13.7.13

Biệt thự thời thượng cổ - 3


*Phân trại E, Thung Lũng Tử Thần.


Nó là cái trung tâm canh giữ những sự nổi dậy trong trại A20, Đồng Xuân, Phú Khánh mang Hòm Thư 1870.
Chung quanh bốn phía là hào sâu, với những cuộn thép gai cao 3m, bốn góc là tháp canh, luôn có những mũi súng hướng vào sân trại.

Phía đông của nó là cổng phân trại, một căn nhà nho nhỏ xây bên ngoài làm nhà cho cai ngục phụ trách phân trại này, khi hắn đi vào hay ra, tiếng kêu vang của xâu chìa khoá trên tay hắn như âm thanh của bầy quỉ đói.

Nằm cách ngôi nhà không quá 20m là ao cá, cái ao chứa đầy mồ hôi tù nhân thời khai trại. Ao cá đối diện căn nhà cai ngục. Đi qua cổng là lối trải sỏi có nhà y tế, cách một cái sân rộng làm nơi tập hợp, đối diện nó là bếp trại, qua khỏi bếp trại người ta thấy một tường cao ngăn dãy biệt giam, nơi gông cùm khua rổn rảng. Tiếp nối sân tập hợp là nhà văn hoá, cất bằng gỗ, theo hình bát quái, qua khỏi đó, bên trái là dãy nhà tập thể ngăn nhiều khu, bên phải là một hội trường sức chứa 1500 người. Toàn bộ cái phân trại như một công viên, dưới bóng dừa Phú Yên cao ngất ngưỡng. Dưới những bóng mát đó là máu, nước mắt, là những ý thức đấu tranh từng giờ.

Tháng năm, phân trại E, Trại Trừng Giới A20 bắt đầu có những cơn nóng của gió Lào thổi qua, thổi trên những nhà giam tập thể, đối diện nó là một hàng rào tường cao, ngăn chia khu biệt giam với một lối đi từ ngoài cổng, cái cổng thường đóng lại bằng cánh cửa thép gai đan kín.

Đầu tiên là nhà 1 với đội 1, đội 2 Lâm sản và đội nhà bếp. Những tù nhân trọng án, những khuôn mặt nổi cộm trong đội nhà bếp này là những chóp bu can tội kinh tế như danh gọi “phá hoại kinh tế quốc gia” mà họ được tròng vào cổ với mức án nhẹ nhất là 20 năm đến tử hình (không thi hành án).Trong đó có những Lý Sen (vua cán thép) Trương Dĩ Nhiên, Lưu Trung, Lưu Khung, còn có cả Đại tá Quốc Dân Đảng Lý Thành Cầu..v…v..
Trong cái điều kiện chật cứng vào thời dựng trại này, đội nhà bếp sống chung với hai đội lâm sản, là loại đi làm rừng, đưa củi về cho bếp trại, đa số trong hai đội lâm sản là tù hình sự hay những cán bộ “thoái hoá”, hoặc liên can vào những vụ kinh tế.

Nhà 2 cũng trên dưới 120 người và là “thành phần có án” như danh gọi mà Thung Lũng Tử Thần dành cho họ, trên cổ họ là án tù 15 năm đến chung thân. Nhà này là những con người đứng dậy từ sau 1975, họ là những chiến binh thầm lặng sau ngày tan trận, Trung tá Đỉnh, thiếu Tá Nguyễn Văn Hiện (Vinh Sơn) dấn thân vào các lực lượng chống và lật đổ chính quyền, đó là những quan chức không trình diện mà tập trung vào rừng sâu, dấy binh làm lại từ đầu, họ là những chiến binh trong những tổ chức, những lực lượng nổi dậy từ khắp Trung phần và Nam bộ, hoặc vịn níu vào thế lực tôn giáo, lên đường theo tiếng than khóc của núi sông.

Nhà 2, căn nhà của quỉ dữ. Ở nhà này là những tay hảo hán một trời không sống chung với cộng sản, một số sĩ quan, bỏ vào rừng, hay theo các lực lượng kháng chiến. Dù mất hết chỉ còn tay không, nhưng vẫn hừng hực lửa đấu tranh, Đại Úy Lôi Hổ Nguyễn Văn Xuân, Không Quân hai mai Nguyễn Văn Hương, Nguyễn Xuân Tây, từng theo các hào kiệt xuất thân ở Cao Đài, Tây-Ninh, thủ lĩnh Tám Trọng, một lời như đinh đóng cột. Trong nhà này còn có những lão thần của hai nền đệ nhất, đệ nhị Cộng Hoà. Những sĩ quan cầm lon cấp tá, những anh hùng gốc từ Fulro như Ynut, Ydat, Y Phin Niê, còn nhiều lắm những chiến binh âm thầm cắn răng dưới nhục hình, chờ một ngày mai, dù 15, 20 năm hay một đời, họ vẫn lắc đầu khi sống chung CS.

Nhà 3, gồm những sĩ quan bị đưa từ Suối Máu, Chí Hoà, Z30A, Z30C, và 78 tù nhân chế độ xách gói từ trại Hàm Tân Z30D lên đây vào ngày 10/05/1979. Ngay khi bước chân vào Thung lũng chết chóc này, tất  cả bị xé lẻ ra, một số trên dưới 120 người đóng chốt ở nhà 4, chia thành những đội 16 đến 22.

Nhà 3. Căn nhà của những chúa ngục, nằm ở giữa, đa số là những sĩ quan có cấp bậc từ đại uý đến đại tá, một số ít cấp bậc nhỏ hơn, nhưng là những tay chọc trời khuấy nước, từng làm điên đầu bọn cai tù ở các trại khác, trong đó quá bán là những đại diện các K ở Suối Máu đã nổi loạn, có hệ thống và kỹ luật. Dưới những thủ lãnh trẻ như Trần Đình Ngọc (nhảy dù), Nguyễn Ngọc Tiên khóa 23 Võ Bị Đà-Lạt, những Quỳnh Lùn, Châu Đông Pha, Tiến dế, v…v... Bên cạnh những sĩ quan này, đặc biệt có 3 đội là thuần túy chính trị, từ các lực lượng sau 75, họ không ra toà, nhưng lãnh cái án dây thun “tập trung cải tạo”, mỗi một mốc là 3 năm, hết thì…tiếp tục …Trong số này có những sĩ quan không trình diện, dính vào những lực lượng nổi dậy như đại úy Đoàn Bá Phụ (nhảy dù), đại úy Nguyễn Đại Thuật (an ninh QĐ), đại úy Vũ Trọng Khải (CSQG). Còn phải kể thêm 3 ông Tổng bộ trưởng Ngô Khắc Tỉnh, Ngô Khắc Tịnh, Hồ Văn Châm, một số dân biểu, nghị sĩ… Huỳnh Thành Vị, Trần Quí Phong. Giới trí thức khoa bảng cũng khá đông như giáo sư Phạm Quốc Bảo, luật sư Trần Danh San (chủ tịch UB Nhân Quyền), LS Nguyễn Hữu Giao, Vũ Hùng Cương, còn phải kể đến Phó tỉnh trưởng Quảng Nam Đà Nẵng Nguyễn Chí Thiệp. Phần còn lại là những chiến binh nổi dậy trong các lực lượng, mà nhiều nhất là Hoà Hảo, Cao Đài. Họ sinh hoạt chung một nhà, trong một xã hội thu nhỏ có đủ thành phần từ chúa đảo Côn Sơn, Trung tá giám đốc Nguyễn Văn Vệ, đến tham mưu trưởng Đại tá Trần Thanh Bền, Trung tá Vũ Xuân Thông của 81 Biệt Cách Dù, cho đến những thư sinh từ các đại học miền Nam, Vũ Mạnh Dũng, Nguyễn Thanh Tùng, hay những công dân Việt có giòng máu đấu tranh từ thuở cha ông, cục cưng Lâm Sơn Hải (con trai của tướng Lâm Thành Nguyên). Rồi đến kỹ sư Phan Thành Trường cặp bài trùng với Cao Thế Nhân (Hội Dịch Lý VN), kỹ sư Vương Đình Bách.

Góp mặt trong số có đẳng cấp này có cả Lê Kiên (Bùi Lượng), Trần Tương, vang danh từ vụ đảo chánh 1960 và ra khơi trên chiến hạm Hàn Giang 401 đến Côn Sơn.  

Nhà 4, nằm cuối dãy, tận cùng của lối vào đan kín thép gai, là một phần nhân sự bị cắt xén từ nhà 3. Đó là nơi những sĩ quan trẻ, rất trẻ, hào khí ngất ngất, trung tâm của những phản ứng trước giặc thù, nơi phát xuất của cuộc đào thoát long trời lở đất, làm cục trại giam phải tiễn cai ngục Nguyễn Văn Bàng về vườn.

Nhà 4, căn nhà của lửa dậy, ở đó không chỉ riêng là những sĩ quan trẻ nhiệt huyết, người ta còn thấy, Trung úy luật sư ca sĩ Khuất Duy Trác, Đại uý tiểu đoàn trưởng 314 Lê Phi Ô, người tử thủ 30 ngày đêm trong phòng tuyến Đắc Vỏ Tánh Linh, những cựu binh khoá 25 Võ Bị, xuất thân để chuyên cầm quân, vào trận, Hùng (chuột), Long (bô).
 

Ngọn lửa dậy trong ánh mắt họ vào những hoàng hôn, lúc đứng hàng hai cho đám cai ngục đếm số vào buồng giam, những ngọn lửa đó nói lên cái chịu đựng dai dẳng của những con báo đang đợi một thời cơ, nhẫn nhịn mang trong lòng vết thương mà suốt đời chinh chiến họ không thể nào quên.

Tinh hoa của miền Nam có lẽ tập trung nhiều nhất ở trại này. Những nhân vật “vang bóng một thời” phải cần nhiều trang mới có thể kể hết. 

Đáng kể nhất là đội hoàng gia.Trong đội này 17 linh mục được giam trong nhà riêng lẻ gần như cách xa khu tập thể của phân trại. Ở đó có những cái tên từng chấn động một thời: Đinh Xuân Hải (bạo chúa Tân sa Châu), Đinh Bình Định một thuở xuống đường, cho đến những linh mục hiền hoà như Nguyễn Văn Thông hay Bùi Quốc Khánh, hoặc thật trẻ như linh mục Hinh, cái đội hoàng gia còn có thêm những tu sĩ mà phải kể Nguyễn Văn Công (Cửu Long Võ Đạo). 
Lê Sáng (chưởng môn VOVINAM), người ta thấy thấp thoáng trong đó có thiếu tướng Cao Đài Lê Văn Tất, đi bên cạnh ông còn có cả Bùi Ngọc Phương ứng viên Tổng Thống thời đệ I Cộng Hoà.

Khác với những chiến binh từng cầm súng, những tù nhân trong căn nhà đặc biệt này là những tù nhân có tuổi, hoặc quá hiền từ hay ngoan ngoãn trước những đòn thù nghiệt ngã, họ không cúi đầu, nhưng ý thức đấu tranh đã tàn lụi theo năm tháng tù đày và chính tại đây là nơi lũ cai tù bòn rút không thương tiếc.

Những Linh Mục có quá nhiều giáo dân cung phụng, bậc chân tu khi thọ nạn vào tù, bất kể thế nào, con chiên cũng phải dành giựt cái sống còn để người ban phát niềm tin cho họ còn có cơ may sống sót quay về. Thế nên. Các Cha, các Linh Mục được châm chút và đời sống trong tù của họ là một thứ “tù cha”.

Những ngày cả trại dậy lên những đợt dịch bệnh, thuốc uống không có, nói chi thuốc chích đắt tiền. Nhưng tại nhà này, khi cán bộ trại hỏi đến thì đủ loại thuốc ngoại nhập, những thứ mà dân thành thị chưa chắc có đủ tiền để mua, tại đây thì ê hề. Những cảnh tượng này đã làm ít nhiều ảnh hưởng đến nhiệt tình của người trẻ. Họ cảm thấy trong cái xã hội thu nhỏ này, còn nhiều cái cần phải thẳng tay gạt đi. Sự khiếp nhược làm lu mờ ý thức đấu tranh trước kẻ thù truyền kiếp, những người ngoan đạo thực sự đang bị treo cổ chờ ngày hành quyết bởi những ngón nghề dụ hoặc của đám cai tù, hay bởi những răn đe mà bản thân họ vì một lý do nào đó không thể chịu đựng được.

Tuy vậy vẫn còn nhiều những linh mục thực sự là những người một đời hiến dâng trong đó phải nói đến thế hệ áo dòng trẻ hơn một chút như linh mục Hoàng Văn Thiên, Nguyễn Huy Chương. Là một đối kháng bên sự già nua của linh mục nhạc sĩ Huyền Linh, dù ông vẫn nói nói, cười cười, nhưng nụ cười đã thật sự héo hắt từ lâu.

12 đội, với quân số mỗi đội 30 người, đứng trên một diện tích vuông vức mỗi chiều 100m. Tất cả cuốc xẻng là thứ được làm tại chỗ. Những cái “ki” đan bằng tre nứa, luồn hai đòn dài cho hai tù nhân khiêng đi, và khiêng những bùn đất vét lên thành bờ ao chung quanh, cao hơn 1m50, với chiều ngang mặt đê 3m.

Mồ hôi tù đổ xuống đây vào những ngày đầu tiên của phân trại E, cái phân trại mới hình thành để thực sự giam tù nhân chế độ, người ta gạch dưới cái tên của họ, với ghi chú “Những thành phần không thể cải tạo”.

Đám cai tù, đứng trên mặt đê, bắt tù chặt những lá dừa quanh trại làm dù che nắng. Dưới ao tù nhân ốm tong teo, rách bươm làm việc dưới cái nắng khô khốc cháy da người.

Một tháng, hai tháng, ba tháng, cái ao mỗi ngày một sâu hơn, mặt cao mỗi ngày cao hơn, rộng hơn. Tù nhân mỗi ngày kiệt quệ hơn và con đường ngắn nhất cho họ đi ở cuối con đường đấu tranh nghiệt ngã này là về Đồi Vĩnh Biệt. Đó là ngọn đồi đã chôn vùi mấy ngàn tù nhân cho đến khi trại này vắng bóng tù chính trị, mà chính thức từ sau 1995.

Phân trại E, được canh từng giờ bởi lũ trật tự, là thành phần cán binh cộng sản can tội hình, bị đưa lên đây thọ những mức án 15 hoặc 20 năm, Lũ trật tự này thường có tính nịnh bợ, chuyên rình rập để tấu trình cho cán bộ trực trại, bọn chúng gồm hai tên ác ôn, Nguyễn văn Tuyến, Bùi trung Trực, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của một gã có tên Nguyễn Ngọc Thanh. Đó là những khuôn mặt trong ban thi đua của trại.

Vào đầu năm 1981, một hung thần từ trại C được điều động ra đó là Dương Đức Mai, trung tá Biệt động Quân, sau ngày đi trình diện đã như qui hàng và luôn phục tùng chính sách, mặc dù trên cánh tay của họ Dương vẫn còn vết xâm hơi mờ hai chữ “Sát Cộng”, có lẽ chốn lao tù không đủ dụng cụ và thuốc men để họ Dương tẩy vết xâm mà chính hắn đã từng thề trước hồn thiêng sông núi. 

Chính hắn đã gây khó khăn cho những sĩ quan cùng màu cờ sắc áo với hắn ngày xưa. Họ Dương được cất nhắc lên cái ghế “trưởng ban thi đua” của phân trại và là thủ lĩnh đám trật tự ăn theo, mở màn với một câu tuyên bố sanh tử: “Tôi đến đây, học và làm đúng chính sách, tôi sẽ để cho phân trại này thấy là tôi, chính tôi sẽ ổn định trật tự trại”. 

Đến nỗi trung tá hồi chánh Huỳnh Cự, nhà trưởng nhà 3 từng thốt lên một câu ngán ngẫm “Xét ra Huỳnh Cự này còn chút ân tình với anh em hơn là Dương Đức Mai”. Khi đang đứng giữa sân, ông đã chỉ cho Trung tá Lương Văn Ngọ cũng là một BĐQ khi nhìn cái tướng cúi gầm của Dương Đức Mai đang tấu trình với cán bộ trực trại bên kia sân phía hội trường, Đó là câu chuyện của ba ông Trung tá, một là hồi chánh còn lại là hai con cọp của BĐQ.

Phân trại E, trại A20, nơi từng có cuộc đào thoát vô tiền khoáng hậu, làm tên giám thị trưởng Nguyễn Văn Bàng vò đầu bức tóc, hắn từng tuyên bố từ ngày lập trại chưa con kiến nào chui qua lọt. Mà hôm nay:

Ngày 13-11-1980, giữa một chiều trời quang mây tạnh, các đội đều ra ngoài trại lao động. Tiếng súng báo động vang lên, tiếng gọi nhau thất thanh của bọn cai tù, tiếng thúc giục gom tù về trại. 7 con chim vừa bay ra khỏi trại giam, mang theo cả súng mà những chiến binh lừng lẫy đã cướp trên tay giặc, đi đầu là một cựu đại đội trưởng của TQLC, khoá 25 Võ Bị. Tất cả đều là những sĩ quan với bề dày kinh nghiệm núi rừng, với nhiều năm cầm quân đánh trận, trong đó còn có cả chàng phi công hào hoa Nguyễn Lưu Úy từng lái A37 trên chiến trường vùng I, coi cái chết như lông hồng, trong đoàn đương nhiên phải nhắc đến một anh hùng duy nhất còn sống trong cuộc ra đi bất thành đó, Đại úy pháo binh Lê Thái Chân.

Phân trại E, có một thời lừng lẫy, trên gông cùm còn sang sảng hát quốc ca, có những cựu binh bị cùm mưng mủ ống chân vẫn trơ trơ mặc cho đòn thù kìm kẹp.
Phân trại E, cũng có những cái chết âm thầm trong đêm vắng, chết nghẹn ngào trên đất núi, giữa rừng Trường Sơn, chết không một người đưa tiễn.

Phân trại E, có những bà mẹ già nua còng lưng gánh gạo thăm con, có những người vợ trẻ nhiều năm chưa thấy mặt chồng, những mái tóc đầy xuân xanh phải cúi xuống cầm nước mắt cho người thân yêu của mình hiên ngang giữa rừng gươm mũi đạn, rồi lại cắn răng nuốt đau cho chồng, cho người yêu của mình sống tròn với chính nghĩa, với màu cờ đã từng gìn giữ bao năm, chấp nhận những lần gồng gánh thăm chồng rồi quay về không một lần thấy mặt.

Phân trại E của trại A20, có quá nhiều cái để nói hay kể lại, dù không là chuyện đội đá vá trời nhưng nó là kỷ niệm. Nơi những người lẫm liệt bất chấp tai ương, thực sự hiến thân sau ngày tan trận.

A20 nguyễn thanh khiết





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét