23.8.11

Hoài Niệm


A20 Lê Phi Ô

(Trích đoạn một trong những câu chuyện thật xảy ra trong thời chinh chiến.)

……….

9 tháng quân trường,

12 năm chiến đấu,

7 năm trong trại tù “cải tạo” tập trung.


Sống và lớn lên trong lửa đạn, gian lao và tù đày... thời gian đã tạo cho tôi một hình hài già nua... cằn cỗi.


Bây giờ thì bạn bè mỗi đứa một phương, người tình rồi cũng bỏ tôi mà đi... Xen lẫn trong quá khứ kiêu hãnh là một hiện tại... trống vắng, cô đơn và nhiều... nuối tiếc !


Có nhân...! Cố nhân... xa rồi ! Biết đến bao giờ ta gặp lại cố nhân để được sống lại những lúc huy hoàng trong sắc mùa chinh chiến cũ...!!!


“Người ta đi lính mang lon,

Chồng em đi lính mang xoong mang nồi!”


Hạ Sĩ I Thí, hỏa đầu quân, cùng binh nhì Long đang khiêng cái chảo gang to tổ bố lên gần tới đỉnh đồi... bỗng ông nghiêng vai hất cái đòn gánh làm cái chảo vừa to vừa nặng rơi xuống đất nghe một cái... “bịch” và B2 Long khiêng phía đàng trước suýt té ngửa theo cái chảo. Hạ Sĩ I Thí chửi thề: “Tiên sư cha thằng nào mới nói đó?” rồi ông quắc mắt nhìn chầm chập vào mặt B1 Niên đang đi gần đó.


Ông chửi tiếp: “Mẹ... mày, mày mang chỉ mỗi cái ba-lô. Ngoài cái ba-lô, tao còn mang ruột tượng gạo và khiêng cái chảo nữa... Mệt thấy mẹ, mày không khiêng phụ... còn móc lò nữa hả thằng khốn kiếp?! ... Lát nữa, tao đéo nấu cơm, cho tụi mày đói thấy mẹ tụi mày luôn!” Chửi xong, ông vất cái ba-lô đang mang xuống đất thật mạnh làm cái xoong cột trên ba-lô méo một bên.


B1 Niên nín khe. Nó không ngờ câu nói đùa đã khiến Hạ Sĩ I thí nổi cơn điên như vậy! Mà không điên sao được. Từ sáng đến giờ, Hạ Sĩ I Thí lu-bu với các vật dụng nhà bếp không có cả thì giờ ăn sáng, bụng đói còn phải khiêng cái chảo to nặng lên đồi cho kịp nấu cơm trưa cho cả đại đội... ăn. Mặc dù đã đổi phiên cho hai anh hỏa đầu quân khác khiên chảo rồi, nhưng vì... HS1 Thí lớn tuổi, người lại gầy nhom ốm yếu và lại còn leo đồi giữa trưa nắng cho nên ông mệt muốn... đứt hơi mà lại còn bị cái “thằng khốn nạn” chọc quê, không tức sao được

!


Tối hôm đó, thằng Niên mon men lại gần HS1 Thí, ông Thí trừng mắt ngó nó như muốn đổ lửa. Thằng Niên ấp úng: “Bố, hồi trưa...” HS1 Thí giận dữ: “Bố cái con c..., ai cho mày gọi tao là bố. Mày mà còn giở trò chọc ghẹo nữa, tao phang cho cái xẻng chết mẹ bây giờ!” Thằng Niên thành khẩn: “Hồi trưa con lỡ nói chơi khiến bố giận, con xin bố tha lỗi cho con !” Nó ấp úng tiếp: “Bố đừng buồn con... nha bố !”


Vẻ mặt thằng Niên thành khẩn đến độ thiểu não. HS1 Thí có vẻ nguôi giận, ông nín thinh một hồi rồi đột nhiên ông thấy tủi thân, ông... khóc. Thằng Niên hoảng hốt, nó ôm chầm hai vai HS1 Thí và nó cũng khóc!


Lỗi này là do nơi ông đại đội trưởng. Mới đổi về, ông có ý tốt, chọn những người ốm yếu, lớn tuổi, và nhất là HS1 Thí cũng sắp giải ngũ vì lý do gia cảnh nên ông cho họ ở ban hỏa đầu vụ để đỡ phải hành quân, phục kích đêm... Có lẽ ông nghĩ công việc này nhàn hạ, chỉ ngày hai buổi đi chợ nấu cơm, mà đâu dè cũng là gánh nặng mà ông không biết.


Người ta nói “quả báo nhỡn tiền” đôi khi cũng đúng. Ðơn vị tôi đột kích vào mật khu Việt Cộng. Bọn du kích bỏ chạy, chúng tôi tịch thâu được vài khẩu Carbine, súng Mas. 36, 3 bao gạo, vài chục ký cá khô và cá hộp, v.v... B1 Niên tịch thu được một cái thau nhôm thật lớn, định bụng sẽ tặng ban hỏa đầu vụ, có lẽ tặng HS1 Thí thì đúng hơn.


Nó ôm cái thau trước bụng. Khi di chuyển người đi trước chạm vào nhánh cây thấp và nhánh cây bật ngược đập vào cái thau nghe leng keng. Trung đội trưởng bảo nó úp cái thau vào phía sau đít mà đi, tránh gây tiếng động kẻo bọn Việt Cộng sẽ nghe thấy. Lúc leo dốc, không hiểu B1 Niên trợt chân thế nào mà lại té ngồi lên cái thau... và cứ thế, cái thau như một vật trượt tuyết chở nó lao xuống đồi thật nhanh, va vào hết cây này đến cây kia, các nhánh cây thì quất vào thau, vào người nó tơi tả. Mọi người cố chạy theo cứu nó nhưng không kịp. May sao, một bụi gai tre chận nó lại... cái thau thì móp méo và thủng cả đáy, đít thằng Niên bị trầy trụa rướm máu, còn cái mỏ nó thì bị so le vì bị cây đập vào môi trên sưng vù. Nếu không có bụi gai tre cản lại có lẽ cái thau đã lôi tuột nó xuống đường thông thủy đầy đá lởm chởm thì chỉ có chết hoặc ít ra cũng gãy tay gãy chân. Mọi người vừa thương hại vừa tức cười. Thật đáng đời cái thằng hay nghịch ngợm, hay chọc phá người này đến người nọ. Một người nói: “Ðúng là người gian mắc nạn!”


Chưa hết...


Cạnh đồn có nhà ông Năm Giáp. Ông có hai đứa con trai lớn đều đi lính ở xa, ở nhà chỉ còn hai vợ chồng già và cô con gái út. Cô Thơm vừa tròn 17 tuổi trông rất... mát mắt. Mấy ông lính nhà ta, nhất là... mấy ông nhóc quân dịch tuổi chừng 19, 20 thường lân la đến nhà cô Thơm thăm... hai bác !


Thằng Long là một trong đám lính đó. Nó “lết bánh” vì cô Thơm. Ngày nào không ghé qua nhà ông Năm Giáp là ngày đó nó thẫn thờ như người mất hồn. Nó thường khoe với bạn là nó thương cô Thơm lắm, thương cũng bằng thương má nó ở nhà và cô Thơm cũng thương... nó nữa! Bất cứ một tân binh nào mới đổi về nó cũng rủ ra nhà cô Thơm... thăm ông bà Năm.


Một hôm, nó vừa bước ra sau vườn thì thấy cô Thơm đang hái me, vừa nhảy cao vừa lấy cây đập nhưng cô Thơm vẫn không làm sao hái được me. Thấy thế, thằng Long nhào tới giúp liền. Nó ấp úng: “Thơm để đó, tôi... hái ‘giùm’ cho” và nó nhanh nhẹn cởi giày, cởi quần trận ra, leo một thoáng là đã ngồi trên cháng ba của cây me.


Nó đứng trên một nhánh lớn, tay trái vịn vào một nhánh khác, tay phải với tìm những trái me “giốt,” loại me gần chín, hái lia lịa và liệng xuống cho cô Thơm lượm.


Nhưng... khi nhìn xuống thì không thấy cô Thơm đâu cả! Nó hỏi thằng bạn đứng dưới gốc: “Ê, Xuân! Thơm đâu rồi?” Thằng Xuân trả lời: “Ði rồi!” Thằng Long ngạc nhiên: “Ủa! Ði đâu vậy ?” Thằng Xuân ái ngại: “Tao không biết, nhưng chắc đi luôn rồi. Thôi... xuống đi.”


Nghe Xuân nói vậy, Long vội tuột xuống, mắt nhìn dáo dác: “Sao bỏ đi đâu vậy ?” Thằng Xuân thấy tội nghiệp bạn mình: “Gặp tao, tao cũng đi nữa là... cô Thơm.” Thằng Long chưa hiểu, lẩm bẩm: “Sao bỏ đi vậy cà!?” Giọng thằng Xuân trở nên gắt gỏng: “Mầy là cái thằng cà chớn! Leo cao hái me mà lại mặc quần xà lỏn, cái quần... rộng rinh. Cô Thơm đứng dưới nhìn lên thấy mẹ nó... hết rồi !” Thằng Long lại vẫn chưa hiểu: “Thấy cái gì?” Tức quá, Xuân nói như gây lộn: “Thấy trái me... của mầy chứ thấy gì!” Lúc nầy, thằng Long mới hiểu, nó sượng chín người, mặt đỏ bừng lên nhưng cặp mắt thì như đứng tròng. Nó lúng ta lúng túng trông thật tội nghiệp, rồi bất thần nó nhắm hướng đồn đi nhanh như chạy, làm thằng Xuân chạy theo muốn hụt hơi.


Từ đó, cô Thơm tránh mặt nó. Mỗi lần đi chợ, ngang qua cổng đồn thì cô Thơm đi vòng ra sau dãy nhà đối diện đồn để khỏi đụng mặt thằng Long. Và thằng Long thì không dám đến nhà ông Năm Giáp nữa... Mỗi khi bất chợt thấy bóng dáng một người con gái xa xa là nó vội tránh mặt liền vì sợ phải gặp mặt cô Thơm. Cũng từ đó, suốt ngày nó lẩn quẩn trong sân đồn, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn về hướng nhà cô Thơm, buông những tràng thở dài nghe mà đứt... ruột. Và cũng từ đó, hai người xa nhau, xa nhau chỉ vì một lý do... thật lãng nhách!


Rồi...


Ðơn vị tôi di chuyển vào trong rừng để truy lùng một đơn vị địch quân cấp tiểu đoàn mà cách đây hai ngày chúng đã phục kích quân ta tại khu vực cầu Lăng Quăng, ranh giới của xã Võ Xu, Hoài Ðức, và xã Duy Cần thuộc quân Tánh Linh, Bình Tuy, gây thiệt hại trung bình cho ta, trong đó có hai sĩ quan bị tử thương là Ðại Úy Hiếu, Chi Khu Phó CK Tánh Linh, và Ðại Úy Khải, Ðại Ðội Trưởng ÐÐ.720/ ÐPQ.


Khoảng 9 giờ sáng, đang di chuyển thì bỗng nhiên cánh quân phía trước khựng lại, tôi chụp ống liên hợp từ tay âm thoại viên hỏi cánh quân đi đầu: “Một... Trung Hiếu... gọi.” (Im lặng vô tuyến). Tôi gọi tiếp... cũng không nghe tiếng trả lời. Tôi lại gọi với giọng gắt gỏng: “Trung Hiếu gọi Một nghe rõ không, nói đi.” Vẫn im lặng, tôi điên tiết... phóng vội lên phía trước định đập anh âm thoại viên Trung Ðội 1 một trận, vì đối với đơn vị tác chiến nhất là đang di chuyển trong vùng có địch thì sự liên lạc vô cùng quan trọng, gọi chưa dứt lời là phải có sự đáp trả tức khắc.


Vừa được mấy bước thì thấy vài anh lính chạy ngược lại, mặt mày hơ hãi... Tôi ngạc nhiên! Lại một tốp lính nữa chạy ngược về phía sau và mặt mày người nào cũng có vẻ hốt hoảng, tôi quát khẽ: “Ðứng lại, cái gì đó?” Họ không trả lời mà còn chạy nhanh hơn. Thật là quái đản !? Tôi chưa kịp hỏi tại sao thì cả đám lính phía trước ùa chạy ngược lại phía sau... mặt họ trông càng khiếp đảm hơn! Lập tức, tôi cho dàn đội hình tác chiến.


Chuẩn Úy Minh, Trung Ðội Trưởng Trung Ðội 1, đi đầu, tay ôm mặt, tay vịn nón sắt chạy vụt qua mặt tôi ngược chiều. Tôi vói tay chụp cái ba-lô kéo giựt Chuẩn Úy Minh lại và nói như thét: “Ðứng lại! Tại sao chạy ?” Chuẩn Úy Minh không nói mà lại đưa một ngón tay chỉ về phía sau lưng hướng lên trời và lại bỏ chạy thật nhanh.


Tôi quá đỗi kinh ngạc! Cái gì làm cho họ sợ đến như vậy?! Nếu gặp Việt Cộng thì họ nổ súng, đàng này... hoàn toàn không có một tiếng súng nào cả! Hay họ gặp thú dữ? Ðiều này cũng không đúng vì rừng này làm gì có cọp beo, chỉ có voi thôi. Nhưng lính tráng súng ống đầy trời như vậy thì cả trăm con voi đi nữa cũng đâu có thể làm họ sợ đến như vậy!? Hay là họ gặp... ma? hoặc gặp... quỷ gì đó?! Nhưng quỷ ma thì chỉ sợ lính chứ lính làm gì sợ ma quỷ!!! Và cứ thế, cả đoàn quân âm thầm bỏ chạy gần hết. Phía trước tôi... bỏ chạy, phía sau tôi... bỏ chạy, chính giữa... ngay cả anh truyền tin mang máy cho tôi cũng... bỏ chạy! Tôi bắt đầu rúng động bởi hiện tượng kỳ quái này mà chỉ có trong sách kiếm hiệp của Kim Dung may ra mới có... Thì, một cái gì, một vật gì thì đúng hơn, nhỏ cỡ ngón tay,... Không phải một mà... là hai, rồi ... ba, chạm mạnh vào má, vào trán tôi đau đến nhảy dựng lên và nước mắt, nước mũi tôi túa ra... Tôi chợt hiểu và bây giờ thì tới phiên tôi... bỏ chạy!!!


Thì ra thằng ôn dịch nào đi đầu... không biết mắt mũi để ở đâu mà nó lại lủi nhằm phải ổ ong vò-vẽ. Lũ ong giật mình hốt hoảng bay túa ra và khi nhận diện được... kẻ thù, bọn chúng xông vào tấn công tới tấp. Khổ nỗi là cánh quân của tôi lại quàng khăn đỏ. Trong rừng, màu đỏ tương phản với màu xanh của cây lá nên bọn ong thấy rất rõ “kẻ thù” nên tấn công rất chính xác. Chạy tới đâu, bọn chúng rượt theo tới đó. Có người bị chích rồi... con khác lại bu vào chích tiếp... quyết không tha.


Ðang chạy trối chết thì có ai đó la lớn: “Liệng trái khói... Liệng trái khói!” thế là đủ các màu vàng, đỏ, tím,... tuông ra mù mịt... Lính tráng lớp bị ong chích, lớp bị hít phải khói màu ho sặc sụa, rên hù hù, trong đó có tôi! Nhưng tất cả phải gồng mình ráng chịu... vì ra khỏi vùng có khói thì sợ ong chích. Khói màu làm lũ ong sợ hãi, chúng không dám đáp xuống tấn công nữa mà lại bay tít tận ngọn cây, quầng qua quầng lại cả ngàn con trông thấy phát ớn lạnh. Tôi từng xem phim The Longest Day... cảnh máy bay đồng minh tấn công quân Ðức tại mặt trận Normandi nhưng vẫn còn thua xa đám máy bay... ong này.


Chưa hết! Trong khi anh em liệng khói màu để cản bầy ong thì... một ông tân binh đứng cạnh tôi hoảng hốt, đưa tay lôi trái lựu đạn đeo nơi dây ba-chạc phía trước ngực định rút chốt, may mà tôi nhìn thấy và ngăn cản kịp lúc nếu không thì... chắc chết cả đám. Vì, thấy người ta liệng khói màu, ổng cũng tưởng là ổng có... khói màu!


Coi như cuộc hành quân... thất bại! Cánh quân trên trăm người chạy tán loạn trong rừng và lạc nhau gần hết. Tới 4 giờ chiều tối chỉ gom lại được phân nửa. (Ong vò-vẽ thường làm ổ ở các lùm bụi thấp chứ không làm trên cao như loại ong mật.)


Ðịnh bắn súng gọi những người đi lạc nhưng lại sợ lộ mục tiêu cuộc hành quân nên tôi gọi pháo binh xin bắn đạn khói. Ðài tác xạ gọi tôi xin cho tọa độ, tôi bảo: “Bắn đâu cũng được... không cần tọa độ !” Họ tưởng tôi điên nên không chịu bắn. Tôi gọi tiếp, họ trả lời là... Họ chưa bao giờ gặp một đơn vị hành quân nào xin bắn pháo binh mà không cho biết... tọa độ! Nghe họ nói, tôi hơi bị “quê” một phút, và tôi bắt đầu giải thích... Văng vẳng trong máy, nhiều chuỗi cười rộ làm tôi thấy “quê” thêm. Thực ra, tôi chỉ muốn anh em chạy lạc trong rừng họ nghe được tiếng súng đại bác 105 ly depart họ sẽ biết hướng chi khu nằm ở đâu để họ tìm đường về. Thế thôi.


Người tôi mệt lả vì cả ngày chẳng có hột cơm vì còn phải lo chạy giặc... ong, phần bị ong chích bắt đầu lên cơn sốt. Loại ong này độ 20 con thôi... chích vào một con trâu thì trâu cũng chết huống chi là con người. Cả đoàn quân khi ra đi thì... Trời nghiêng Ðất lở... bây giờ thì chỉ còn lại một đám bại xụi, đứa thì rên, đứa thì khóc hu... hu vì đau nhức quá không chịu nổi !


Ðêm đó, bệnh viện Quân Dân Y đầy ắp người. Cả hàng trăm người tụ tập ở đó, vừa lính... “bại trận,” vừa thân nhân của họ. Có điều khác lạ là thân nhân không khóc, không kể lể rên rỉ như những lần lính được tải thương từ mặt trận, mà lần này... lính càng rên thì thân nhân, cười rất... vui vẻ, cười rất sảng khoái. Kiểm điểm lại, có bảy ông “bại binh” phải chở vào Tổng Y Viện Cộng Hòa, hơn 20 chục ông phải nằm lại bệnh viện Quân Y để điều trị tiếp, còn lại bao nhiêu trở về hậu cứ để cho y-tá tiểu đoàn chăm sóc.


* * *


Ðã 32 năm trôi qua... kể từ tháng 4-1975 mà nỗi đau thương, bất hạnh đã đổ chụp xuống đất nước và trên đầu dân tộc chúng ta. Cho dù có còn kéo dài bao lâu đi nữa... tôi vẫn không bao giờ quên được những năm tháng tuổi trẻ trong đời, những tháng năm mà tôi đã sống cho lý tưởng, cho tình yêu và cho những nồng ấm trong tình chiến hữu, cho đời lính buồn nhiều hơn vui và đầy bất trắc.


Mỗi tháng 4 về là thời gian làm cho hoài niệm trong tôi bùng lên mãnh liệt nhất. Tôi nhớ bạn bè tôi, tôi nhớ đồng đội tôi, và tôi cũng thấy nhớ chiến trường xưa loang lửa đạn. Những chuyện tôi kể trong bài này là những đặc điểm của từng người làm tôi không bao giờ quên họ được. Ðã 32 năm rồi, đây là lần đầu tiên tôi mới kể ra, kể ra để san sẻ, để vơi bớt trĩu nặng tâm tư và cũng để... biết đâu, tôi sẽ không còn dịp để kể.


Tôi không muốn kể những chuyện vui nhất là trong Tháng Tư Ðen, đối với tôi đây là những chuyện buồn... Vì những người tôi vừa đề cập đến... họ đã không còn nữa! Họ đã ra đi vĩnh viễn vào một thế giới nào xa xăm khác với thế giới chúng ta đang sống, và... tất cả những người này đã gục ngã vì đạn thù trên bước đường lui binh trong trận chiến Võ Ðắc tháng 3 năm 1975 !


Lê-Phi-Ô

Cựu tiểu-đoàn-trưởng TĐ344/ĐP Bình-Tuy


19.8.11

CUỒNG SĨ BÊN SÔNG


Đọc Thủy Hử
Khoái những anh hùng Lương Sơn Bạc
Cung kiếm nát nhầu
Người kẻ chợ lêu bêu
Gã lớn lên
Giữa phố đời bát nháo
Giữa hận thù đốt cháy tuổi trai tân
Một đời gã
Ai chân tình ai tri kỷ
Lắm mồm đen bạc
Chữ nghĩa đa đoan
Đốt rẫy khai hoang
Lau sậy khói mù ngút bãi
Gã chim trời lượn bậy
Kiếm tai ương lên trang chữ nhập nhòe
Một ngày lửa cháy tiêu tháp bút
Gã thấy tim người nhúm cỏ hoang
Trong chính trị thiếu gì tay lừa đảo
Yêu quê hương lòe lọet trăng hoa
Có nhiều đêm gã say mèm cuộc rượu
Nhìn mặt nhau rách nát mà buồn
Thanh kiếm cùn gãy mẹ cán chuôi
Nếu mai kia làm tên lái kiếm
Xoay nhẹ đường gươm tặng bọn bất nhân

CÁI TRỌNG TY




(nguồn: http://caitrongty.wordpress.com/)

18.8.11

Đọc “Lối Cũ Chẳng Sao Quên” của Bích Huyền



A20 Vũ Ánh

Những đoản khúc của người góa phụ can đảm này được cất lên cùng với tiếng thở dài và những dòng nước mắt lặng lẽ trong những đêm thanh vắng, của những ngày tháng cũ, và của cả những ngày tháng hiện tại. Tôi đã nghe những đoản khúc nhẹ nhàng ấy nhiều lần trên làn sóng phát thanh của Đài Văn Nghệ Truyền Thanh và sau này trên các luồng sóng của một vài đài phát thanh khác. Nhưng khi đọc lại Lối Cũ Chẳng Sao Quên của Bích Huyền mới thấy trọn vẹn được bối cảnh những tùy bút mà bà mô tả.

Một điều dễ hiểu: tôi, chúng tôi, cũng như chồng bà đã trải qua, đã sống trong những bối cảnh ấy.

Bởi vậy, những ngôn ngữ mà bà sử dụng trong mẩu ký ức nhẹ nhàng về cả một quãng đời đau khổ của bà chính là một nỗi dằn vặt đối với chúng tôi. Vâng, tại sao chúng tôi lại không giữ nổi một mảnh đất đáng giữ như vậy, để cho sau khi đã hòa bình rồi còn có những người trở thành goá phụ? Không những thế, biến cố và những biển dâu mà chúng tôi góp phần tạo nên, nó đã biến những người phụ nữ như Bích Huyền, cũng như hàng triệu phụ nữ Việt Nam khác phải nối thêm cuộc đời bằng một đoạn đường long đong, cay đắng.

17.8.11

TỬ THỦ




(TIỂU-ĐOÀN 344/ ĐỊA PHƯƠNG và TRẬN ĐÁNH TẠI VÕ-ĐẮC THÁNG 12/1974)



A20 Lê Phi Ô và Trang Hồi ký máu 33 ngày tử thủ



Tin tức từ phòng nhì Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH cho biết: Bắt đầu tháng 11 đến tháng 12/1974 Việt-cộng (VC) sẽ tấn công Tỉnh Phước-Long dồng thời tấn công 2 Quận Hoài-Đức (Võ-Đắc) và Tánh-Linh thuộc Tỉnh Bình-Tuy để cầm chân một số lớn đơn vị của ta để dể bề chiếm Phước-Long.
    Quận (Chi-Khu) Hoài-Đức và Tánh-Linh là 2 Quận cực bắc của Tỉnh Bình-Tuy... phiá bắc giáp Quận Định-Quán thuộc Long-Khánh và Bà-Sa thuộc Lâm-Đồng.

I/ BẠN: Lực lượng phòng thủ Chi-khu Hoài-Đức gồm có :
     - Bộ chỉ huy Chi-khu (Thiếu-tá Xinh là Chi-khu trưởng)
     - 3 đại-đội của Tiểu-đoàn 344/ĐP: ĐĐ/Chỉ-Huy, ĐĐ3/344,  
       ĐĐ4/344 do Đại-Úy Lê Phi Ô trực tiếp chỉ huy.
- Đại-đội 513/Trinh-Sát/ 4 Trung-đội Nghĩa-Quân/ Trung-
   đội Pháo-Binh 105 ly/ Phân-đội Commando Car V-100
   (2 chiếc)

    Ngoài ra Chi-khu Hoài-Đức được tăng cường Liên-đoàn 7 Biệt-động-Quân hoạt động khu vực Gia-Huynh nằm trên Tỉnh lộ 333 về phía nam và cách Hoài-Đức 10 km đường chim bay. Hai đại-đội 1/344 và 2/344 còn lại của Tiểu-đoàn 344/ĐP được đặt dưới quyền điều động của LĐ7/BĐQ.

II/ ĐỊCH: Lực lượng của Quân-khu 7 Việt-cộng gồm có:
     - Sư-đoàn 7 Tân Lập ( gồm có: Trung-đoàn 274, Tr/đoàn 33,
       Tr/đoàn 6, Tr/đoàn Pháo mặt đất và cao xạ, 4 Tiểu-đoàn Đặc-
       công 18, 19, 20 và 200C )*
     - Trung-đoàn 812 Sông Mao thuộc Quân-khu 6 VC tăng
        cường*
- Trung-đoàn E211 địa phương  (* Lực lượng VC gần 2 Sư-
   đoàn, tham khảo tài liệu của Dr. Nguyễn-Đức-Phương tác  
   giả "Chiến tranh Việt-Nam toàn tập")

III/ DIỄN TIẾN: Đầu tháng 12/1974 Việt-công bắt đầu pháo kích CK Hoài-Đức bằng hỏa tiển 107 ly. Đến đêm 9/12/74 đặc công VC đồng loạt tấn công CK Tánh-Linh và CK Hoài-Đức. Tại Tánh-Linh, đồi Lồ-Ồ nơi đặt 2 khẩu đại bác 105 ly bị VC chiếm. Tại Hoài-Đức, Tiểu-đoàn 344/ĐP do Lê Phi Ô chỉ huy đã đánh bật VC ra khỏi vòng đai CK... quân ta thiệt hại không đáng kể.

    Với quân số đông hơn ta gấp 20 lần.... VC siết vòng vây và tiếp tục pháo kích CK Hoài-Đức, cường độ pháo mỗi ngày một tăng gây thương vong đáng kể cho ta. Đêm Giáng-Sinh 25/12/74 CK Tánh-Linh thất thủ (VC bắt sống Thiếu-tá Hoàng Tiểu-đoàn trưởng Tiểu-đoàn 335/ĐP và Thiếu-tá Pilot trực thăng Trịnh-Minh-Nhật khi chiếc này bị VC bắn rơi). Tại mặt trận Hoài-Đức VC dùng chiến thuật biển người mong tràn ngập lực lượng phòng thủ nhưng đều bị TĐ 344/ĐP đẩy lùi.

Tình hình mỗi ngày một nguy ngập... thương vong phía ta mỗi ngày một cao. Pháo binh hết đạn, không có phi cơ yểm trợ vì phải ưu tiên cho mặt trận Phước-Long ... thì được tin LĐ7/BĐQ triệt thoái để nhận nhiệm vụ khác quan trọng hơn (LĐ7/BĐQ cũng bị VC tấn công thiệt hại trung bình), tin nầy gây hoang mang cho quân phòng thủ không ít.

    Hai đại-đội 1/344 và 2/344 của Lê Phi Ô tăng phái cho LĐ7/BĐQ phải tìm cách vượt vòng vây của VC để trở về phòng thủ cứ điểm cuối cùng là CK Hoài-Đức. Đồi Bảo-Đại cách CK Hoài-Đức về hướng bắc 2 km đã bị VC đánh chiếm ngày hôm trước, nơi đây là cao điểm duy nhất, là một đài quan sát tốt nhất để VC nhìn thấy rỏ mọi hoạt động của quân ta... Nên bằng mọi giá phải chiếm lại.
    Hai đại-đội 1/344 và 2/344 đã về được bên ngoài vòng rào CK, quân số của mỗi đại-đội chỉ còn phân nửa. Lê Phi Ô được lệnh chỉ huy 2 đại-đội này tái chiếm lại đồi Bảo-Đại và đẩy lùi VC ra khỏi khu vực chợ cách CK 300 mét về hướng Đông. Lê Phi Ô lịnh cho đại-đội 1/344 của Đại-Úy Trương Kiêm tái chiếm lại khu chợ còn đích thân Lê Phi Ô cùng Bộ chỉ huy nhẹ Tiểu-đoàn và đại-đội 2/344 tái chiếm đồi Bảo-Đại. Đại-đội của Trương Kiêm đánh bật VC ra khỏi khu chợ và truy kích địch thêm 500 mét thì bị khựng lại vì VC quá đông... ngay đêm đó VC phản công và đại-đội của Trương Kiêm tan hàng và mất hẳn liên lạc từ đó. Về phía cánh quân của Lê Phi Ô, sau một đêm phá chốt, đánh cận chiến và dùng đại bác 57 ly đánh sập các hầm hố kiên cố của VC... đến trưa hôm sau đã chiếm lại được đồi Bảo-Đại.

    Qua một đêm tạm yên.... một sự yên lặng ghê rợn, đêm kế tiếp VC tập trung khoảng 2 đại-đội mong chiếm lại đồi từ tay quân ta. Sau khi pháo phủ đầu... VC từ 3 hướng tiến lên đồi.  Đại-đội 2/344 chống trả quyết liệt, đốn ngã từng đợt xung phong của địch... nhưng không thể cầm cự được lâu. May mắn làm sao…! LĐ7/BĐQ chưa hoàn toàn triệt thoái hẳn, vẫn còn pháo đội Pháo binh 105 ly  của pháo-đội Trưởng Nguyễn-Hữu-Nhân (Nhân là anh vợ của Lê Phi Ô) . Nghe tiếng Lê phi Ô kêu cứu... Nhân vội vã quay súng bắn yểm trợ nhiều trăm quả đạn đại bác lên đồi Bảo-Đại, vì là đồi trọc nên bọn VC lãnh... đủ, thiệt hại nặng. Thừa lúc bọn VC xiểng niểng... Lê phi Ô cùng quân sĩ rời hố chiến đấu đánh cận chiến với địch . Bọn VC bỏ chạy xuống đồi quên mang theo vũ khí và xác của đồng bọn.

    Để tránh bị tiêu diệt, Lê Phi Ô được lệnh bỏ đồi. Lại một màn mở đường máu để trở về... khi đi quân số đại-đội 2/344 là 60 người bây giờ còn lại 26 người. Khi về đến CK, đại đội này được lệnh bảo vệ bệnh viện và bãi đáp trực thăng trước mặt CK 100 mét.

Đại-đội 513/ Trinh sát giữ vành đai của Chi khu về phía nam và cách CK 1000 mét... chịu không nổi áp lực địch đông gấp 10 lần phải lùi về bến xe cách CK 200 mét. Ngày hôm sau đại-đội này phải lùi về khu nhà Thờ cách CK 100 mét. Trưa hôm đó Trung-Úy Đường đại-đội trưởng 513/Trinh Sát bị tử thương và đại đội này tan hàng sau đó.

    LĐ7/BĐQ hoàn toàn rút lui, CK Hoài-Đức giờ đây chỉ còn đơn độc Tiểu đoàn 344/ĐP của Lê Phi Ô với quân số còn lại hơn 200 người so với quân số VC từ 8 đến 12 ngàn người. Quân trú phòng không có tiếp tế, không có tải thương, đạn được gần hết . Pháo binh hết đạn, không có tiếp viện, không có máy bay yểm trợ vì cần phải ưu tiên cho mặt trận Phước-Long... Lại thêm 2 sĩ-quan nữa tử thương (Đại-Úy Khương và Trung-Úy Hoàng). Lê Phi Ô cho tu sửa cấp thời các vị trí chiến đấu còn xử dụng được và ra lịnh tất cả sĩ-quan rời bỏ vị trí chỉ huy ra tuyến ngoài cùng anh em binh sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng...!

    Bọn VC lại dở trò cũ "Tiền pháo hậu xung"... Bọn chúng hò hét man rợ, từng đợt từng đợt người như những con thiêu thân lao vào ánh đèn  ban ngày cũng như ban đêm. Từng tràng đại liên .30 của ta trên pháo tháp cũng như .50 của Commando Car V-100 đẩy chúng bật ngược trở ra.... chúng lại tiếp tục xông vào, chiến trường ngập máu và đầy xác chết của cả hai bên …!

    Trong giờ phút hấp hối của quân trú phòng... Trong máy truyền tin vang lên giọng nói lạ... đó là tiếng nói của Thiếu-Úy Nguyễn-Phát-Tài, sĩ-quan tiền sát pháo binh của Sư-đoàn 18 Bộ binh. Vị sĩ-quan nầy yêu cầu đơn vị tử thủ cho tọa độ chính xác của ta và địch để pháo binh tác xạ yểm trợ. Sau vài phút trao đổi... hàng ngàn, mhiều ngàn quả đạn 105 ly, 155 ly  của 3 tiểu-đoàn pháo binh thuộc Sư-đoàn 18BB trút xuống đầu bọn VC... Đồng thời tưng đợt, từng đợt máy bay phản lực oanh tạc gầm rú trên đầu trút từng đợt bom lên đầu giặc... biến Võ-Đắc thành biển lửa thiêu rụi bọn Việt-cộng.
   
    Thì ra, sau khi LĐ7/BĐQ rút lui... Thiếu-Tướng Lê-Minh-Đảo đã đưa Sư-đoàn 18BB của ông giải cứu CK Hoài-Đức. Ông xử dụng Trung-doàn 52BB đánh địch từ phía Nam lên. Trung-đoàn 43BB đánh từ phía Bắc xuống mà mũi nhọn "Nỗ lực chính" là Tiểu-đoàn 2/43 của Thiếu-tá Nguyễn-Hữu-Chế (sĩ-quan giỏi nhất và Tiểu-đoàn thiện chiến nhất của SĐ18BB). Đồng thời xử dụng oanh tạc cơ từ 3 phi trường Phan-Rang, Biên-Hòa và Bình-Thủy (Cần-Thơ). Bọn VC đang thắng thế bỗng nhiên một trận bão lửa khủng khiếp dội lên đầu bọn chúng, SĐ18BB như hai gọng kềm kẹp chặt bọn chúng vào giữa làm mồi cho pháo binh và phi cơ  trong tiếng reo hò mừng rỡ của quân trú phòng. Võ-Đắc hoàn toàn được giải tỏa trưa ngày 5/1/1975.

    Từ những gương mặt sạm đen vì khói súng của những người lính tử thủ.... những giọt nước mắt sung sướng lăn dài trên hai gò má rồi lăn xuống chiến bào đã khô cứng vì thuốc súng, cát đất và máu của đồng đội...! Võ-Đắc đã hồi sinh sau 33 ngày đắm chìm trong địa ngục. 
   
Viết để kính dâng lên hương hồn đồng đội tôi, Những người đã chết để người khác được sống...!
LÊ-PHI-Ô  Tiểu-đoàn-trưởng TĐ344/ĐP - Bình-Tuy 
Florida  5/2011


16.8.11

TIẾNG GỌI VIỆT-NAM !



A20 Lê Phi Ô

Mười hai năm lính, bảy năm tù
Hai mươi mốt năm một cuộc bể dâu
Tánh Linh - Hoài Đức rừng Xuân Phước
Lính trận - tù binh bạc mái đầu

Biển Lạc - Núi Ông - cầu Nín Thở
Quân đi quét sạch lũ cuồng điên
Ngờ đâu chớp mắt tinh cầu vỡ
Quỉ lộng hồn oan dậy bốn miền
Long Giao - Suối máu tù trơ xương
Mìn gỡ phanh thây máu đỏ đường
Chiếu rách xác gom vùi gió cát
Mồ chôn vô chủ lạnh khói hương

Vợ bỏ con thơ theo cán bộ
Đồng tiền đánh đổi cả nhục vinh
Hỡi ơi, canh bạc đời... đen đỏ
Mỹ nhân hề... chén rượu tàn canh

Mẹ già ôm áo trận thương con
Hương lính còn vương trận Động Đền
Mù mắt chờ con, con biền biệt
Con về khóc mẹ mộ không tên

Long Hải - Long Điền phu gánh cá
Nặng đôi vai gánh cả giang sơn
Đội cá... mơ... Nữ Oa đội đá
Vá trời... thẹn mặt với non sông

Bao giờ gặp lại cố nhân ơi
Lạc Tánh - Bình Tuy vắng khách mời
La Gi - Võ Đắc - đồi Bảo Đại
Ru thầm tiếng gọi Việt Nam ơi !!

Lê Phi Ô
15/8/2011


28.7.11

Mưa Trên Ngục Tù

Mưa Trên Ngục Tù

Bài nhạc từng được các cựu A20 hát vang trong trại tù
Quán lá xin đăng tải trọn vẹn bài nhạc với sự cho phép cuả
A20 Nguyễn Hưng Đạo
Để nhắc một thời gào thét trên gông cùm ở Trại Trừng Giơí



24.7.11

SAU LƯNG CUỘC XUNG ĐỘT



SAU LƯNG CUỘC XUNG ĐỘT
CỦA HAI BỌN MA ĐẦU CỘNG SẢN ?
                                                                          
                                                                                  Vũ Trọng Khải/Úc Châu

Dưới một góc cạnh nào đó, người ta có những nghi vấn khi nhìn vào cuộc “ĐẤU VÕ MỒM” của hai đảng cộng sản Tàu và Việt hiện nay và cho rằng đó chỉ là một trận chiến giả tạo để đánh lạc hướng đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền của nhân dân hai Quốc Gia này.

Lịch sử đấu tranh của cộng sản đã cho thấy :

“cộng sản luôn luôn khơi động LÒNG YÊU NƯỚC, CHỐNG NGOẠI XÂM ….của toàn dân để bành trướng hoặc củng cố quyền lực đang bị suy yếu …”

Trong cuộc cách mạng chống thực dân Pháp của toàn Dân Việt, đảng CSVN đã lợi dụng lòng yêu nước chung của toàn dân để phát triển đảng, nhưng đồng thời cũng “tiêu lòn” với thực dân Pháp để tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia khác dù có cùng chung mục đích: chống ngoại xâm.


19.7.11

Nói cùng thanh kiếm gãy


Mày bảo tao, ưỡn người đi tới
mặc súng thù dí sát sau lưng
mày bảo tao banh tròng mắt đợi
bất kể anh em gục nửa chừng

mày bảo tao mười năm chịu nhục
giữ màu cờ dù chết đừng buông
mày bảo dẫu ruột đau từng khúc
chuyện tháng tư coi như vết buồn

tao nghe mày chịu đau xiềng xích
cố mà quên cái buổi tan hàng
mấy mươi năm nằm không cục kịch
trên đất thù, với những tan hoang

giờ tao mỏi, mày không cho nghỉ
bắt tao chờ ai đó về ngang
trao mày - thanh kiếm cùn, sét rỉ
cho người đi dựng lại giang san

trời đất bao la, người vô lượng
sông núi điêu tàn ngóng kẻ xa
tao lạy sói đầu, cầu bốn hướng
kiếm rỉ thêm cùn ngày cứ qua

tao sẽ chôn mày trên đỉnh núi
cán quay về trấn một phương Nam
để mày thấy giặc từ hướng mũi
ngày ngày máu ướt ải Nam Quan

mày cùn, tao gãy - tụi mình rỉ
trăm năm đã hết cuộc cờ chơi
tao chết, mày tiêu - trời tính kỷ
một lạy cho rồi - kiếm gãy ơi ! 
 
nguyễn thanh-khiết
viết cho ngày 20-07-2011


3.7.11

Ly rượu phương Nam


Ai chèo qua biển cho ta gởi
một chén rượu buồn của phương Nam
sa trường máu chảy còn ta đợi
có lúc người về dựng giang san

Trại Trừng Giới - ngày này uống cạn
giọt rượu đau nhắc thuở đi đày
rừng Trường Sơn còn bao bè bạn
chết vẫn chờ từ buổi chia tay

mây bay qua biển cho ta gởi
chút tình xưa từ thuở tan hàng
mấy mươi năm người về chưa tới
dặm đường xa, quên một phương Nam

đập vỡ bầu chia nhau ngụm cuối
ngần đó thời gian đã ngủ vùi
đứng lên đi  ngó về sông núi
giặc thù còn - rượu uống không vui

gió thổi dùm ta hơi nồng cũ
giọt của tương phùng - giọt chia ly
quán xưa còn đó dù bụi phủ
có kẻ giữ cờ đợi người đi


nguyễn thanh-khiết
03-07-2011






30.6.11

Tiếng nói từ trái tim



Kính thưa quý vị,

Như tôi đã trình bày trong một bài viết trước, tôi không phải là nhà văn, tôi chẳng phải là cái gì cả, nhưng chỉ vì tôi cần nói ra những gì tôi cảm nghĩ, vì không nói ra được thì trái tim tôi sẽ nổ vỡ mất nếu cố giữ kín trong lòng, nên tôi cần viết ra những gì tôi muốn viết.

Chúng tôi làm giấy tờ để ra đi theo diện ODP (làm chui từ năm 1984 và gửi qua Bangkok vì lúc đó chưa có bang giao chính thức giữa cộng sản Việt Nam và thế giới tự do), với những đóng góp về giấy tờ cũng như tiền bạc của thân nhân chúng tôi đã qua Mỹ từ trước, vì đó là quyền lợi của chúng tôi theo hồ sơ bảo lãnh ODP do các thân nhân chúng tôi đảm trách, nhưng sau đó qua những lời thỉnh nguyện của bà Khúc Minh Thơ đại diện những gia đình có thân nhân bị tù đầy trong guồng máy cộng sản đã trình bày hoàn cảnh này lên Tổng Thống Ronald Reagan và được Tổng Thống chấp nhận để chính Tổng Thống ra lệnh cho ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Robert L. Funseth trao đổi với nhà cầm quyền cộng sản để thả và cho chúng tôi ra đi qua Mỹ. Vì vậy hồ sơ gia đình tôi được chuyển từ ODP sang HO. Chúng tôi đã tới Mỹ vào ngày 06 tháng 07 năm 1992. Nếu không có bà Khúc Minh Thơ thì không bao giờ gia đình chúng tôi qua được Mỹ theo chương trình HO, (cao lắm thì theo chương trình ODP mà thôi) và như vậy sẽ phải chờ lâu hơn. Do đó gia đình chúng tôi luôn luôn mang ơn bà Khúc Minh Thơ và những người trong hội “Gia Đình những Tù Nhân Chính Trị” đã trực tiếp hay gián tiếp giúp gia đình chúng tôi.

Khi nhân viên Hoa Kỳ phỏng vấn gia đình tôi, họ hỏi tôi là muốn đi theo diện ODP hay HO., tôi trả lời liền: “HO hay ODP, tôi đều chấp nhận, miễn sao chúng tôi ra khỏi VN càng sớm … càng tốt”.

Tôi đã được mổ mắt qua chương trình Medicare để thay lens ngay từ khi mới qua đây, vì khi tôi qua đây thì hai mắt tôi bị cataracts che mờ đến nỗi hầu như tôi không nhìn thấy đường. Bây giờ lens của tôi là bằng plastic, và tôi đọc sách báo không cần phải đeo kính nữa và đi làm một cách bình thường. Nhà tôi đã mổ tim (open heart surgery) mà không phải trả một đồng nào cả. Bản thân tôi cũng mổ cổ (anterior fusion surgery) mà chỉ trả copay rất ít. Nước Mỹ là thế đó.
Tôi và nhà tôi mới đi lên Hoa Thịnh Đốn thăm người bà con, và có dịp đi thăm bức tường đen nơi ghi tên của 58.195 người lính Mỹ, từ anh binh nhì đến sĩ quan cấp tướng, và sau đó chúng tôi được vinh dự đưa đến nghĩa Trang Arlington, là nghĩa trang quốc gia Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là quê hương mới của gia đình chúng tôi. Hai vợ chồng tôi được đưa đi thăm Toà Bạch Ốc, Quốc Hội, và nhiều nơi khác như Lincoln Memorial, như Jefferson Memorial, như Washington Monument, v.v… và có dịp đi thăm Smithsonian Museum, nơi có trưng bầy bộ xương con khủng long từ mấy ngàn năm về trước. Nhìn thấy Tổng Thống Lincoln ngồi chễm trệ trên ghế nhìn xuống bàn dân thiên hạ, tôi mới cảm thấy sự nhỏ nhoi của mình.  Nhìn thấy ngôi mộ của Tổng Thống Kennedy với câu nói bất hủ: Đừng hỏi nước Mỹ đã làm gì cho bạn, mà hãy tự hỏi bạn đã làm được gì cho nước Mỹ. “Don’t ask what your country can do for you. Ask instead what you can do for your country”. Nhìn thấy những ngôi mộ của những người đã hy sinh cho Tổ Quốc mà không đòi hỏi bất cứ một cái gì cho họ cả.
Nói tới nói lui, tôi chưa trình bày với quý vị lý do bài viết của tôi.

Tôi là một người Mỹ gốc Việt. Tôi thương yêu đất nước Việt Nam của tôi vì đó là nơi tôi được sinh ra, nuôi dưỡng, lớn lên, gặp người yêu và lấy làm vợ, rồi vì tình hình chiến cuộc, tôi đã tình nguyện nhập ngũ dù tôi được miễn dịch vĩnh viễn với lý do con trai duy nhất trong gia đình. Sau năm 1975, tất cả những sĩ quan, công chức của chế độ Cộng Hoà phải đi tù. Riêng tôi đã không chấp nhận chế độ cộng sản nên đã bị bắt và ở tù tới 2296 ngày và đêm. Tôi được thả, cho về nhà và họ bắt buộc đi vùng kinh tế mới. Tôi từ chối với lý do là cha mẹ già yếu, con cái còn quá nhỏ. Do đó tôi vẫn còn ở lại Sài Gòn. Tôi đạp xe ba bánh chở vật liệu cho mọi khách hàng. Sau đó, nhờ số vốn ngoại ngữ của tôi, tôi đã đi dậy học, chính thức cũng có, chui cũng có. Rồi cha mẹ tôi lần lần mất. Bố tôi chết năm 1984, hưởng thọ 85 tuổi, mẹ tôi chết năm 1985, hưởng thọ 81 tuổi. Hai cái tang chồng chất lên tôi. Nhưng bản thân tôi buồn mà không phiền não vì tôi cảm nhận phần nào về thiền!Tôi hiểu rằng: đã đến thì rồi phải đi, níu kéo cũng không được. Và một ngày nào đó, sẽ đến lượt tôi ra đi. Có thế thôi.

Tôi đã khóc khi bố mẹ tôi mất. Tôi đã khóc khi chị tôi mất. Tôi đã khóc khi anh rể tôi mất.

Tôi đã khóc khi những chiếc phi cơ bị không tặc đâm vào hai toà nhà cao ốc là Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế tại Nữu Ước làm chết gần 3000 người.

Tôi đã khóc khi một phi cơ khác bị không tặc cho đâm vào Ngũ Giác Đài, làm chết mấy chục người trong đó có một kỹ sư Việt Nam.

Tôi đã khóc khi một phi cơ khác đã rớt trên một cánh đồng hoang vắng nhờ lòng can đảm của những hành khách đã đứng lên chống cự với bọn khủng bố để không cho chiếc máy bay này đâm vào Toà Bạch Ốc.

Tôi đã xúc động và hãnh diện khi thấy những thành quả của những người Mỹ gốc Việt đạt được trên mọi lãnh vực, từ chính trị đến quân sự qua chuyên môn, qua học hành, từ những chuyện nhỏ nhất đến những chuyện lớn nhất.

Tôi rất xúc động khi thấy những ngưòi Mỹ gốc Việt làm dân biểu, làm nghị viên tại những tiểu bang, thành phố lớn trên nưóc Mỹ.

Tôi rất xúc động và hãnh diện khi thấy các bạn bè của tôi là những thày giáo, là những người hướng dẫn thế hệ trẻ mà chúng ta gọi là thế hệ thứ hai để thay thế ông cha khi chúng tôi qua đời.

Người Mỹ gốc Việt chúng ta không làm tủi hổ giòng giống. Và nói chung thì chúng ta vui khi thấy những thành quả đó.

Tôi đâu có muốn xa lìa Việt Nam, mà chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc. Tôi không thể sống tại một nơi mà dân chúng không có tự do, dân chủ, nơi mà nhà cầm quyền chỉ áp đặt cuộc sống theo ý họ chứ không theo ý dân.

Tôi vẫn muốn làm một cái gì cho quê hương tôi, nhưng người ta không cho, do đó tôi phải ra đi. Gia đình tôi sống tương đối đầy đủ, vui vẻ, hạnh phúc tại quê hương thứ hai.

Tại quê hương thứ hai này, chúng tôi sống như những người Mỹ khác, không thắc mắc, không mong mỏi gì hơn là đi làm để có tiển trả những bills khi nó tới. Sống một cuộc sống rất bình thường.

Nhưng tôi vẫn trăn trở. Có một cái gì trong tôi cứ làm cho tôi khó chịu. Không biết là cái gì. Nhìn tới nhìn lui: Gia đình ổn thoả, nhà cửa tạm ổn, vì tiền mua nhà cũng sắp trả hết. Vợ chồng không hề xích mích, cãi nhau, con cái đều thành đạt. các cháu nội đều học hành tấn tới. Sống tại Austin, nơi khí hậu hiền hoà, thiên nhiên đối đãi tốt, ngôi nhà ở phía sân sau có hồ cá gần trăm con cá KOI và hòn non bộ tuyệt vời do hai cha con tôi xây dựng cả 5 năm trời mới xong. Một dàn lá mơ, một vườn rau thơm với cả chục cây ớt hiểm, còn muốn gì hơn nữa.

Khi vợ chồng chúng tôi đi thăm viếng nghĩa trang Arlington, tôi mương tưởng đến nghĩa trang quân đội Biên Hoà và rồi tôi nhận ra tôi nợ một món nợ rất lớn với các đồng ngũ đã nằm xuống. So sánh những người lính Mỹ tình nguyện gác ngôi mộ “Chiến Sĩ Vô Danh” tại nghĩa trang Arlington với nghi thức theo một nguyên tắc nhất định: bước 21 bước là vì người chiến sĩ bỏ mình vì nước được hưởng 21 phát súng (phần thưởng cao quý nhất cho một nguời chiến sĩ hy sinh với 7 khẩu súng và bắn ba lần theo truyền thống từ thế kỷ thứ 17 ở bên nước Anh). Quay lại hướng Đông là hướng ngôi mộ, nhìn ngôi mộ của người chiến sĩ vô danh trong 21 giây, nghỉ 21 giây trước khi quay đầu lại để bước 21 bước tiếp theo. Quay súng qua vai vì súng không được ở bên vai gần ngôi mộ. Đổi gác mỗi 30 phút qua một buổi đổi gác thật long trọng. Mỗi ngày, cả trăm cả ngàn ngưòi đến xem lễ đổi gác. Ngày cũng như đêm. Nắng cũng như mưa. Trời xanh, đẹp, cũng như vần vũ mưa sa bão tố. “Old Guard never changes.” Đất nước thứ hai của tôi như vậy đó, còn đất nước thứ nhất của tôi? Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà thật khốn đốn, thật tủi nhục. Tôi đã làm được gì cho chính những đồng ngũ của tôi? Tượng “Thương Tiếc” bị kéo giật ngay từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975. Mồ mả những đồng ngũ của tôi bị đào xới lên, xương người quân nhân chết đã bị làm nhục. Ai chịu trách nhiệm? Trong thời gian đi tù, bọn cai tù Cộng Sản đã chửi rủa tụi tôi, là những người còn đang sống, huống hồ chi những người đã nằm xuống. Tụi Việt Cộng cười hố hố há há trên xác chết người quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.  Vậy mà chúng ta chẳng làm được một cái gì để giúp đỡ những người chiến sĩ đã chết cho Tổ Quốc, ngoại trừ ngồi bên này chỉ trích nhau, chụp mũ nhau, ai không theo đường lối chống cộng của mình sẽ là việt gian. v.v… Bởi vậy, từ tụi việt cộng cho đến những người nôm na gọi là chống cộng nửa vời mà sự thực là gieo rắc nghị quyết 36 của việt cộng, chúng tôi đều né tránh.

Thưa quý vị,

Vợ chồng chúng tôi đã trên dưới 70 tuổi. Sống chung với con cháu thật vui vẻ, hạnh phúc. Không có gì phải than thở, phàn nàn, sống như tất cả những người Việt Nam tỵ nạn cộng sản khác, rồi già đi, rồi chết đi, nhường chỗ cho con, cháu. Thế cũng xong một cuộc sống bình thường như tất cả mọi người.

Thế thì trăn trở cái gì? Thế thì khó chịu cái gì?

Xin thưa: Tôi chưa trả nợ cho Tổ Quốc Việt Nam của tôi một cách trọn vẹn. Tổ Quốc đã cho tôi tất cả, nhưng tôi chưa đáp ứng lại được một phần. Và đến ngày 30 tháng Tư 1975, tôi đã mất Tổ Quốc. Gia đình còn, nhưng Tổ Quốc không còn. Tôi là một người không còn Tổ Quốc từ năm 1975 cho đến khi tôi sang Mỹ và sau đó 6 năm thì tôi trở thành công dân Mỹ. Nhưng liệu tôi có thể chóng quên nguồn gốc của tôi không?

Vì thế, thưa quý vị, tôi tâm nguyện rằng:

Khi không còn bóng cộng sản tại quê hương thứ nhất của tôi, là nước Việt Nam, tôi sẽ về lại và làm người gác nghĩa trang, hàng ngày thắp những nén nhang cho các ngôi mộ đồng ngũ của tôi tại nghĩa trang quân đội Biên Hoà, cho đến khi tôi chết thì hoả thiêu thân xác của tôi, để một nửa nằm chung với đồng ngũ của tôi tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, và một nửa thì trải tại Hồ Lake Travis tại Austin,  TX, là quê hương thứ hai của tôi.

Tôi có thể tha thứ, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên những gì cộng sản Việt Nam đã làm cho gia đình tôi, cho đồng ngũ của tôi, cho quê hương tôi, cho Tổ Quốc tôi. Vì thế, ước muốn nhỏ nhoi của tôi trong việc thiêu xác sẽ được thực hiện qua con tôi, cháu tôi, nếu cộng sản chưa chết trong đời tôi.

Lê Hoàng Ân



28.6.11

Cộng Sản Tàu,“Cá nằm trên thớt”




Cộng Sản Tàu,“Cá nằm trên thớt”
 
                                                                                    Vũ Trọng Khải/Úc Châu
                                                                                  28/6/2011
 
Khi nói CS/Tàu như “cá nằm trên thớt”,  người ta nghĩ ngay đến việc CS/Tàu sẽ bị “banh xác” trong một cuộc chiến, dưới một dạng thức nào đó có, thể xẩy ra trong tương lai không xa !
 
 Ý tưởng “Hiểm họa da vàng” ám chỉ sự bành trướng của Tàu, đã có trong ý nghĩ Hoa Kỳ và Tây Phương từ thập niên 50.
 
Nước Tàu phải suy yếu, phải bị chia năm sẻ bẩy như thời Lục Quốc.
Đó chính là mục đích phải theo đuổi của Hoa Kỳ để triệt tiệu “Họa Da Vàng”
 
Muốn đạt được kết qủa như nói trên, biện pháp tốt nhất là làm sao tạo được nội loạn trong nước Tàu, hơn là tạo chiến tranh trực diện để triệt hạ Tàu.
 

20.6.11

Trại Trừng Giới, nơi đày ải nhiều chiến sĩ VNCH



Thanh Phong/Viễn Đông

WESTMINSTER - Sau ngày 30-4-1975 nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam dựng lên hàng ngàn trại tù rải rác khắp Nam, Trung, Bắc để giam giữ, đày ải các Quân, Dân, Cán, Chính VNCH. Một trong những trại tù khét tiếng nhất có tên gọi là Trại Trừng Giới A.20 nằm trong thung lũng Kỳ Lộ, Huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quân Lực 19-6-2011, hai chiến hữu Nhan Hữu Hậu (sĩ quan cấp Tá QL/VNCH) và chiến hữu Tống Phước Hiến (sĩ quan cấp Úy, Cảnh Sát Quốc Gia) đã đến tòa soạn nhật báo Viễn Đông để kể lại giai đoạn hai ông và các bạn tù A.20ø phải chịu đựng nhục hình như thế nào tại trại Trừng Giới A.20.

15.6.11

mửa máu


hắn chết khi máu trào ra lần cuối
trên bục nằm loang lỗ lạnh buốt xương
quần áo rách bươm phơi dãy xương sườn
manh chiếu nát tặng lại người sống sót

hắn chết giữa mùa đông, trời Phú Khánh
Trường Sơn thở dài rước một sinh linh
hai năm mửa máu hắn cố dọn mình
khi nằm xuống cỏ rừng che nấm mộ

Trại Trừng Giới - ba ngàn người cùng khổ
đang gối đầu với cái chết vì lao
thức dậy, chưa đứng lên máu đã trào
lũ vi khuẩn rủ nhau bay vào gió

thằng úp mặt vào tường ho ra máu
thằng nín hơi cố giữ mạng qua ngày
nhà giam kín bưng nằm xuống sát vai
thần chết đêm đêm về khoe lưỡi hái

Trại Trừng Giới và những cơn sợ hãi
trên thân tù - từng da ngựa bọc thây
cuộc chiến cuối – trời ơi ! đau như vậy
Trường Sơn đành lòng đứng sửng không hay

hắn chết, úp mặt nằm trên vũng máu
giọt máu ngày nào từng bón núi sông
hắn chết không phải vào giữa đêm đông
mà vĩnh biệt khi gà rừng gáy sáng

Trại Trừng Giới những oan hồn lảng vảng
hát nghêu ngao bài hát ứa máu tươi
dãy biệt giam xiềng xích hả hê cười
đám chúa ngục khúc khắc ho từng tiếng

nguyễn thanh-khiết

(viết cho những A20 mửa máu quay về
Nguyễn Hạnh, Phạm văn Hải, Trương văn Tám, Vũ văn Lộ...
và vĩnh biệt những A20 đã mửa máu ra đi)
1983-1986




(Nguồn: Viết Từ Địa Ngục Blog)


13.6.11

CHÚT SUY TƯ



Tống Phước Hiến

 I. Trong tù:

Bọn si điên, say men vai chủ mới
Ngùn ngụt kiêu căng, thăm thẳm hận thù.
Trước mắt ngơm – người là kẻ câm mù,
Nên mặc sức, tung đường gươm ác quỷ.

Bao cơ cực, chôn mình vào mộng mị,
Bao ước mơ, cay đắng dấu trong hồn,
Nơi lao nhục, người đành lấp trí nhân,
Dấu giòng lệ, nuôi sâu niềm thống hận.

Mũi súng đen, lời roi phun nọc bẩn,
Xúng xính cười, bái phục những hoang mê
Tâm thác loạn, hừng hực lửa hả hê,
Bầy ác thú cuồng say cơn thịnh nộ.

Người chưa chết, đã trở thành cổ mộ,
Nên quay về thinh lặng với hư vô,
Nghe lệ đá nâng đôi giọt thẫn thờ,
Cùng cây cỏ thấm chín tầng địa ngục


II. Về nhà:

Ta xót sa, xoa gót em nức nẻ,
Bàn tay nhung nay sạn sỏi hờn oan,
Lệ chảy ngược, bầm tím máu hân hoan
Lòng chân thật đành đào sâu chôn dấu

Con ta đó đuổi nhanh thời thơ ấu,
Mắt lạc loài trắng đục những niềm mơ,
Đời trôi qua dăm mộng ước hững hờ,
Da chai đá, roi đời chờ chực đón.

Bảy năm trời đã trở thành phân bón,
Lửa quê hương trăn trở suốt thâu canh
Nuôi ý chí trổ hoa lá đâm cành,
Hoa và đá bắt tay cùng bụi chuối.


III. Tỵ Nạn

Ta ra đi, xa miếu đền xưa cũ,
Xa con sông, ngọn núi lũy tre làng
Và cũng xa bao man rợ hung tàn,
Nhưng gần lắm những oan hồn đã khuất.

Hãy gom lại những hồn ma u uất,
Cùng chúng tôi xô ngã những điêu linh,
Hãy trổi dậy những thao thức trở mình
Mà một thuở thấm tim gan phế phủ.

Đời không trôi trên lối mòn ủ rũ,
Lời đao ta búa lớn lẫn u hoài,
Giòng lịch sử theo vận nước trải dài,
Hãy bước tiếp như Tiền nhân đã bước

Dấu chỉ đường vẫn mãi là phía trước
Hãy khắc ghi những hung hãn bạo tàn
Hỡi bờ cây bụi cỏ vạn lời than
Hãy gom lại thành triều dâng sóng dậy.

               Tống Phước Hiến



CHA TÔI, NGƯỜI CHIẾN SĨ VIỆT NAM CỘNG HOÀ



CHA TÔI, NGƯỜI CHIẾN SĨ

VIỆT NAM CỘNG HOÀ



                                                                                                    Bài viết của Ý Cơ
         (A20 Vũ Trọng Khải phu nhân)

(viết cho ngày 19 tháng 6)


Đã có quá nhiều những áng văn, thơ, nhạc ca ngợi những chiến công, những hy sinh, trong trách nhiệm Bảo-Quốc An-Dân của người Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Cũng không thiếu những áng thơ, văn, nhất là những ca khúc, nói lên tình cảm đầy ân nghĩa của người hậu phương đối với người Quân Nhân ngoài tiền tuyến, những áng văn chương ấy, cùng với hình ảnh người Quân Nhân QL/VNCH cũng sẽ bất tử trong lòng người dân Miền Nam, đã một thời được hưởng những Tự Do, những Hạnh Phúc thực sự, được đem lại từ chính những hy sinh cao quý này.
Rồi cũng có rất nhiều những tác phẩm văn chương, những ca khúc nói lên nỗi mong chờ ngày đêm của người Mẹ già, của người Chinh Phụ, của Người Tình hướng về người Chiến Sĩ đang ngày đêm đối diện tử thần ngoài tiền tuyến.
Nhưng có lẽ, còn quá ít những áng văn hay ca khúc, nói lên sự thiệt thòi, nếu không muốn nói là bất hạnh, của những đứa con thơ dại trong gia đình mà người Cha là Chiến Sĩ QL/VNCH để lại nơi hậu phương, trong những trại gia binh hay trong những huyện lỵ nhỏ gần nơi người Chiến Sĩ đồn trú. Mà nơi đó, những phương tiện sinh hoạt hầu như rất khiêm nhường cho cuộc sống cần có của trẻ thơ .

5.6.11

Khi Thơ Lên Tiếng



1.
Em hỏi tôi khi nào hạnh phúc?
biết trả lời sao khi chung quanh ô nhục?
biết nói sao khi những gì chân thực
đều nín thinh như tĩnh vật ngoan hiền
những tấm họa nào màu sắc đảo điên
những đoạn nhạc âm thanh nhạt thếch
người lương thiện trở nên ngờ nghệch
đứng bâng khuâng giữa cõi oán hờn

Người cầm bút
không cần biết thiệt hơn
Vũ khí chính là Thơ: lên tiếng
là việc làm biểu hiện
của vô vàn sắc mực đấu tranh

ÐK:

Ngọn bút thiêng vượt qua bao trở ngại
đồng hành cùng lịch sử yêu thương
Em yêu dấu ơi, từ khổ đau
Thơ Tôi Lên Tiếng
Thơ Chúng Ta Lên Tiếng:
Cứu Quê Hương!


2.
Em có thể yêu tôi
bởi vần điệu trong lành
bởi bề ngoài đỏm dáng
bởi kịch diễn
bởi những điều thế nhân nhàm chán
bởi ngôn từ ngọt lịm đường hương
nhưng em ơi
điều duy nhất phải hiểu nhau hơn
là bản chất
là tận cùng dưới đáy tim dũng cảm


Người cầm bút
đứng giữa vùng ánh sáng
viết nên hoa, nắng, trăng, sao
viết nên đời mới
gửi trao cho Dân Tộc con Người.


Phan Lạc Giang Ðông


Mưa trên trại thù


như những bóng ma chập chờn bên núi
đám tù lết về trại dưới chiều mưa
Trường Sơn trùng trùng, ngày qua ngắn ngủi
đời tù lụn dần theo sáng theo trưa

đêm mưa rớt từng cơn ngoài láng trại
chỗ nằm đau trên bệ đá lạnh căm
những giấc mơ của một thời quan ải
nuôi từng ngày với nỗi đợi âm thầm

gió núi thấm trên thân tù rách rưới
lát khoai khô không bẻ gãy hận xưa
tù nghiến răng trong từng mỗi nụ cười
mười năm oằn oại mối thù chưa rửa

mùa mưa xuống từng ngày trên trại giặc
mưa rớt buồn, mưa rớt giữa Trường Sơn
tù lắng nghe sấm gầm trong khuya khoắc
cái nhớ thành xưa ruột thắt từng cơn

mưa dỗ tù hiên ngang đi vào mộng
áo giang hồ mưa lấm, tiếc mà đau
tù nhắm mắt rơi vào muôn tưởng vọng
mùa mưa xuống trại thù - không qua mau


 nguyễn thanh-khiết
A20 mùa mưa


(Nguồn: Viết Từ Địa Ngục Blog)


* Yên Ly diễn ngâm:







3.6.11

Cô gái nhỏ hấp hối


Tặng cô gái nhỏ cả làng bỏ rơi
trong nạn đói Thanh Hóa 1988.

Cô gái nhỏ trơ trọi
trong căn nhà vắng tanh
gia đình đã đi hết
bỏ cô nằm một mình
Trong làng không chó sủa
chim chóc cũng chẳng về
dưới ao không tăm cá
im lặng thật thảm thê.
Làng cô cũng vắng ngắt
người người kéo nhau đi
để tìm ăn tìm sống
quê hương chẳng còn gì.
Trong cơn mê hoảng loạn
Cô rên rỉ van lơn
Ông Táo trong bếp lạnh
cho cô một bát cơm
trời hỡi trời hãy thương
cô bé đang hấp hối
hãy cho cô được thấy
mặt mẹ cô dịu dàng
để cô sẽ khỏi chết
làm ma đói lang thang.

DUY LAM