa tươi đêm ngày..!
Nguyễn Hồng Phúc, Bạc Liêu thân tặng
(Tôi không nhớ để ghi lại dòng nhạc, chỉ nhớ lời vì nhiều năm dài có khi mai một, thiếu sót nhưng mục đích là kỷ niệm những bạn tù cùng đồng hội đồng thuyền)
3. NHỚ ƠN SINH THÀNH NHÂN LỄ VU LAN
Tôi không thể bày tỏ hết nỗi tâm trạng day dứt suy tư trong lòng mình khi mùa Báo Hiếu Lễ Vu Lan hằng năm lại về. Nhân dịp Trung Nguyên Rằm tháng bảy, tôi không biết làm thế nào để đền đáp được thâm ân của đấng sinh thành. Nhớ lời Chư Phật, Chư Tổ đã dạy Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên xưa kia Ngài là bậcThánh Tăng mà còn phải cầu thỉnh tứ chúng, nhờ đức chúng như hải chú nguyện cho mẹ, còn bản thân tôi nghiệp dầy, huệ cạn, chướng sâu chỉ cố công tu hành khi nhớ đến câu “ Nhất nhơn hành đạo cữu huyền thăng” mong sao tâm nguyện này thành tựu để mẹ cha được thọ hưởng những hồng ân trong cảnh an vui giải thoát.
Những năm tháng lao tù tôi có viết một bài thơ nhân mùa Đông nhớ mẹ, xin tặng những ai cùng đồng tù, đồng cảnh ngộ để hoài niệm một thời lao lý mỗi khi ngồi trong song sắt nhớ đến mẹ hiền.
MÙA ĐÔNG NHỚ MẸ NƠI CHỐN LAO TÙ
Mùa đông gió lạnh thoi đưa
Cô đơn nối gót từ xưa gọi về ..
Tình phụ mẫu thiết tha nồng đượm
Nghĩa cù lao thắm nhuộm lòng con
Mẹ già thân thể héo hon ..
Bởi con lao lý mỏi mòn đợi trông ..!
Xuân sắp đến cõi lòng thổn thức
Nỗi bâng khuâng chất ngất niềm thương
Én bay báo hiệu mùa xuân
Nay con là kẻ viễn phương mịt mù ..!
Trong khám lạnh lao tù thống thiết
Bao năm dài khôn xiết biệt xa
Từ ly lệ chảy chan hòa
Đau lòng cam chịu cách xa gia đình ..!
Sao tỏ hết tâm tình phiền lụy
Chỉ một mình thầm nghĩ mông lung
Dường như dọi thấu hư cung
Để rồi tan tác não nùng biệt ly ..!
Nhìn theo gió tư duy chuyện cũ
Mà lòng con ấp ủ vấn vương
Nhớ nhà nhớ lẫn con đường
Nhớ về quê cũ tình thương đậm đà ..!
Nhớ em dại mẹ già năm tháng
Nỗi u buồn nào vắng trên mi
Nắng mưa sương tuyết kể chi
Mẹ già bạc tóc bởi vì nhớ con ..!
Lại đôi tháng lo toan tiền bạc
Đến thăm nuôi giây lát gặp nhau
Thời gian ngắn ngủi biết bao
Lại rồi từ tạ làm sao bây giờ ..!
Trong giấc ngủ con mơ trở lại
Mái nhà xưa em vẫy tay theo
Em thơ chạy đến ôm đeo
Mẹ thì vỗ má con yêu mẹ về ..!
Khi chợt tỉnh cơn mê đã mất
Vậy mà con tưởng thật mẹ ơi!
Giấc mơ nhớ mãi vậy thôi ..
Sáng ngồi tư lự luận vơi mộng lành ..!
Gió thổi lạnh qua mành phảng phất
Con ngồi trong song sắt nhìn ra
Trời đưa mây trắng xa xa
Núi cao vời vợi nhớ nhà nhiều hơn ..!
Én bay liệng đua vờn trước ngõ
Nhìn xem hoa đua nở ngoài sân
Người người chuẩn bị đón xuân
Còn con thì lại giam thân chốn tù ..!
Trại Xuân Phước mịt mù xa cách
Rừng núi đồi làm vách vây quanh
Miền Trung Phú Khánh địa danh
Trường Sơn một bức khung thành chắn ngang ..!
Vùng u tịch cư dân ít thấy
Chỉ đồng khô cỏ cháy hoang vu
Rừng thiêng nước độc âm u
Mưa dầu nắng lửa thân tù khổ sai ..!
Với bản án miệt mài vất vả
Bao năm dài ròng rã trôi qua
Xuân này còn phải cách xa
Con xin hẹn lại vậy là xuân sau ..!
Lòng hiện tại biết bao mơ ước
Đốt nén hương khấn trước tổ tiên
Con xin tạ lỗi trách phiền
Bởi vì lao lý con hiền nào quên ..!
Thôi đành chịu lênh đênh khám lạnh
Xuân năm này đồng cảnh chung vui
Vui xuân nhưng dạ ngậm ngùi
Bởi cùng chung phận ai vui được nào ..!
Thi thơ bút rạt rào khôn xiết
Kỷ niệm xuân ngày tết đìu hiu
Xuân về nhớ mẹ rất nhiều
Chúc cầu sức khoẻ mẹ yêu thọ trường ..!
4. PHÒNG BIỆT GIAM TRẠI TÙ XUÂN PHƯỚC, NƠI HỘI NGỘ ĐỦ MÀU SẮC TÔN GIÁO
Năm 1984 tôi bị bắt giam ba năm nơi kỷ luật cho đến năm 1987 tôi bị truy tố về tội chống phá trại giam mà họ kết tội là “Âm mưu tổ chức cướp trại giải thoát tù nhân”. Nhờ vậy, khi vào khu biệt giam tôi mới có dịp ở chung trong cùm với quý vị chức sắc các tôn giáo bạn như :
  • Ông Phan Đức Trọng lúc ấy 72 tuổi là Giáo hội trưởng giáo hội “Hòa bình chung sống” ở Tây Ninh, ông là con nuôi của Trung tướng Trần Quang Vinh Tổng Tư lệnh quân đội Cao Đài.
  • Ông Trần Văn Nhành, một tín đồ thuần thành của đạo Hòa Hảo thuần tuý.
  • Linh Mục Nguyễn Văn Vàng dòng Chúa cứu thế.
  • Linh Mục Nguyễn Quang Minh nhà thờ Vinh Sơn.
  • Linh Mục Nguyễn Luân, Phan Rang.
  • Linh Mục Nguyễn Tấn Chức v.v…
Trong lúc ấy mọi người chúng tôi quần áo bị mục nát, quần đùi không còn đủ để che thân. Linh Mục Vàng bị ghẻ mủ khắp thân thể, ngoại trừ trên mặt thì không có, ghẻ mủ dầy như dề cơm cháy khét đen, còn Linh Mục Nguyễn Quang Minh thì bị đánh trọng thương, đánh ra máu miệng, cả hậu môn chỉ vì đem vào trại vài chiếc bánh “Thánh” để rồi qua đời sau đó mấy ngày. Riêng Linh Mục Nguyễn Luân bị bệnh phổi nặng (Ung thư phổi). Do nhiều năm trong kỷ luật ngủ không mùng, không chiếu, bản thân tôi bị lao hạch và trong phổi có nước. Mọi người sống trong không khí ô trược vì chiếc hủ vệ sinh để trực tiếp ngày đêm trong phòng, tiểu tiện tại chỗ, lâu lâu mới cho đi đổ một lần, để lâu sinh ra giòi, chân tôi bị quyện lâu ngày lở loét, tối đến giòi bò lên chỗ loét, tới sáng mới phát hiện ra…
Theo quy định của trại thì mỗi ngày cho đi đổ hũ vệ sinh một lần, mỗi người được phát 2 lít nước đun sôi để uống. Nếu gặp mấy anh trật tự hoặc những tên cán bộ trực trại độc ác thì 5-7 ngày mới cho đi đổ hũ vệ sinh một lần và nước mỗi ngày họ cấp phát 4 người, chỉ có 4 lon Guygoz. Tiêu chuẩn cơm mỗi bữa ăn mỗi người chỉ hơn nữa chén kèm theo 3 lát khoai mì loại H34 ( loại mì công nghiệp Ấn Độ) chan ngập nước muối đậm đặc, nước muối nhiễu xuống nền gạch đóng trắng bọt muối, trong kỷ luật hoàn toàn thiếu chất rau tươi mọi người đều bị bệnh sưng thũng, tê bại, mờ mắt, ghẻ lở, lao phổi v.v… Mỗi lần tôi đi ra ngoài đổ hũ vệ sinh, tôi nhanh tay với hái một nắm cỏ mầng trầu hoặc loại cỏ nước mặn, loại cỏ tạp cho bò ăn. Cỏ còn có mùi phân người, tôi lén đem vào phòng lấy nước rửa sơ rồi chia nhau mỗi người một ít, để nhai ăn cho đỡ thèm rau tươi, chúng tôi ăn cỏ mà cảm thấy nó ngọt vô cùng, Nếu bị phát hiện họ không cho đem vào phòng, tôi tìm cách trả lời “đem cỏ vào để trên mặt hũ vệ sinh để đi tiêu cho nước khỏi văng dơ”
Phòng chúng tôi thỉnh thoảng vài tháng có một anh thường phạm bị kỷ luật gửi vào cùm chân 7 ngày, chiếc quần đùi của anh bạn thường phạm này qua 7 hôm tiêu tiểu tại chỗ đã bốc mùi hôi. Thế mà quý Cha, quý Thầy ai cũng thòm thèm muốn hỏi xin mà lòng tự trọng nên im lặng. Đúng 7 ngày, sau khi mãn kỷ luật anh thường phạm này ném chiếc quần đùi dơ cho bất cứ ai, thì người ấy mừng rỡ như nhận được món quà vô giá. Chúng tôi ở chung nhau được vài tháng rồi bị chuyển đổi liên tục, họ tách riêng mỗi người ở mỗi phòng khác nhau. Một hôm Linh Mục Nguyễn Quang Minh lên tiếng yêu cầu mỗi người làm một vài câu thơ, họa lại nhau cho vui để làm kỷ niệm.
THI HỌA KỶ NIỆM CỦA QÚI LINH MỤC VÀ TÔI TRONG XÀ LIM BIỆT GIAM
Để giết thì giờ cũng như để kỷ niệm những ngày tháng đọa đày nơi biệt giam, Linh Mục Minh khởi xướng trước mấy vần thơ như sau :
Vô tình hạnh ngộ gặp nhau đây
Giữa khoảng nhà lao chốn ngục đầy
Cám cảnh thâm tình nên tri kỷ
Cùng nhau chia sẻ nỗi đau này ..
Đến lượt tôi họa tiếp :
Đau này không phải chỉ riêng ta
Mà của toàn dân khắp mọi nhà
Thông cảm sẻ chia người mỗi chút
Đồng cam cộng khổ mới chan hoà ..!
Sau đó tới phiên Linh Mục Vàng :
Chan hoà nước mắt của muôn dân
Đời bị rã tan Đạo xoá dần
Tu sĩ lên đường tìm đại nghĩa
Quyết mong diệt sạch lũ vô thần ..!
Cuối cùng tới Linh Mục Nguyễn Luân :
Vô thần diệt sạch khó gì đâu
Đoàn kết liên tôn cứu họa sầu
Đập rắn đập mình không thể chết
Mà ta phải đập cả luôn đầu ..!
Sau đó anh em chúng tôi mới thắc mắc với Linh Mục Luân:
- “Tại sao lại đập rắn đập mình không chết mà lại đập đầu?”
Linh Mục Luân giải thích:
- “Miền Nam trước đây là đầu Lân, còn miền Bắc Cộng Sản là đầu rắn. Đầu Lân nếu bị đập thì sẽ có đầu khác nhảy vào thay thế để múa. Mỗi khi Lân múa cần phải có đuôi mới múa được; cái đuôi là cái mình. Nếu múa Lân có đuôi mà có thêm được ông Địa cầm quạt phe phẩy hoặc có thêm ông Tề Thiên cầm thước bảng đi quyền, đặc biệt là có trống, pháo hay được chủ nhà treo tiền thưởng thì Lân múa càng hay, chứ nếu đầu Lân mà không có đuôi thì Lân không thể múa được. Miền Nam trước đây cũng vậy khi dân chúng, binh lính, sĩ quan hoảng loạn, tức cái đuôi không còn nữa thì Tổng Thống ( Cái đầu ) cũng dông luôn. Còn đầu Rắn rất độc tài, nọc độc từ trong cái miệng rắn, đập cái mình không chết mà phải đập đầu mới chết vì loại rắn độc có rất nhiều đầu, rắn độc của Việt Nam từ 11 đầu trở lên thường thì số lẽ và luôn có kèm những cái đầu dự khuyết để phòng khi cần thay đổi hay có cờ rũ sẽ lên thay ngay. Còn ở đây tôi muốn nói cái đầu rắn vĩ đại của Liên Xô kìa, mỗi khi cái đầu này bị đập tức sẽ bị cáo chung trên toàn cầu thì tất cả các con rắn con ở Đông Âu tức là cái mình cũng chết theo luôn, và rồi các con rắn con ở khắp nơi trên thế giới sẽ bị phá sản chắc chắn bị khủng hoảng đường lối. Quý vị hãy xem rồi đây nó sẽ xảy ra như thế ấy”.
Trong cuộc sống tại nhà tù, tôi biết được gần như Linh Mục Luân ít được ở chung với tập thể, bởi Ngài ở biệt giam dài hạn nên chúng tôi đặt cho cái tên gọi là uỷ viên thường trực phòng kỷ luật vô hạn định. Linh Mục Luân rất cao và to trông giống như một người ngoại quốc ở phương Tây, tính tình điềm đạm, vui vẻ, ít nói và rất chậm chạp; chậm chạp chưa từng thấy. Một hôm, tôi hỏi Linh Mục Luân
- “Thưa Cha, khi chưa bị bắt lúc còn ở bên ngoài, Cha tham gia vào tổ chức chính trị nào vậy?”
Linh Mục Luân mĩm cười hiền lành rồi từ từ đáp:
- ” Ồ! Tôi tham gia vào tổ chức lực lượng phản ứng nhanh”.
Tôi bật cười hỏi tiếp
- “Cha chậm chạp còn hơn ông Rùa sao lại tham gia vào lực lượng phản ứng nhanh được”.
Linh Mục Luân đáp :
- ” Ồ! Vậy mà khi phản ứng thì nhanh lắm chứ bộ”.
Những tên giám ngục thấy giam hãm Ngài nơi kỷ luật quá lâu nên mời Ngài lên làm việc. Họ chỉ cần yêu cầu Linh Mục viết tiêu đề là:
“Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc”
và ký tên vào thôi! thì sẽ cho Ngài ra khỏi kỷ luật ngay. Thế nhưng Linh Mục Luân lúc nào cũng viết như sau :
Cộng Hoà Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam
Không độc lập - Không tự do - Không hạnh phúc
Chính vì thế, Linh Mục Luân phải ở kỷ luật cho đến ngày qua đời. Linh Mục Luân thường nói với tôi rằng :
- “Thầy Thiện Minh ơi! Mình phải viết đúng sự thật, chứ không thể viết khác được, nếu viết khác thì lương tâm sẽ hổ thẹn lắm…”
Tôi và Linh Mục Luân dường như có duyên với nhau cho nên hai huynh đệ thường bị kỷ luật ở hai phòng cạnh nhau. Sức khoẻ của Linh Mục càng ngày càng sa sút, tiếng nói yếu dần nhưng Ngài thường nói “Uy vũ bất năng khuất” đúng vậy!. Tinh thần Ngài lúc nào cũng dũng mãnh, hăng say, trung kiên và lập trường không bao giờ thay đổi. Hai phòng chúng tôi ở kế bên nhau nên hàng ngày chúng tôi gọi nhau để nói chuyện, tôi gọi Linh Mục Luân bằng “Li Ma” còn Linh Mục Luân gọi tôi là “Mạnh Mẽ”. Chữ Li Ma lấy chữ đầu bằng chữ “L” tức “Luân”, còn Mạnh Mẽ chữ đầu bằng “M” tức “Minh” (Thích Thiện Minh).
Trong những ngày bệnh phổi tái phát (bệnh ung thư), mặc dầu sức khoẻ Ngài quá nguy nan vì thuốc men khan hiếm, gia đình thân nhân có đến thăm nhưng không cho gặp mặt và cũng không cho nhận quà. Nhưng Linh Mục Luân vẫn cố gắng đặt một bài thơ tặng tôi để làm kỷ niệm. Tôi cố học thuộc lòng bài thơ. Đó cũng là lần cuối đời của Linh Mục tại nhà tù Xuân Phước mà chúng tôi không còn gặp mặt nhau nữa… Tôi luôn nhớ mãi và khắc sâu hình bóng một người bạn tinh thần, bạn đồng tù, đồng cảm với bài thơ sau đây:
BÀI THƠ LINH MỤC LUÂN, PHAN RANG TẶNG TÔI TRƯỚC KHI QUA ĐỜI
Trước kia không biết Thầy Minh
Đến đây không hẹn mà mình gặp nhau
Chúa Trời, Đức Phật trên cao
Còn ta trong ngục kết giao nghĩa tình ..
Thề nguyền một dạ tử sinh
Lo cho Dân Tộc, thanh bình Quốc gia
Tinh thần tôn giáo hài hòa
Một trời, một đất xem là của chung ..
Bởi vì chân lý tột cùng
Mình tìm chân lý đi chung một đường
Mấy lời nhắn nhủ yêu thương
Tặng Thầy Minh nhớ tận tường ý Luân..!
CỤ PHAN ĐỨC TRỌNG, CAO ĐÀI “CHUNG SỐNG HÒA BÌNH” VỚI 40 NĂM TÙ CỦA HAI CHẾ ĐỘ.
Những tháng ngày trong kỷ luật, tôi còn ghi nhận cụ Phan Đức Trọng người đạo Cao Đài là Hội trưởng giáo hội Hòa bình chung sống, một người miệt mài tranh đấu không mệt mỏi cho tự do, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo. Ngay ở trại Xuân phước vì tha nhân ông đứng lên tranh đấu đòi hỏi quyền sống cho tù nhân chứ bản thân cụ không đến nổi nào. Thời kỳ chính quyền Ngô Đình Diệm Cụ ở tù hết mấy lần, nay ở tù chế độ Cộng Sản cũng mấy lần, tổng cộng gần 40 năm tù, tuổi 85 mà cụ chỉ được 1 người con gái duy nhất tên Nguyệt. Tôi còn nhớ trong những năm trại Xuân Phước có những quy định gắt gao, quà thăm nuôi của gia đình mang đến hay bưu phẩm gửi qua đường bưu điện, nếu có những món như : Bún, mì, bột, gạo nếp, các loại gia vị hành, tiêu, tỏi v.v…khi vào cổng nhà giam đều bị cán bộ trực trại tịch thu. Họ cho rằng nếu để người tù ăn uống có nhiều chất kích thích và nhiều chất dinh dưỡng thì sức khoẻ và tinh thần sẽ sung mãn ắt dễ sinh ra chống đối. Những thực phẩm nầy họ cấm không cho tù nhân được nhận rồi mấy tên trực trại tịch thu đem về nấu ăn ngon lành. Những hành vi nầy là thật trơ trẽn, lố bịch và vô liêm sĩ hết chỗ nói. Chứng kiến trước sự bất công, Cụ đã viết đơn đấu tranh đòi hỏi yêu sách, đòi quyền sống cho tù nhân, đòi cải thiện chế độ lao tù. Cụ sẵn sàng xin thọ nhận án tử hình thay để cho anh em được sống.
Thời điểm lúc bấy giờ, ở trại thung lũng tử thần này người tù nào có gia đình tương đối ổn định đi thăm nuôi cũng chỉ nhận được vài ký khô, đường, ít thịt chỉ đủ tiêu dùng hơn nửa tháng hoặc được mươi bữa là cùng. Đường đi thăm nuôi rất xa xôi vất vả, cho dù gia đình có khá giả đi nữa cũng khoảng ba bốn tháng mới đến thăm một lần, có những người ở tù suốt 15 năm nhưng chưa bao giờ có thân nhân thăm viếng. Vào ngày Tết, hay ngày quy định cho gia đình đến thăm nuôi, những người này mong được gọi đến tên mình dù chỉ một lần thôi mà cũng không bao giờ có được.
Vào những ngày này nhìn thấy mọi người xôn xao đi thăm nuôi gặp mặt thân nhân, các anh em thiếu thăm nuôi đi ra trước mái hiên ngồi thẩn thơ mà buồn cho thân phận, có người giăng mùng nằm ngủ cho quên đi cuộc đời bất hạnh của mình. Sự sống quá khó khăn, lại còn bị sức ép của những tên giám ngục, cho nên tạo cho con người sinh ra tánh ích kỷ với nhau. Nếu chia sẻ cho người khác thì ắt mình sẽ bị thiếu đói, chính vì “những điều trông thấy” những thảm trạng trên mà ông Phan Đức Trọng làm đơn đấu tranh đòi tự do, đòi quyền sống, đòi cải thiện chế độ lao tù, đòi thay đổi chính sách thăm nuôi, quà cáp .v.v… Chính vì vậy, ông đã bị biệt giam còng tay chân suốt gần 5 năm nơi kỷ luật … Mãi cho đến khi ông giám thị Nguyễn Văn Bàng lên thay thế thì việc nhận quà thăm nuôi mới có sự thay đổi đôi chút. Tuy nhiên ông giám thị mới này vẫn có sự bó buộc khác hơn theo một hình thức mới hơn, cưỡng bức lao động nặng hơn, lưu manh hơn, hỗn xược hơn! Ông Bàng cũng là loại “Hung thần” tàn ác, hút máu biết bao người tù. Nhớ lại biết bao nấm mồ hoang mả lạnh mà cám cảnh thương tâm. Tôi không bao giờ quên được sự hung hãn, bạo tàn mất tính người của các ông hung thần hắc sát tại trại Xuân Phước. Dẫu biết rằng họ cũng là đồng bào Việt Nam ruột thịt, nhưng loại ruột thừa có nên cắt bỏ hay không? Bởi:
Cùng cắt rốn chôn rau tổ quốc
Giống Rồng Tiên mảnh đất của chung
Nhưng ruột thừa .. dùng biện pháp cuối cùng
Đành phải cắt kẻo nhiễm trùng nguy hiểm ..!
E con bệnh sẽ truyền lây nhiễm
Và tử thần đến kiểm gọi danh
Đau lòng thay chớ ai nỡ cam đành
Để thân thể bình sanh và tráng kiện ..!
Đành ly cách hai đường hai chiến tuyến
Đường anh đi tôi thực hiện đường tôi
Và nhân đạo khi thức tỉnh quay hồi
Anh trở lại với khúc nôi dân tộc ..!
Anh cười vui khi toàn dân bật khóc
Bởi quê hương tang tóc chính vì anh
Sự thành công và thất bại sẵn dành
Đó là qui luật đấu tranh trong xã hội ..!
Chim có tổ người có tông cây có cội
Nước có nguồn lửa khói có người khêu
Khổ nhân dân ai tác giả xin nêu
Ai đạo diễn toàn dân đều thấy rõ ..!
Là nhà tu, tôi phải vâng lời Phật dạy “Dĩ Đức Báo Oán” đó là tôn chỉ cao đẹp nhất của Đạo Phật vậy!
Trên đây là đủ màu sắc tôn giáo đã từng chia ngọt sẻ bùi, ngậm cay nuốt đắng, chịu nhiều sự lăng nhục nơi biệt giam kỷ luật của thung lũng tử thần. Còn phải kể tới những gặp gỡ hiểu biết nhau trong tập thể của những ngày cưỡng bức lao động khổ sai, bị đày đọa hằng ngày dưới cảnh mưa dầu nắng lửa thì rất là nhiều vị. Thế nhưng hoàn cảnh không phải lúc nào cũng thuận tiện dễ dàng cho phép sự trao đổi tâm tình, ngoại trừ cùng ở chung một buồng giam hay cùng lao động chung trong một đội chẳng hạn như bên Thiên Chúa giáo còn có:
  • Linh Mục “ Khẩu” ở Ban Mê Thuột
  • Linh Mục “Nguyện” người rất đức độ, luôn thể hiện sự Bác Ái với tha nhân
  • Linh Mục “Hiếu” Dòng Đồng Công
  • Linh Mục “Phạm Minh Trí”, Dòng Đồng Công.
  • Thầy Nguyễn Viết Huân Dòng Đồng Công và nhiều vị Linh Mục….đã quên tên.
Các vị bên Phật giáo như:
  • Thượng Tọa Thích Thiện Tấn ( Huế )
  • Thượng Toạ Thích Thiện Tánh ( Huế)
  • Thượng Tọa Thích Tâm Căn ( Phan thiết)
  • Thượng Tọa Thích Phước Viên (Huế)
Bản thân tôi ít nhiều cũng có sự giúp đỡ đùm bọc, yêu thương của Chư Huynh Đệ, người mà tôi thường trao đổi tâm sự rất thân tình là Thượng Tọa Thích Phước Viên. Thượng Tọa là người khiêm tốn, hòa nhã, luôn gìn giữ tư cách phẩm hạnh của kẻ xuất gia cho dù có gặp nhiều chướng duyên trên đường hành hóa….Thượng Tọa rất sâu sắc tế nhị trong giao tiếp với mọi người. Rất tiếc tôi bị chuyển về trại giam Đồng Nai nên để lại cho nhau những niềm lưu luyến. Sau khi trả tự do huynh đệ chúng tôi có dịp gặp lại đôi lần ở Giáo Hội Trung ương, bởi cùng sự nghiệp “Thượng hoằng Hạ hóa” của Sứ giả Như Lai mà huynh đệ chúng tôi cùng chung một Bổn nguyện.
5. ĐỨA EM TRAI TÊN HÙYNH HỮU NHIỀU THỰC HIỆN LỜI TRĂN TRỐI CUỐI CÙNG CỦA MẸ TÔI
Trên đường đi thăm hơn ngàn cây số bị đánh cướp trên tàu hỏa, khi đến trại Ban giám thị không cho gặp mặt và cũng chẳng cho tôi nhận quà:
Là một nhà tu, tôi ý thức bản thân mình phải mang nặng những ân sâu theo Qui Sơn Cảnh sách: “Phàm người xuất gia là cất bước đến chân trời cao rộng, tâm hình khác tục, nối thạnh giống thánh, hàng phục ma quân, nhằm đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi” . Ân đất nước, ân phụ mẫu ( ân sư trưởng), ân Tam bảo, ân Đàn na tín thí ( đồng bào). Những ân trọng này suốt đời tôi không sao đền trả được, chưa nói đến tình huynh đệ anh chị em ruột thịt đã khổ lòng quan tâm lo lắng, san sẻ lặn lội thăm nuôi tôi trong suốt 26 năm tù. Những ngày cuối đời trong cơn hấp hối trên giường bệnh, mẹ tôi trăn trối lại với người em bên cạnh tên Huỳnh Hữu Nhiều: “Con phải hết lòng lo lắng, thăm nuôi anh con trong những ngày tháng tù đày xa xứ vì chắc mẹ không thể chờ đợi thêm được nữa…. mẹ có chết đi thì linh hồn mẹ sẽ theo phò hộ anh con bình an sớm được quay về. Nếu sau nầy anh con được trở về, thì con nói lại rằng mẹ luôn thương yêu nhung nhớ cho đến hơi thở sau cùng khúc ruột của mẹ và anh con hãy gìn giữ đạo tâm cho dù bất cứ hoàn cảnh nào “.
Em tôi khắc cốt ghi tâm lời mẹ dạy và hứa trước mặt để mẹ đựơc yên lòng, từ đó em cố gắng làm ăn để có tiền đi từ Bạc Liêu đến tỉnh Phú Khánh thăm nuôi tôi 4-5 lần nhưng duy nhất chỉ gặp được một lần 15 phút. Lần đầu tiên em tôi đi thăm nuôi, trên đoạn đường dài hơn nghìn cây số, em phải dành dụm gần ba tháng, chạy xe đạp ôm mới có đủ tiền đi xe và mua quà. Đây cũng là chuyến đi lần đầu của em trên tàu hỏa, khi xe chạy tới tỉnh Phan Rang, Phan Rí thì em tôi bị đánh cướp trên xe. Một bọn 4-5 tên khoảng chừng trên 20 tuổi, trông dáng vẻ hùng hổ, tay chân thô kệch, mặt mày hung tợn, cặp mắt láo liên, hai tên trong bọn ấy đến bên em tôi, vừa nói vừa chìa 2 lưỡi lê sáng chói chĩa thẳng vào hông, chúng bảo em tôi phải đưa hết tiền bạc và đồ đạc mang theo đường cho bọn chúng, thì mới an toàn tính mạng.
Em tôi trả lời :
- “Xin các anh thông cảm cho, đây là quà đi thăm nuôi người tù đang cải tạo. Tôi có một người anh là thầy tu mang tội chính trị, ở tù gần 20 mươi năm rồi, đây toàn là thức ăn chay xin các anh thương dùm”.
Nghe vậy, một trong số bọn chúng trả lời có vẻ dịu giọng một chút :
- “Nếu là đồ thăm nuôi người tù đang cải tạo, thì chúng tôi không lấy, nhưng chúng tôi chỉ xin hết tiền bạc và quần áo mang theo đường của riêng anh thôi”.
Em tôi thiết tha nài xin
- “Nếu các anh lấy hết thì làm sao tôi có đủ tiền đi xe về Bạc Liêu.”
Mặc dầu em tôi bày tỏ cạn lời nhưng bọn chúng vẫn trấn lột lấy tất cả, chỉ loại trừ quà thăm nuôi, chiếc đồng hồ điện tử rẻ tiền mà bọn chúng không thấy và một ít tiền còn lại có thể mua được vài ổ bánh mì. Thế là chuyến này em tôi không còn tiền đi tàu xe trở về Bạc Liêu nữa. Có điều đáng nói là em tôi còn gặp một chuyện cay đắng, ngậm ngùi đau khổ gấp trăm lần hơn là gặp bọn cướp trấn lột trên đường. Nghĩa là sau khi bị bọn cướp trấn lột, xe còn phải mất một ngày đường nữa mới tới tỉnh Phú Khánh, khi đến ngã ba Chí Thạnh huyện Đồng Xuân thì nơi đây có nhà nghỉ tạm của trại giam Xuân Phước, em tôi phải trú ngụ gần nửa tháng để chờ đợi, khi nào trại giam có đợt cho xe tải ra rước thì mới được vào trại. Đường đi khó khăn muốn đến trại cũng phải mất nửa buổi sáng, vì gần 40-50 cây số, đường ngập nước khó đi, thời gian nửa tháng ở đây, mỗi ngày em tôi phải ăn đói uống khát, vì sáng 1 gói mì chay và chiều 1 gói, lúc mang theo đi thăm chỉ có 1 thùng mì 30 gói, nên khi thăm nuôi không còn gói mì nào cả, bởi gia đình lúc ấy quá nghèo.
Khi đến trại giam, em tôi xuất trình đơn xin gặp mặt, có chữ ký của chính quyền địa phương xác nhận đầy đủ. Nhưng ban giám ngục đã từ chối không giải quyết cho gặp mặt và cũng từ chối không cho gởi quà thăm nuôi với lý do là “Tôi cải tạo rất xấu “. Một tên cán bộ giáo dục nói với em tôi rằng:
- “Anh Huỳnh Văn Ba tức Thích Thiện Minh là tên rất ngoan cố cứng đầu, khó giáo dục nên không thể giải quyết cho thăm”.
Em tôi bật khóc nức nở, nài nĩ van xin chấp tay quỳ xuống lạy tên sĩ quan cán bộ giáo dục này và nói rằng:
- “Vì đường rất xa gia đình nghèo túng và thời gian quá lâu không có tiền đến thăm nuôi được cũng như gia đình nhận tin báo rằng anh tôi đã chết mấy năm rồi. Bất ngờ nay nhận được tin còn sống, nên đến thăm nuôi, nếu không cho gặp mặt, thì cũng mong quí ông cho anh tôi nhận ít quà”
Nhưng họ vẫn kiên quyết không cho nhận. Em tôi lại nói:
- “Xin các ông lấy tình người mà mở tấm lòng nhân đạo”.
Tên cán bộ giáo dục nói:
- “Tôi trả lời với anh lần cuối, chúng tôi phải chuyên chính với kẻ thù và khoan hồng nhân đạo với những người thật tâm hối cải, chúng tôi chỉ đánh những kẻ chạy đi, chứ không đánh những kẻ chạy lại, ở đây chúng tôi làm việc theo nguyên tắc chứ không có nhân đạo hay tình người, tôi đã nói rồi tôi không giải quyết gì cả” – Nói xong tên giáo dục bỏ đi ra…
Cuối cùng em tôi đành phải quay về Bạc Liêu, với một chuyến đi về tâm trạng tột cùng đau khổ. Em tôi đem tất cả quà thăm biếu cho thân nhân của những người tù khác để khỏi mang về đường xa vất vả nặng nề… Trên đường về em tôi phải xin tài xế quá giang đi từng đoạn và nhờ sự giúp đỡ của quí bà con cô bác đi đường mới về đến Bạc Liêu. Khi về đến gia đình mẹ tôi hỏi … em tôi giấu mẹ, không dám nói thật vì mẹ đang bị bệnh khá nặng… nhưng rồi cũng không dám dối mẹ lâu… đành nói sự thật, hay tin này mẹ tôi đau buồn phát sinh bệnh nặng thêm và qua đời vào năm 1986. Xin nhắc lại, sau khi từ trại Cải tạo Cây Gừa chuyển đến trại Xuân Phước mẹ tôi nhiều lần đến gặp ban chỉ huy trại giam Cây Gừa hỏi thăm tôi, nhưng mấy tên chỉ huy thâm hiểm nầy lấp liếm không nói sự thật và hầu như công an có biết cũng không ai dám nói….
Sau đó gia đình tôi nhận được tin đồn là trong tù có một nhà tu tên “Minh” bị đánh chết thực ra đó là Linh Mục Nguyễn Quang Minh, hay tin nầy em trai tôi đã họa hình, lập bàn thờ cúng cơm hằng bữa, em mua một hũ chao, mỗi lần cúng gắp ra một ít cho có lễ đủ 3 năm sau khi tôi ra tòa xong. Cũng may nhờ vị luật sư thông báo về gia đình, các em mới nhận được tin tôi còn sống thì lư hương đã đầy ắp cả chân nhang. Sau nầy có dịp thăm gặp tại trại Xuân Lộc em tôi có mang tấm hình họa thờ đến cho tôi, đó là ảnh chụp lúc đang làm trụ trì tại chùa Vĩnh Bình. Bức ảnh nầy có kèm trong phần phụ lục đầu tiên của tập Hồi Ký này.
CHƯƠNG 8
RỜI “THUNG LŨNG TỬ THẦN”
VỀ TRẠI GIAM Z30A
XUÂN LỘC ĐỒNG NAI
Sau khi tôi bị kết án chung thân lần hai, tại trại Xuân Phước vào năm 1987 họ chuyển tôi về đội lao động đào ao, khuân đất, đá. Được khoảng hơn 2 năm họ chuyển tới về trại giam Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai. Trại giam nầy trước đây giam giữ những người tập trung cải tạo hầu hết các sĩ quan, Tá, Tướng, ở tù từ 10 năm trở lên. Sau những đợt thả tù để xoa dịu dư luận, một số được trở về được định cư sang nước khác, có người sống lây lất cảnh nghèo hèn tại quê nhà, chỉ có những người chết thì còn nằm lại tại nghĩa trang “Cây Sung”. Nghĩa trang nơi đây hương tàn khói lạnh, không người đi tảo mộ, họ là những chiến sĩ vô danh không chết vì cuộc chiến mà chết trong “Hòa bình”. Nghĩa trang sau nấy hằng năm vào mùa lễ Thanh Minh được tù chính trị phát quang, cuốc cỏ... Mỗi năm vào dịp này, Thầy Nguyễn Viết Huân dòng Đồng Công, Ông Phạm Trần Anh và tôi mua hương đăng, trà quả gửi cho anh em cúng bái. Một kỷ niệm tại nghĩa trang nầy giữa tôi và Thượng Tọa Thích Tụê Sĩ vào dịp đưa linh cữu của anh Nguyễn Văn Mắc đến nơi an nghỉ cuối cùng. Tôi còn nhớ Anh Mắc là thành viên trong tổ chức Hoàng Cơ Minh tức đảng Việt Tân, anh bị bệnh cấp tính chết đột ngột sau 1 trận bóng đá thuộc đội nhà bếp của trại.
Khi những tù tập trung cải tạo về hết, nên phân trại K1 bỏ trống, vì nhu cầu cần người nên trại Xuân Phước đã chuyển 250 người tù chính trị trong số đó có tôi, từ tỉnh Phú Khánh về Đồng Nai, danh sách được chọn lọc rất kỹ càng, đa số đưa đi kỳ nầy là những thành phần khó cải tạo, bị ban giám ngục liệt vào “sổ đen”. Họ cho là ” loại cứng đầu “. Tôi còn nhớ như sao chép trong bộ não của mình, vào buổi sáng thứ sáu cách đây 16 năm, tất cả tù nhân trại Xuân Phước đang tập trung ra sân để chuẩn bị đi lao động như thường nhật thì bỗng ông trưởng phân trại tên Bôi từ ngoài cổng trại đi vào một cách vội vã, tiếp theo là những tên cán bộ an ninh giáo dục của trung tâm cùng vài tên cán bộ phụ trách hồ sơ. Họ mang vào mấy chồng hồ sơ đủ màu sắc … tất cả tù nhân ngạc nhiên không biết chuyện gì sẽ xảy ra….
Lúc ấy tên cán bộ giáo dục ra đứng trước mặt các tù nhân tuyên bố:
- “Tất cả các anh phạm nhân phân trại A hãy giữ trật tự im lặng và lắng nghe chúng tôi đọc tên trong hồ sơ, người nào nghe có tên mình thì hãy ngồi sang qua một bên”.
Tôi ngồi lắng nghe đọc danh sách hơn một tiếng đồng hồ, có nhiều tên rất quen thuộc.Tôi đoán chắc là họ chọn lựa các thành phần thường hay chống đối trại, tôi hy vọng sẽ có tên mình, tôi cũng mong được chuyển đi trại khác, chứ ở đây tôi chán lắm rồi! Mặc dầu tôi chưa biết chuyện lành dữ gì đây! Tôi ngồi chờ đến sốt ruột mà không thấy gọi tên, tôi luôn nghĩ rằng nếu họ chọn lọc những thành phần thường bị vi phạm kỷ luật, loại cải tạo xấu như ông Phạm Trần Anh thì ắt hẳn tôi phải là người đứng trong danh sách của 10 đầu ngón tay này. Tôi lúc nào cũng hòa mình đồng cam cộng khổ với anh em có cùng chung tư tưởng và rất thích ở bên cạnh họ. Lòng tôi cảm thấy hơi lo và hồi hộp vì chỉ còn mấy chiếc hồ sơ nữa là chấm dứt danh sách mà tới giờ này vẫn chưa nghe gọi đến tên mình, tôi nghe họ đọc tới hồ sơ thứ 248, rồi thứ 249 và hồ sơ cuối cùng thứ 250 tôi trông thấy một xấp hồ sơ dầy cộm gấp đôi so với hồ sơ của mấy người khác. Và khi tôi nghe họ đọc tới tên mình tôi vẫn còn ngờ ngợ không biết đã chính xác chưa? Trong lúc ấy một người bạn tù tên Răng ngồi phía sau lưng tôi, anh ta dùng tay đánh mạnh vào vai tôi vừa mừng vừa nói “đúng là tên Thầy Ba rồi!”.
Sau đó tất cả 250 người chúng tôi được điều động lên hội trường. Số anh em còn lại bên ngoài sân không có tên tiếp tục đi lao động bình thường trong ngày. Tiếp theo họ ra lệnh tất cả 250 người chúng tôi mang hết đồ đạc cá nhân chuyển sang một khu khác, chúng tôi hoàn toàn bị cách ly không được tiếp xúc với các anh em còn ở lại. Công an bắt đầu ập vào phòng kiểm tra toàn bộ tư trang của chúng tôi, Họ tịch thu nhiều món đồ cho gọn nhẹ để lên đường. Đêm đó 250 người dường như chẳng mấy ai ngủ được, mọi người có cảm giác nôn nao trong lòng, còn những người ở lại thì túm 5 tụm 3 lại ngồi bàn tán xôn xao ở các phòng lân cận họ cũng thao thức suốt canh trường ít ai chợp mắt.
Đến gần bốn giờ sáng ngày 20/3/1989, chúng tôi được đánh thức thật sớm và bảo chuẩn bị mang hành lý ra xe. Trước khi lên xe, trại cấp phát cho mỗi người 2 vắt cơm nếp khá to với ít muối đậu để ăn hai ngày đi đường, ngoài ra họ còn tặng thêm cho 2 người, chung một chiếc còng số 8. Tất cả đi trên 5 chiếc xe tải, được đóng kín mui, đậy kín bửng, thiếu ánh sáng và không khí, có người gần như ngạt thở mỗi khi xe dừng lại bên đường… Điều đáng nhớ, mỗi khi xe dừng lại, quý bà con cô bác đi đường nhìn thấy trên xe đang chở tù nhân, thì mọi người mua quà, thuốc hút, bánh kẹo ném lên xe mặc cho công an bảo vệ xua đuổi nhưng họ cứ quăng lên… chẳng sợ gì cả. Khi xe chạy tới tỉnh Bình Thuận thì tạm dừng nghỉ 5 phút. Ở đây có một điều đã làm chúng tôi xúc động qua câu chuyện thật như sau:
1. Một chuyện nhỏ làm xúc động chúng tôi trên đường di chuyển về Nam ..
Một em bé gái trạc tuổi 12 đang cắp sách đi học, khi chợt nhìn thấy xe chở tù dừng lại, em vội chạy đi mua 1000 đồng khoai lang, được 2 xâu khoai, khoai xỏ lụi bằng chân nhang. Em tiến nhanh đến bên xe và nói:
“Con có Ba ở tù tại trại Gia Trung, con có đến thăm được một lần nhưng bây giờ Ba con không còn về nữa vì đã bị bệnh chết trong tù rồi. Hôm nay nhìn thấy quý Bác, quý Chú đi ngang đây, con nhớ Ba con quá! Bữa nay con đang đi học mẹ cho được một ngàn đồng để ăn quà sáng, con mua khoai biếu quý Bác, quý Chú ăn lấy thảo và cho đỡ nhớ Ba con”
Nói xong em bé gái khóc thút thít và lấy tay áo chùi nước mắt. Mọi người trên xe trông thấy cảnh này trong lòng bồi hồi xúc động, rơm rớm nước mắt tỏ vẻ xót xa và nghỉ đến thân mình còn đang bị cầm tù, thế rồi con cái của mình sẽ ra sao!
Thế rồi, năm chiếc xe chạy liên tục ngày đêm không ngừng nghỉ, cho đến chiều tối ngày 21/3/1989, chúng tôi đến phân trại A thuộc trại Z30A huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Khi còn ở trên xe, chúng tôi biết mình đang xuôi về Nam nhưng chưa biết mình sẽ chuyển đến trại nào ? Chỉ biết rằng nếu được về các trại gần phía Nam, thì chắc chắn sẽ dễ thở hơn đôi chút, vì tiện liên lạc thư từ với gia đình hay người thân có đến thăm nuôi cũng gần hơn… Khi đến phân trại K1 thì trời đã xế bóng, trông quang cảnh vắng vẻ tiêu điều, trên bầu trời vài con chim lẻ loi đang bay lang thang về khu đồi Phượng Vĩ gần dãy núi Chứa Chan. Nhìn vào trại chỉ thoáng thấy một vài người lưa thưa, đi lui tới trước hàng hiên của những căn phòng ọp ẹp, xiêu vẹo, lợp bằng mái tole trông rất cũ kỹ, mục nát, ngèo nàn. Chúng tôi một lần nữa bị kiểm tra hành lý, bị lục soát quá gắt gao làm đồ đạc văng tung toé, họ khám từ thân thể cho đến hành trang một cách rất kỹ lưỡng. Qua mấy ngày đường thật vất vả, mất ăn mất ngủ, mọi người mệt đừ mà lại còn gặp cái cảnh kiểm tra hành lý luộm thuộm, rề rà của mấy ông quan coi tù đã gây cho chúng tôi một cảm giác thật khó chịu vô cùng. Sau đó mấy tên An Ninh trại đọc tên sắp xếp phân chia 250 người ra từng đội.
Thích Thiện Minh
(Trích “Hồi Ký 26 năm lưu đày”)








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét