25.2.11

Bên dòng Trà Bương




tuyệt đường Kỳ Lộ lưu đày
kiếp tù lỡ vận kéo cày vỡ hoang
trông xa tre gẫy măng tàn
xó rừng Xuân Phước úa vàng bãi dâu

hương tan mùi Tết cơ cầu
vàng mai ngõ trước Em đâu dấu hài
vườn Uyên phương ấy mùa phai
nhớ người úa sắc dặm dài sóng mây

bỗng khi không vướng tù đầy
mộ tình thiên lý nhìn cây nhớ rừng
tù qua đây đất rưng rưng
nghe trong lao nhục mấy từng khổ đau

kiếp tằm giăng mãi tơ nhàu
Em chìm khổ nạn bạc màu phế nan
thôi Em đường rẽ xế tàn
miếng cơm manh áo võ vàng xót xa

trông lên hạnh phúc trăng tà
trông sao Khuê đã mù xa bến trời
lạnh bờ cát ẩm mù khơi
nghe hơi Thu tận tơi bời dáng Thu

đêm về bóng đổ âm u
rừng Thu lá rụng xuân tù áo quan
hết trăm năm cuộc chiến tàn
khói mùa lửa đạn cháy vàng chiến y

CÁI TRỌNG TY


(nguồn: http://caitrongty.wordpress.com)

22.2.11

THIÊN ĐƯỜNG ĐỎ



Quán lá xin trân trọng giới thiệu với các A20 và những chiến binh một thời bất khuất bài viết từ xương máu của A20 Tống Phước Hiến phu nhân, Thiếu úy CSQG Lê Thị Xuân. Một gia đình A20 đã bỏ một thời hạnh phúc trong những ngày điêu linh của đất nước, đọc để lắng sâu vào tâm thức sự chịu đựng của chị và những đòn thù ập xuống gia đình một A20 kiên cường như chính anh đã từng sống và chiến đấu với đồng đội suốt những năm tháng trong những trại tù ,Quán lá xin nghiêng mình trước A20 Tống phu nhân


                                                          
                           Lê thị Xuân       

     Tối ngày 28.6.1975 tôi bị di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn đến Trại Suối máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản quản lý. Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và  Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen lấn lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để  nằm nghiêng. Lúc nầy tôi mang thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai phụ cần được nghỉ ngơi, thoải mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần phải được thực phẩm dinh dưỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi truờng sống quá thiếu vệ sinh, lại phải ngồi nghe học tập, thảo luận, đấu tố. Thể chất mệt mỏi, tâm trí lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình và cho chồng . Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị quỵ, chỗ kín bị ra máu, không được chữa trị hoặc thuốc men. Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12/8/75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do: “tạm hoản quản huấn vì sắp đẻ” (nguyên văn).
               Về đến nhà thì ba mẹ và các em nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài gòn theo chương trình gọi là hồi hương lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi đành ở lại căn nhà cũ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở). Đến đầu tháng 9 năm 75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện Từ Dũ. Sau khi sinh cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái, thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết. Tỉnh dậy tôi trở về tâm trạng cũ. May mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bế cháu tìm đường về Sa Đéc.
   Khi chiếc tàu đò đậu trước cửa nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là khu oanh kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố bom. Thấy gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót sa, vì vậy tôi ráng sức phụ giúp gia đình và tôi lại thêm lần nữa ngã qụy. Đúng vào thời gian nầy, khi cháu được hơn một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.
   Sáng hôm ấy, đang cho con bú, tôi nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy lên bờ, chạy phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiểm soát  tâm trạng tôi luôn luôn hồi hộp lo sợ. Đang còn hoang mang thì tôi đã thấy họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi nghe đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy:
- Các đồng chí vào vị trí sẵn sàng tác chiến.
   Sau đó tiếng quát ra lịnh:
- Chị Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối, chấp hành lệnh quản chế, thì sẽ được cách mạng khoan hồng !
   Tiếp theo là hai tên có võ trang tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi không sợ, nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ con phải chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm ngoài ruộng. Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về. Nhưng chúng nhất định không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tả lót, ít quần áo, vật dụng cho hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng  máy giữa hai hàng súng “dàn chào bảo vệ” của chúng. Sau nầy tôi biết tên hung tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp hắn tại Sài Gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ.Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và giàu có.
   Bọn chúng chở hai mẹ con tôi về trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam nằm trên gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào giây kẽm gai bao bọc, chúng cẩn thận gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy giam đủ thứ thành phần từ SQ chế độ cũ, tôn giáo, đảng phái chính trị… đến thường phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc xó nhà bếp. Vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và nhiều bụi dơ; gió mang theo hơi nóng làm rát da. Tôi mượn nhà bếp hai tấm bao bố gạo làm chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất. Mỗi buổi chiều mẹ con tôi được nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để tắm giặt. Vì cái đìa nhỏ nầy khi nước triều cường mới có chút ít nước từ sông cái tràn vào, do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thoát ra, vì thế nước có màu đen của dơ, màu váng của phèn; mùi hôi thối luôn luôn phảng phất, đó cũng là mầm mống bịnh hoạn.
Thức ăn không đủ nuôi cơ thể thì làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi mỗi ngày đuợc lưng chén nước cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng với giòng sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới chế độ cộng sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và mới hiểu đó là sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã giáo dục cho họ. Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò, trí óc chỉ ước mơ đến chưyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!
   Ngoài cái đói triền miên hành hạ, tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là lúc từng đàn muỗi xuất hiện. Chiếc mùng cũ lúc mang theo, bây giờ cũng rách mục như số phận làm người trong xã hội “thiên đường”cộng sản.
   Tôi ngậm ngùi thương con, tôi lo cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vã của gia đình, thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà mẹ chồng hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường như giọt lệ lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi thì lúc nào cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự xúc phạm.
   Do thiếu thốn vật chất, tinh thần hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và  thương nhớ người thân – tôi mỏi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu ốm và những bệnh do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc “hiệp đồng” tấn công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu.  Lúc nầy thì con tôi tóc bết dính và lầy lụa mũ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt rớt ra. Tôi lo qúa, có lần tôi đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người lòng thú ấy dửng dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi  phẩm cách và lòng khoan hồng “cách mạng!”. Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng phát triển mãnh liệt. Tôi hối hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng lắm!
   Sắp đến ngày 2 tháng 9, ngày “quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào đến thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi, chúng phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẽ nhờ thế mà hôm sau, ngày 30/8/76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.
   Về đến nhà, toàn cả gia đình tôi sống héo hắc, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao gần năm qua tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng tự trọng thúc đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn ngàn yêu dấu. Cậu em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài gòn cho tôi hay rằng người mẹ chồng hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho bà đã thóat được cái thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản”. Tôi nguyện cầu cho bà sớm được về cõi Phật như lòng bà hằng mong ước. Tôi xót sa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không được gặp nhau, không được có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.
   Gần sáu năm sau kể từ ngày tôi được thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới được thả về. Giây phút đầu tiên gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn thân tôi điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt lệ cứ trào ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai vì thống thiết đau buồn, thương nhớ.
   Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo khổ và cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên sinh, nên ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc sinh tồn. Dù cường quyền địa phương ngăn cản, luôn tìm cách tạo bất an, gây phiền nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí phấn đấu từ làm thuê, vác mướn, bán dạo… gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn. Nhưng tai họa lại ập đến! Bởi lao nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng tôi ngã bịnh nặng. Bác sĩ cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng phổi bị dày dính nên kéo và làm trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn dành dụm được đành phải bỏ hết ra để giành mạng sống của anh. Khi đồng bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi gặp được người chị cả của chồng tôi, hai chị em thất lạc từ thưở anh chưa chào đời. Nhờ chị, chúng tôi thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần và vật chất của chúng tôi được an ủi, khuyến khích và nâng đở. Chị trở thành người mẹ thứ hai của chồng tôi,
   Bây giờ nhớ lại và kinh rợn chuỗi ngày sống dưới ách bạn tàn khắc nghiệt cộng sản, lòng bùi ngùi thương cảm cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin thành kính nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn cứu nỗi bất hạnh của quê huơng, xin được khóc những  giòng lệ cho những oan khuất tội tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức khống chế.
   Xin cúi đầu tưởng niệm hằng triệu chiến sĩ Quốc Gia, Con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc máu xương vì sự an tòan và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58 ngàn con yêu của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc chiến đấu cho công lý và tự do trên quê huơng tôi.
   Xin cám ơn lòng hào hiệp của nhân dân và chính phủ Hoa kỳ đã cứu vớt và đưa  chúng từ nơi tối tăm bi thảm, nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa, nơi tuyệt đối tôn trọng nhân phẩm con người.
   Xin cám ơn những ân nhân, vì tình nhân ái, vì nghĩa Đồng Bào mà điển hình là bà Khúc Minh Thơ và hội Gia Đình Cựu Tù nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không quản ngại gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra sức đánh động cho Thế giới và nhất là Hoa kỳ biết nỗi thống hận ngút ngàn mà cộng sản trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến sĩ Quốc gia từng  một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.
   Học theo Quý vị, chúng tôi nhất định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi. Chúng tôi giữ gìn đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tiếp nối về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và cho sự tồn vong của Dân tộc. Thiết nghĩ dó là lời cảm ơn chân thành và thiết thực nhất.
   Việt Nam là Dân tộc biết mang ơn và biết cách đền ơn . Đó là lời cuối cùng của giòng tâm sự hôm nay của chúng tôi.
                                      
                    Little Sài-Gòn, ngày Truyền thống CSQG/VNCH - 1.6.2008
                                                               Cựu Thiếu-Úy CSQG LÊ THỊ XUÂN
                                                               (phu nhân của A20 Tống Phước Hiến)






 

21.2.11

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

                  
          Với các bạn thuộc thế hệ kế tiếp
 
 
Tống Phước Hiến
 
 

Cho phép tôi được tâm-tình với các bạn,  những người chưa kịp tham gia vào cuộc chiến trước năm 1975 và phải mang thân phận ly-hương tủi-nhục; hoặc phải bị nhìn về một phía bởi đôi lá chắn. 
                    
Vâng, chế-độ Cộng-sản tự cho mình là tên xà-ích và buộc các bạn làm thân ngựa phải gò lưng  kéo cỗ xe chĩu nặng tội ác với  hai miếng da chắn tầm ước vọng tuổi trẻ. Chút tâm tình nầy không mang ý nghĩa “Nói với tuổi 20” ( tên một tác phẩm của Thượng-Tọa Thích Nhất-Hạnh ) và thiết tha xin các bạn đừng có thái-độ “Nói với kẻ 40” (Trích từ lá thư trong tác phẩm“Ý-thức mới trong văn-nghệ và triết học của Phạm-Công-Thiện).

             Các bạn trẻ thân kính,

Dù tuổi của các bạn còn trẻ, nhưng tôi vẫn  kính trọng, bởi tương lai quê-hương chúng ta do chính các bạn định đoạt; và cũng chính các bạn là những người đang viết tiếp giòng lịch-sử gần 5.000 năm  giống nòi Lạc-Việt.

Thành thật, tôi không dám ở vị-trí mà nói theo thuật ngữ lịch sử là thế hệ bàn giao. Vì chúng tôi có gì để bàn giao, nếu không muốn nói chúng tôi đã bàn giao thân phận của một Dân Tộc có Tổ Quốc  kiêu hùng, có giang sơn gấm vóc, có lịch sử  bất khuất, có nền Văn Hiến từng rực rỡ Phương Đông, nay trở thành những kẻ mất Quê hương, cho dù lưu vong hay còn tại quê nhà ! Vì dù ở nơi đâu mà người được quyền thừa tự nay bị biến thành kẻ chỉ được nhận sự ban cấp từ giai cấp thống trị thì có khác gì nhau.

 Chúng tôi vẫn biết một Miền Nam nhỏ bé dù dũng mãnh đến đâu  cũng không thể đương đầu với cả hệ thống Cộng Sản Quốc Tế, nhưng nếu toàn thể Miền Nam nhận thức rõ hơn về ác họa hiểm độc cộng sản thì với  gươm súng và lẽ phải, chúng ta vẫn có quyền tin tưởng vào khả năng lật ngược tình thế như đã từng xảy ra  ở biến cố Mậu Thân 1968.
  

10.2.11

A20 Vũ Đình Thụy với Giải Vasyl Stus



A20 Võ Lâm Tể

Trước biển hoàng hôn

Một mình trước biển hoàng hôn
Nhìn theo con nước sóng dồn ra khơi
Mênh mông tựa sát chân trời
Cô đơn réo gọi như lời của ai
Em về chẻ tóc làm hai
Cho ta một nửa nối dài tuổi thơ
Em ơi đời huống hững hờ
Thuyền ta neo giữa biển mơ đã chìm
Để rồi tình cũng lặng im
Chân mòn mặt đất qua thềm lãng du
Tuổi vàng như lá mùa thu
Xạc xào trên cát mịt mù thế nhân
Thế nhân ơi nửa chừng xuân
Phải chăng con tạo cũng ngần ấy thôi
Em về chẻ tóc làm đôi
Thay dây mà nối nhịp cầu tri âm
Cho dù tóc trổ hoa râm
Chén đời mật đắng tơ tằm vẫn se
Này Em hãy lắng mà  nghe
Thuyền kia vỗ sóng cầu tre gập ghềnh
Quê hương! Ừ, lắm hữu tình
Ai đi mà chẳng quay nhìn bóng xưa...

Hướng Dương Vũ Đình Thụy
(trại tù A20 Phú Yên 1993)

3.2.11

NHỮNG TIẾNG HÁT BỪNG SÁNG A 20



A20 Phạm Đức Nhì

    
Kỷ niệm 29 năm ngày khai hội Tù Ca tại trại A20, Quán Lá xin giới thiệu cùng tất cả cựu tù Xuân Phước và thế giới đấu tranh, một trường ca bất khuất không bao giờ lãng quên trong lòng những con đại bàng.  A20 Phạm Đức Nhì sẽ dẫn chúng ta sống  lại những ngày tháng kêu hùng của Tết năm 1982, dưới gông cùm khắc nghiệt của trại Trừng Giới, dưới bạo tàn của các cai tù mang giòng máu liên khu 5. Hãy nhìn một chặng đường oan nghiệt mà những cựu tù Xuân Phước đã qua. Trong ngời ngời đao kiếm đó tinh thần của các con đại bàng A20 vẫn bất tử.




NHỮNG  TIẾNG  HÁT  BỪNG  SÁNG  A 20


Lời nói đầu

Cách đây 29 năm, vào ngày mồng 1 tết năm Nhâm Tuất (1982) ở phân trại E, A 20 có 3 thằng điên - giữa lúc không khí căng thẳng, kỷ luật khắt khe, ăng ten lộng hành, đã tụ họp, bàn tính tổ chức một buổi văn nghệ “ phản cách mạng “ biểu dương tinh thần bất khuất, ý chí quật khởi của những người tù chính trị, những chiến sĩ đấu tranh đòi tự do, nhân quyền. Tôi và một số anh em khác bỗng biến thành những kẻ dại khờ bị 3 thằng điên gây máu lửa đẩy vào cuộc chơi. Sau này ngồi nghĩ lại những hành động điên khùng, dại khờ lúc đó, lòng bỗng thấy vui vui. Té ra hình ảnh những ngày tết năm ấy đã chiếm một khoảng trong tâm hồn mình, đã thành một kỷ niệm khó quên. Xin được phép chia sẻ kỷ niệm ấy với các bạn tù A 20
                   Phạm Đức Nhì


GẦY  SÒNG  THẤT  BẠI

          Khoảng giữa năm 1979 tôi bị giải từ Bù Gia Mập - Phước Long - về Z30D Hàm Tân. Ở đây tôi làm bạn với Vũ Mạnh Dũng - một sinh viên bị bắt vì tham gia những hoạt động của sinh viên đại học chống chính quyền Cộng Sản. Dũng chơi guitar khá nhuyễn, biết nhạc lý và hát cũng rất hay. Dũng cho tôi biết ở trại có ca sĩ Duy Trác (một trong hai nam ca sĩ hát hay nhất miền nam trước 75) và anh Trác đã sáng tác hai bản nhạc được anh em ưa thích là "Lời Nguyện Trong Tù" và "Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về". Tôi nhờ Dũng đưa đến gặp anh Trác. Anh Trác vui vẻ trò chuyện với tôi và đồng ý về một buổi văn nghệ bỏ túi để các bạn tù từ các trại trao đổi tù ca với nhau. Dũng cũng cho biết ở đội trốn trại bên một khu khác có "Mưa Trên Ngục Tù" của Nguyễn Hưng Đạo và "Nếu Quả Ta Là Người" – không biết của ai – mà anh Ruyệt hát rất hay.

1.2.11

KHÔNG THÍCH CỦA NÀO TRỜI TRAO CỦA NẤY (Part 2)






Trước 1975, khi du khách đến Đà Lạt và ghé Hồ Than Thở đều thấy có một tấm bảng to tướng với những hàng chữ đập vào mắt mọi người:

"TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM,
NƠI QUY TỤ NHỮNG CHÀNG TRAI VIỆT CÓ LÝ TƯỞNG QUỐC GIA"

Bây giờ hồi tưởng lại tôi thấy khi đó mình chỉ là một chàng trai có Lý tưởng "Bất đắc dĩ", không biết có ai "Trùng hợp" không nhưng xin các Bác đừng vội "Nhíu mày" vì tôi sẽ xin "Trải lòng" sau đây:


KHÔNG THÍCH CỦA NÀO TRỜI TRAO CỦA NẤY (Part 2)






Trước 1975, khi du khách đến Đà Lạt và ghé Hồ Than Thở đều thấy có một tấm bảng to tướng với những hàng chữ đập vào mắt mọi người:

"TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM,
NƠI QUY TỤ NHỮNG CHÀNG TRAI VIỆT CÓ LÝ TƯỞNG QUỐC GIA"

Bây giờ hồi tưởng lại tôi thấy khi đó mình chỉ là một chàng trai có Lý tưởng "Bất đắc dĩ", không biết có ai "Trùng hợp" không nhưng xin các Bác đừng vội "Nhíu mày" vì tôi sẽ xin "Trải lòng" sau đây:

Là một người DI CƯ sống và lớn lên trong 2 nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, hưởng một nền Giáo dục hầu như trọn vẹn (Không như bây giờ...), mình chỉ có một ước mơ bình thường như các bạn khác là cố gắng học lên cao hay du học để sau này giúp ích cho đời, cho đất nước.

Ở bất kỳ lãnh vực nào cũng hướng về đất nước thì đều là Lý Tưởng cả. Nhưng chỉ vì cái tội ham dzui nên "Thiên bất dung gian", rớt Tú Tài 2 (66-67), năm sau thi lại, vừa đậu thì gặp biến cố Mậu Thân, đưa đến luật Tổng Động Viên của Ton Ton Thiệu khiến mình bị triệt buộc, không thể tiếp tục học và phải nhập ngũ theo học khóa 7/68 Trừ bị Thủ Đức, trước kia TVBQGVN không có một cái gì "Ấn tượng" với tôi cả, chỉ có một vài trường hợp tiếp xúc với các Cùi NT, như khi học thi tại nhà bạn thì Chú của Bạn mình là Cố NT Nguyễn Đức Cần K.19, Binh Chủng Dù, thỉnh thoảng về phép, sau này tử trận tại Khe Sanh. Nhìn hình ảnh NT trong bộ đồ Dù tôi thấy rất hào hùng, bản tính mình lại hay thích xem những phim hành động như Chiến tranh, Cow boy, Kiếm hiệp, Quyền cước.... tỏ rõ cá tính thích phiêu lưu, năng động chứ không thích ngồi một chỗ.

Sau khi bị dính trấu nhà binh, ngồi xem TV, tình cờ có Show Cổ động cho K.25 do Khóa 22B phụ trách, tôi và người bạn lên Đà Lạt chơi, nhân tiện ghé vào trường Võ Bị và gặp Trung Tá Đồng Văn Chân, Trưởng phòng TLC, lại được dịp nghe quảng cáo, sau đó NT cho tụi tôi tập tài liệu về Trường và Đơn ghi danh.

Trở về và chuẩn bị lên đường nhập ngũ, vào Trung tâm 3 Tuyển mộ nhập ngũ khám sức khỏe rồi chuyển qua thụ huấn giai đoạn 1 ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung tại Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng, còn gọi là Tiểu đoàn SALEM vì bảng tên mang mầu xanh SALEM, tôi được sắp xếp về TrĐ3/ĐĐ3/TĐ ĐTH đồng thời có Nguyễn Phùng Gioanh (Tự Gioanh Lồi) ở Trung Đội 2, còn các bạn K.25 thì ở rải rác các ĐĐ và TĐ khác như Bá Dzi, Giang Ngô, Bính Korean, Long Sụn v...v...

Tuần lễ đầu tiên, ngày thì huấn luyện, tối về lo làm đơn xin phép về đi thi vào VB, sau đó chúng tôi được về phép tuần đầu tiên và thi ở trường Petrus Ký, đến khi có kết quả, nhân dịp đi phép, về nhà thì ông anh đã đi dò kết quả và phán: "Mày trượt rồi", buồn 5 phút, tôi nghĩ thôi số phận mình đã an bài phải chấp nhận thôi, đến tuần cuối cùng trước khi mãn khóa Giai đọan 1 để lên Thủ Đức tiếp tục giai đoạn 2, về phép thì ông anh báo "Mày đậu vớt rồi".  Lúc đó tôi bắt đầu phân vân, suy nghĩ có nên tiếp tục Thủ Đức hay ra "đầu thú", nhớ lại những hình ảnh thương tâm của biến cố Mậu Thân và những dịp đi ủy lạo, cứu trợ, xây nhà tạm cho đồng bào nạn nhân ở khu Phạm Thế Hiển, cầu chữ Y, nhìn những hoàn cảnh bi thảm đó tôi cảm thấy mình thật may mắn, những sự đóng góp, chia xẻ nhỏ nhoi đó không thấm vào đâu cả, nếu bây giờ không bị triệt buộc, được du học hay tiếp tục đại học thì tôi cũng không cảm thấy thoải mái, bình thản gì.

Trở về trại thấy trên văn phòng đâu đâu cũng dán danh sách thí sinh trúng tuyển K.25 VBĐL, nhìn vào thấy tên tôi và Gioanh Lồi, thế là hai đứa kéo nhau lên câu lạc bộ, vừa nốc bia vừa nhìn nhau, thằng này hỏi thằng kia cùng một câu hỏi: "Mày đi không?"..."Mày đi không?"..."Mày đi không?"… Cuối cùng thở dài :"Đi mẹ cho rồi".... và đó là giây phút “quyết định lịch sử” của 2 đứa.

Lên Thủ Đức, hai đứa ra "đầu thú" và làm thủ tục để lên Đà Lạt, nhập trường vào đợt 3 với 8 tuần huấn nhục, tôi về ĐĐ E chung phòng với Đức Giang và Chí Mén, còn Gioanh thì về C, gắn Alfa thì ở chung phòng với Tạ Thúc Thái và Phạm Đăng Luyện, tưởng đâu mọi việc sẽ bình thường, dè đâu giông tố đến ào ào, số là 2 ông NT là bạn 2 ông anh mình, Đ/U Hoàng Lê Cường K.16 và NT Nguyễn Như Lâm K.22B tối nào cũng leo vào phòng ngồi tán gẫu làm cán bộ Tiểu đội trưởng Nguyễn Kim Bách cứ đi qua đi lại gầm gừ, với sự phụ họa của TĐT Đỗ Mạnh Trường từ đó mình trở thành "Cao thủ Dã Chiến" lúc nào cũng hận đời và căm thù đàn anh, nhưng sau này "Ra khơi" mình mới biết mang ơn mấy ông anh, vì đó chính là những “Bí kíp” tuyệt chiêu giúp mình đứng vững trên mọi hòan cảnh, kể cả Bí kíp "Trốn phố" nữa các Bác nhé, chơi mà thực, thực mà chơi đấy.

Năm 2010 nhân dịp K.23 họp mặt tại San Jose, hôm Tiền Hội Ngộ, tại nhà một K.23, tôi ghé thăm các NT, nhìn quanh nhìn lại chỉ có một mình là khóa đàn em duy nhất mà thôi. NT Trường nhìn tôi tủm tỉm: "Sao? hôm nay đến đây để ĐÒI NỢ hay TRẢ NỢ ?" Tôi cười: "Cả hai"

 

Qua Trường Mẹ, chúng ta thấy gì ở hình ảnh của người SVSQVB, đó là sự pha trộn giữa TRÍ THỨC và máu GIANG HỒ nhưng không KHÁT MÁU, khác với CS vì chúng ta còn mang tính NHÂN BẢN.

Cái "Không thích của nào.....” vẫn còn dai dẳng triền miên, ngày cả đến kỳ mãn khóa, khi chọn đơn vị, tôi với Huỳnh Văn Đực khi đó 2 đứa là cặp bài trùng cùng "Móc sẩu" với nhau, kỳ này căn bản là phải Đồ Bông, ưu tiên theo thứ tự: Biệt cách 81, Nha Kỹ Thuật, Dù, TQLC, BĐQ...

Biệt Cách 81 thì LĐHợi và Bá Dzi cuỗm mất, Nha Kỹ Thuật thì Đực chớp được, ghế còn lại NHKỉnh phổng tay trên, Dù thì thua sớm còn lại TQLC
còn một chỗ thì chưa gì gặp ngay cái tên "Trời đãi kẻ LỜ QUỜ" làm mình tức ói máu, còn lại BĐQ thì hơi nản vì đã từng nghe danh "3 Tây còn thua Biệt Động" nhưng ít ra cũng còn là đồ Bông và còn chỗ nên Cùi không sợ lở.... chơi luôn, cho nên bây giờ thành ”Cọp sứt móng” là dzậy đó các Bác ạ.



Ra đến đơn vị lại gặp ông SỤN "Không thích của nào ....Part 1" giáng cho món thịt cầy thành "Không thích C
Y nào SỤN trao CY nấy" đâm ra ghiền luôn....
  
    Thời thế xoay vần, nào ai muốn mất nước, tan hàng, đi tù đâu.., thế rồi đành phải chịu.  Vào tù trực diện với lũ đười ươi lúc nào cũng muốn lộn ruột, thử hỏi không "Điên" sao được, những ngày đi lao động, dưới trởi nắng chang chang, 2 người đi chung một Ki đất, mặc quần sì lủng, cởi trần trùng trục, dây thung quần quấn quấn lên cao cho nó "thoáng". Nhớ lại thuở xa xưa, vừa đi miệng lẩm bẩm hát khẽ, mông và chân sàng qua sàng lại nhún nhẩy theo điệu Dzumba, ai dè đâu gió và bụi nó cũng nhún nhảy theo vô tình bay ngay vào mắt thằng Quản giáo, làm mắt nó ngứa liên hồi, thế là nó lôi lên nhà chòi "Làm việc".

Vừa ngồi xuống là đập bàn và văng miểng "Bây giờ anh cho tôi biết qua thời gian cải tạo đến giờ anh đã tiến bộ được gì rổi" Tôi đáp :"Tiến bộ quá cán bộ ạ". Hắn tức quá :"Tiến bộ cái gì anh nói cho tôi nghe". "Này nhé cán bộ thấy không, trước đây tôi là một người ăn chơi, trác táng, Tứ đổ tường tôi không chừa cái gì hết, không hề biết cái xẻng cái cuốc là gì hết, bây giờ vào đây mấy thứ đó tôi đã DT KHÓAT bỏ rồi (Hic...Có đâu mà giữ.....) và biết cầm cái cuốc cái xẻng, như vậy là tôi tiến bộ chưa từng thấy trên cõi đời này, cán bộ phải biểu dương tôi chứ, sao lại phê bình, chỉ trích tôi ?"..... Thế là một màn ra đứng trước trại nghe đọc lệnh nhốt Biệt giam.

Có một người bạn mới chuyển trại về, anh tặng tôi chiếc nón Beret đen, tôi thích quá, nhớ lại thuở xa xưa, thế là lúc nào tôi cũng đội lên đầu theo kiểu Quân đội mình, một lần vào buổi trưa nắng, cả trại đang ngồi chờ báo cáo quân số trước khi xuất trại thì tên cán bộ võ trang đang ngồi trước mt chỉ về phía tôi :"Anh kia, sửa cái mũ lại", tôi làm bộ không nghe, nó nhắc đi nhắc lại mấy lần tôi mới nói: "Cán bộ hỏi tôi hả ?" "Ừ, anh sửa cái mũ lại"..."Không được đâu cán bộ, cái KIỂU nó vậy rôi đâu có đổi được"...hai bên cứ cù nhầy mãi, tôi nhất định không nhượng bộ, thế là lại một màn đi "Mách Bu", kết quả nón mất + 21 ngày biệt giam.

Khi chuyển tới trại A.20 Xuân Phước, trong đó có LONG SỤN, BỬU, BÍNH, Tr.ẤN, HÙNG CHUỘT, biết rằng thi gian ở đây sẽ bắt đầu cam go, tôi tự nhủ tạm thời mai danh ẩn tích, khoan động đậy, mà sao ông Trời cứ "Chơi" tôi không, tòan "Tặng" tôi những món khó nhai. Đang ngồi nghe thuyết pháp trên hội trường thì tên cán bộ an ninh đến kêu tôi đi làm việc. Vừa ngồi xuống ghế là hắn đập bàn quát "Tối qua ai cho anh ra ngòai đi dán truyền đơn". Tôi đáp "Làm sao tôi có chìa khóa để mở cửa hả cán bộ" . Hắn gầm lên "Không cần biết, bây giờ anh có nhận không? Không nhận thì đi vào biệt giam". Còn cách nào khác đâu, vì đây là cơ hội khủng bố tinh thần, dằn mật những người còn lại, mình chỉ là vật hy sinh mà thôi.

SỤN cũng rơi vào trường hợp này, bởi vậy mới có huyền thoại "Long Bô “Thiên Thần MÓC.....LÒ”. Còn tôi ở phòng kế bên cũng " huy hòang" không kém, mùa đông vừa lạnh vừa mưa, trần nhà thì dột, quần áo khi vào chỉ có bộ đồ tù mỏng dính, nằm trên bục xi măng, cùm một chân, ngày 2 bữa ăn giống nhau với thực đơn (tiêu chuẩn muỗng cà phê) :

- 2 muỗng cơm trộn với khoai mì lát (lọai kỹ nghệ), chan đầy nước muối làm canh.
- 2 muỗng nước để uống.

Nước muối làm sao mà uống được, phải đổ đi, nuốt mấy miếng cơm để cầm hơi, nước uống chỉ liếm một cái đã hết veo, mùa lạnh nước thì ít mà Pi Pi thì nhiều thử hỏi còn gì trong ta, bù lại mình được "giải khuây" rất nhiều, mỗi ngày được xem cả chục cuốn phim đủ mọi loại, Cao bồi, Chiến tranh, Tình cảm, Kiếm hiệp... và "Được" ăn cả chục cái Buche de Noel đã thiệt là đã. Thú thật từ khi bước chân vào quân đội cho đến khi ra tù tôi chưa hề được hưởng một mùa Giáng Sinh và ngày Tết nào với gia đình cả, thành ra kỳ này phải ăn thật nhiều cho bõ ghét. Cuối cùng các chiến hữu phải cứu bồ nhau, hễ ai được kêu ra "Làm việc" là phải tìm cách ra giếng uống thật nhiều nước vào, cứ uống vào rồi đái ra, hết lít này tới lít khác cho đến khi cơ thể đã lọc hết chưa kịp ra mùi Ammoniac, khi trở về buồng giam, vừa đóng cửa lại là "Một.... bé con chui ra (Ha...Ha...) hằng hà cái lon ....đưa ra"...

Sau 47 ngày chúng thả tôi ra, bước đi siêu vẹo, nhìn thân thể tôi cảm thấy mình đúng là người Mẫu lý tưởng cho các lớp về Cơ thể học của Sinh viên Y khoa, giống y chang bộ xương cách trí.

Ra khỏi đây ông Trời còn "Đì" tiếp, ngăn tụi nó không cho tôi nhận đồ thăm nuôi, viết thơ cho gia đình.... Một thời gian dài sau chúng mới "xả cảng", tôi liền liên lạc với gia đình, nhận được tin, gia đình liền lo đi thăm nuôi, 4 anh em tôi đều là Quân nhân ở 4 trại khác nhau, người xa nhất ở ngòai Bắc, tội nghiệp cho gia đình phải lo cho 4 nơi, mỗi lần đi thăm Cha tôi phải mất 2, 3 ngày đường mới tới, gặp mặt Cụ, tim mình cảm thấy "nhói" nhưng phải cố nén xúc động không muốn cho tụi nó thấy và tự nhủ “thôi "Tu" đi đừng để Gia đình phải lo âu về mình”.

Thăm được một lần, đến lần kế tiếp, trước ngày thăm nuôi chúng tôi được thông báo tên những ai có gia đình lên thăm, tôi chuẩn bị sẵn sàng để hôm sau ra gặp Cha, nhưng rồi Trời cứ "bổn cũ sọan lại", sau một đêm ngủ thức dậy, đi vào nhà "Xí" thì thấy ngay một hàng chữ to tướng viết bằng than:| "LĂNG BÁC HỒ". Mọi việc được báo lên trên, tới giờ thăm nuôi tôi mang giỏ đựng đồ ra xếp hàng đợi kêu tên, sắp sửa ra cổng thì tên cán bộ an ninh trại chặn lại: "Anh Trung ở lại làm việc" linh tính báo cho biết "bad news" nhưng tình huống này đã quá quen rồi nên tôi không lộ vẻ gì bối rối hết, chỉ lo cho Cha già đang ở ngòai chờ đợi.

Khi vào phòng làm việc, hắn phủ đầu ngay: "Tối qua anh đã viết khẩu hiệu trong cầu tiêu". Tôi nói: "Tại sao cán bộ lại gán cho tôi điều này, hôm nay gia đình tôi lên thăm, bộ tôi ngu lắm hay sao mà lại đi làm chuyện đó"... "Tôi không cần biết, nếu không làm thì anh phải biết người nào làm, thành thật khai báo thì tôi sẽ cho anh ra gặp gia đình, còn không thì vào trong kia nằm". Quả tình tôi không biết ai làm chuyện đó, nhưng dù có biết tôi cũng không thể bán đứng các Chiến hữu của mình được, cho nên sau khi tôi nói không biết ai, hắn liền tống tôi vào biệt giam không cho thăm nuôi. Phải cố dằn lòng để chúng đừng làm điều gì tổn thương cho gia đình, tội nghiệp cho Cha Già lại phải xách giỏ thăm nuôi lủi thủi đi về, nghĩ tới điều đó chỉ biết gục đầu vào tường.

Một tuần lễ sau chúng kêu tôi ra: "Thời gian qua anh đã suy nghĩ kỹ chưa và có sẵn sàng khai báo không?" Bây giờ máu "Điên" tôi mới thực sự nổi lên: "Chả cần khai báo và cán bộ cũng khỏi cần hỏi làm chi cho mất thì giờ, báo cho cán bộ biết, kể từ giờ phút này tôi không còn là cải tạo viên nữa, mà tôi chỉ là Tù nhân chiến tranh mà thôi, cán bộ muốn làm gì thì làm”.

Thấy mình "Cương" lên rồi hắn bèn đấu dịu, đẩy xấp giấy và cây bút ra trước mặt : "Thôi bây giờ anh hãy viết bản kiểm điểm rồi đưa cho tôi". Tôi bắt đầu viết và viết tất cả những gì tôi đã tuyên bố, biết rằng bút sa gà chết, đời mình lại tiếp tục "khốn nạn" nhưng tôi bất cần, khi viết ra những điều mình muốn viết, thấy lòng mình cảm thấy nhẹ nhõm, bình thản, từ đây không phải nói chuyện với đầu gối nữa.

Thời gian nằm "Ấp" kỳ này trùng vào thời điểm Trương Ấn vượt ngục và bị bắt lại, nằm cách tôi 3 phòng, lúc này mùa khô, trời nóng, chàng khát quá không biết làm sao, đành "Tự biên tự diễn" , tự đái ra rồi uống lại, nằm bên này mà tôi nghe một tiếng "KHA...À...À..."to lớn, cảm tưởng như sau khi nốc 1 ly Cognac, tôi hỏi vọng sang "Đã không mày?" rồi nghe hắn thì thào "Mệ, khai quạ, khai quạ...." vì không chịu nổi mùi ammoniac.

Sau 57 ngày thấy không khai thác được gì chúng bèn thả tôi ra, trường hợp tôi đã thành "ngọai lệ" rồi, nên cứ 3 tờ lịch chúng lại gia hạn tiếp, riết tôi cũng chả còn bận tâm nữa, cứ sống nghêu ngao qua ngày, cho đến ngày chúng thả tôi về (cùng với Trương Ấn). Khi nghe đọc đến tên, vừa đứng dậy vừa lẩm bẩm: "Tui có tội gì đâu mà bắt tui dzìa".

Đấy là những "oan nghiệt" mà ông Trời đã tặng cho tôi, nhưng sau này tôi mới hiểu "thâm ý" của Ngài, Ngài mang đến cho tôi những thử thách để cho tôi luôn tập luyện cái cổ sao cho nó cứng, luôn hướng lên trên "Ngước mặt nhìn Giời" chứ không được cúi gằm mặt xuống mà lầm lủi đi. 

Con xin lỗi và đội ơn Trời...


    A20 Bùi Đạt Trung BĐ/NN K.25