31.3.13

Bái Biệt Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng


Bác sĩ Nguyễn Ý Đức 

Ngày 27 tháng 9 vừa qua, tổ quốc Việt Nam đã mất đi một người con văn võ song toàn. Môn sinh Vovinam Việt võ đạo sẽ muôn đời vắng bóng một người thầy, một đàn anh gương mẫu đáng kính trọng, đáng noi gương.

Thưa quý vị, đó là Võ sư Chưởng môn Vovinam Việt Võ Đạo Lê Sáng. Ông thanh thản không một chút ngậm ngùi ra đi ở tuổi 91.



Võ sư Lê Sáng chào đời tại Hà Nội, trong một căn nhà nhỏ bên bờ Hồ Trúc Bạch vào mùa Thu năm 1920. Lớn lên ông theo học tại các trường công lập quanh vùng. Tới năm 19 tuổi, đang khỏe mạnh thì ông bị bạo bệnh mà khi hồi phục thì đi lại khó khăn. Thân mẫu khuyên ông nên tìm thầy học võ để rèn luyện tâm thân. Cơ may đưa ông tới với Võ sư Nguyễn Lộc, người đang phát triển một môn phái võ thuật riêng kết tinh từ các môn võ, vật Việt Nam mang nhiều nét dân tộc lấy tên là Võ Việt Nam, với tôn chỉ “Học võ không phải để ỷ sức đánh người – mà học võ Việt Nam cốt là để giữ mình, giữ làng và giữ nước.”


27.3.13

Mau Tỉnh Dậy



Cùng một trái tim cùng một giống nòi
Sao chúng tôi không thể cất cao lời phản đối
Khi chúng đến như một bấy lang sói
Bắt anh đi giữa những tiếng reo cười

Cùng một màu da cùng dòng máu đỏ
Sao chúng tôi không hề phẫn nộ
Khi nhìn anh máu đỏ loang dần
Môi nhợt nhạt vẫn buông lời man rợ

Ôi ! Tổ Quốc đã qua bao thống khổ
Vẫn còn đây niềm phẫn hận chưa nguôi
Lửa căm hờn vẫn còn sục sôi
Gieo thảm hoạ xương phơi máu đổ

Mau tỉnh dậy hỡi toàn dân Việt
Hãy cùng nhau xoá hết căm hờn
Cùng nhau dựng lại giang sơn
Cho nòi giống Việt thoát cơn khổ này


A20 Đoàn Viết Hoạt
06-1977
4C1 – Phan Đăng Lưu
 (Trích tập thơ “Đoá Từ Tâm” xb tại Hoa Kỳ 1999)


24.3.13

CHIẾN-SĨ VÔ DANH



(Tùy bút chiến trường)

·       Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam trước họa xâm lăng của Cộng-sản phương Bắc, Quân-Lực VNCH đã có biết bao Anh-Hùng, Liệt-Nữ vị quốc vong thân. Bên cạnh đó… có những sự hy sinh không kém hào hùng ít được nhắc tới, tôi muốn nói đến những người lính không có số quân: “Vợ lính” !
 Lê phi Ô.

   Đúng 02:00 giờ sáng ngày 09 tháng 12 năm 1974, Lính vừa đổi phiên gác thì một ánh chớp cùng tiếng nổ long trời phát ra tại hàng rào hướng tây của Chi-khu, nơi tuyến phòng thủ của một trung đội thuộc Đại-đội chỉ-huy, một trung đội của Đại-đội 3 và tiểu đội thám-báo Tiểu-đoàn. Khói lửa, cát bụi mịt mùng, đặc-công việt cộng đã chui vào hàng rào phòng thủ đặt chất nổ phá hủy nhiều lớp kẻm gai. Lập tức, tổ thám báo của tiểu-đoàn tung nhiều quả lựu đạn vào vùng khói lửa nơi vừa xảy ra tiếng nổ để ngăn chận bọn đặc-công cảm tử địch xông vào.

   Trong ánh chớp kèm tiếng nổ của lựu đạn bóng vài tên VC  chạy ngược trở ra nhưng đã bị khẩu đại-liên trên vọng gác đốn ngã. Những trái sáng tay và của súng cối 81 ly được phóng lên sáng rực bầu trời, tôi gọi Trung-úy Lưu-đức-Thắng (khóa 24/VBĐL) đại-đội trưởng ĐĐ3/344 cẩn thận mặt Bắc, nơi có một ngôi chùa nhỏ sát cạnh hàng rào phòng thủ… đây là đường tiến sát rất thuận lợi cho VC  vì bọn chúng biết lính không bao giờ dám mang súng đạn vào gần chùa dù chỉ để phục kích đêm.  Trung-úy thắng báo đã bắn hạ hai 2 tên địch ngay khi chúng vào tới hàng rào phòng thủ trong cùng… mười phút sau, Thắng cho biết hàng rào đã bị cắt đứt nhiều chổ, lập tức tôi lịnh cho Trung-úy Thời đại- đội trưởng Đại-đội 2/344 đang bố trí quân  tại trại cưa bên ngoài Chi-khu về hướng đông cách Chi-khu 500 thước đưa ngay một trung-đội vào chiếm giữ ngôi chùa nhỏ, trung-đội nầy chạm súng nhẹ và địch bỏ chạy, đây chỉ  là tổ cảnh giới của địch.

20.3.13

Ta vẫn ở lại đây


Ta vẫn ở lại đây
Giữa núi rừng Thanh Hoá
Nơi sông Mã cuồn cuộn chảy về xuôi
Nơi những con muỗi cao cẳng
Vẫn vờn bay trong nắng
Nơi nước uống đục ngầu bùn đất
Và ngô khoai
Vẫn là lương thực cho người

Ta vẫn ở lại đây
Cô lập giữa những người tù hình sự
Không một ai được quyền giúp đỡ
Dù cùng chung cảnh khổ đọa đày.

Họ muốn ta phải hoàn toàn tách biệt
Khỏi thế giới bên ngoài
Không bạn bè không ai thân thích
Không một người cùng chí hướng chung vui
Không sách báo không một nguồn tin tức
Không ngay cả niềm vui nhỏ nhất
Được ăn bát canh nóng mỗi ngày


17.3.13

Vài suy nghĩ về vụ đánh tư sản



Vài suy nghĩ về vụ đánh tư sản mại bản
trong “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức


A20 Vũ Ánh

Trong trại tù A-20 Xuân Phước, tôi bị nhốt chung với những thành phần bị nhà cầm quyền tiếp quản gọi là tư sản mại bản người Hoa có tầm cỡ như Lý Sen, Lưu Trung, Trương Dĩ Nhiên. Trước đó, khi còn bị tập trung ở trại Z-30C Hàm Tân, tôi cũng lại có sống gần một bạn đồng tù mà anh em chúng tôi thường gọi đùa là ông “rùa vàng”, tức cựu thượng nghị sĩ VNCH Hoàng Kim Quy, một thượng nghị sĩ thân chính phủ, nổi tiếng vì hai chuyện: mỗi lần ông Nguyễn Văn Thiệu gặp khủng hoảng chính trị thì phủ Tổng Thống lại lôi ông cùng với những thượng nghị sĩ thân chính phủ khác lên đài truyền thanh và truyền hình để ông nói vài lời bênh vực, thứ đến ông có một người con trai khét tiếng vung tiền trong những chốn ăn chơi tại Saigon.

Bấy lâu nay, báo chí hay sách báo Việt ngữ tại quận Cam ít đề cập gì đến một sự kiện từng làm náo loạn đời sống của toàn bộ dân chúng Miền Nam Việt Nam là chiến dịch X-2 đánh tư sản mại bản, gian thương và cải tạo công thương nghiệp tư doanh. Phần lớn những bài báo hay những cuốn hồi ký chỉ chú trọng tới chuyện tù cải tạo và vượt biển. Khi tìm nguyên nhân khiến chính quyền VNCH thất bại, phần đông các tác giả chỉ có một lập luận: Miền Nam Việt Nam là một vùng đất tự do, dân chủ, quân đội VNCH là một quân đội hùng mạnh, thiện chiến, đánh đâu thắng đó nhưng cuối cùng VNCH thua trận vì bị Mỹ bỏ rơi, Dương Văn Minh lên nắm quyền có một ngày rưỡi và “dâng” Miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản nên chúng ta mất phần đất từ vĩ tuyến 17 trở vào. Thật là giản dị và mọi người đều ngủ yên trên những lập luận này trong nhiều thập niên sau chiến tranh.

15.3.13

Một thời lính trận…



Ta từng có một thời làm lính trận
Súng đạn, ba-lô trĩu nặng đôi vai
Tuổi đôi mươi sá gì đời sương gió
Mộng sông hồ cho thỏa chí làm trai

Chắc tay súng nơi tuyến đầu lửa đạn
Ngăn bước thù gieo tang tóc đau thương
Cho quê hương nhà nhà vang tiếng hát
Cho mẹ già, em gái bớt lệ vương.

Rồi từ đấy đi vào miền gió cát
Mảnh chinh y thấm máu bạn, máu thù
Có những lúc dừng quân nơi lũng thấp
Tiễn bạn mình vào chốn nghỉ thiên thu !

Đêm từng đêm dừng quân trên đất địch
Dưới chiến hào đợi giặc lúc trăng lên
Chợt một thoáng mơ về nơi phố thị
Nhớ người yêu ta thầm khẻ gọi tên !

Nhưng quê cũ vẫn một màu tang tóc
Súng đạn quân thù xé nát làng quê
Đất nước đau thương ngập tràn tiếng khóc
Lính trận ra đi mãi bước không về.

Tháng tư đến trong nghẹn ngào uất hận
Em lạc quê người, ta tận rừng sâu
Mình mất nhau khi tàn cơn binh lửa
Lặng cúi đầu… che dấu nỗi thương đau !

A20 Lê phi Ô



CHIẾN-SĨ CA…!



Âm vang tiếng vọng thời trai trẻ,
Bẻ súng lòng đau hận ngất trời.
Quảng-Trị, Bình-Long dòng thác lũ,
Đêm ngủ chập chờn vận nước trôi.

Núi biếc hành quân săn lùng địch,
Rừng sâu vực thẳm vượt Trường-Sơn.
Ghìm súng mắt trừng đêm xung kích,
Chiến lũy, hào sâu xác địch phơi.

Biên trấn hùm thiêng riêng một cõi,
Khe-Sanh sạn đạo diệt tà ma.
Mỗi bước giày saut sông núi gọi,
Đêm kích mơ về phố thị xa.

Em nhớ chờ ta cài mái tóc,
Hoa rừng hái vội lúc dừng quân.
Quà tặng chiến trường hoa Lan ngọc,
Thoảng hương mùa cưới nặng tình xuân.

Lương khô gạo sấy ba-lô nặng,
Poncho nón sắt áo sờn vai.
Xung phong diệt địch trăm trận thắng,
Ngang dọc một thời thỏa chí trai.

Xưa nay chinh chiến mấy ai về…!*
Ngạo nghễ bên trời chiến-sĩ ca.
Nợ nước thù nhà thiên cổ hận,
Một ngày phục quốc chẳng còn xa.

A20 Lê phi Ô
(*Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi)



11.2.13

Những ngày đầu nghiệp lính & Tết Mậu Thân




A20 Kiều Công Cự


Thật ra, Trường Võ bị Đà lạt, từ ngày thành lập tại Mang Cá, Huế (1948) cho đến ngày “tan hàng” (30/4/1975), đã huấn luyện được 35 khóa với 31 khóa chính thức và 3 khóa phụ là:

- Khóa 9 (khóa Đống Đa) : 1/9/1953 – 16/3/1954 với 120 SVSQ.
- Khóa 10 (khóa Cương Quyết) : 19/3/1954 – 1/10/1954 với 360 SVSQ.
- Khóa 11 (khóa Vương Xuân Sĩ) : 1/11/1954 – 11/11/1955 với 200 SVSQ

Ba khóa này không cùng ngày khai giảng và mãn khóa với khóa chính với lý do duy nhất là họ được Trường Võ khoa Thủ Đức gởi lên thụ huấn và ở trong qui chế là Sĩ quan trừ bị.

Riêng khóa 22 là chính khóa nhưng lại là một khóa đặc biệt. Đến cuối năm học thứ nhất, khóa 22 được chia làm 2: 173 SVSQ theo học 2 năm (22 A), chương trình như các khóa trước và 92 SVSQ theo học 4 năm (22 B), cũng như các khoá tiếp theo (23, 24…), được huấn luyện theo chương trình của trường Võ Bị West Point (Hoa Kỳ) và khi mãn khóa được cấp phát văn bằng Cử nhân Khoa học Ứng dụng.

Tôi theo học khóa 2 năm.

Sau khi học khóa 32 Rừng-Núi-Sình-Lầy ở Trung tâm huấn luyện BĐQ/Dục Mỹ về, chúng tôi được các binh chủng, (không có Quân chủng), lên thuyết trình tại nhà H và chọn người. Phải “chen chân” lắm, tôi mới được “lọt” vào danh sách 15/73 người được chọn về cái binh chủng mà người ta vẫn “hù” là “sống hùng, sống mạnh nhưng sống không lâu”. Nhằm nhò gì “một xanh cỏ, hai đỏ ngực”. Sợ gì, cứ thế mà tiến lên đi Tám !


10.2.13

Trần Tư, Người tù thầm lặng, bất khuất



Trong khi chúng ta đang chuẩn bị đón xuân sang thì trong nhà tù Việt Cộng có một người tù thầm lặng, hiện đang mang bản án chung thân, phải chuẩn bị đón cái Tết thứ 20 trong ngục tù.

Ông là Trần Tư, nay đã 72 tuổi, một người tù chính trị thuộc Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam, bị bắt năm 1993 với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền” và nhận bản án chung thân.

Trường hợp của ông Trần tư là một trường hợp khá đặc biệt. Cũng giống như ông Lý Tống, ông Trần Tư đã vượt biên, định cư tại Mỹ nhưng sau đó lại về Việt Nam hoạt động và bị cầm tù. Tuy nhiên có sự khác biệt và kém may mắn ở chỗ là ông Trần Tư chỉ có thẻ thường trú chứ chưa là công dân Hoa Kỳ, cho nên không nhận được sự giúp đỡ của lãnh sự Hoa Kỳ.


THƯ KHÁNG NGHỊ VỀ CHẾ ĐỘ GIAM GIỮ PHẠM NHÂN HIỆN NAY



Trại Nam Hà, ngày 1.4.1994

Kính gửi: Thủ Tướng Chính Phủ
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Đồng Kính Gửi:
– Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao
– Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ
(Nhờ Ban Giám Thị Trại Ba Sao, Nam Hà, chuyển giao)

Thưa Quí Vị,

Chúng tôi ký tên dười đây là Đoàn Viết Hoạt, Trần Tư, Lý Tống và Trần Mạnh Quỳnh hiện đang bị giam giữ tại trại giam Ba Sao, Nam Hà. Sau khi đã trải qua nhiều trại giam khác nhau từ Nam ra Bắc (Chí Hòa, Thủ Đức Z30D, Xuân Phước, Nam Hà) chúng tôi nhận thấy chế độ giam giữ phạm nhân hiện nay có nhiều điều không phù hợp các công ước quốc tế về quyền con người, các công pháp và tập tục luật pháp quốc tế, và ngay cả luật pháp Việt Nam hiện nay. Chúng tôi xin gửi đến Quí Vị kháng thư này liên quan đến những vi phạm mà chúng tôi đã thực tế trải qua hoặc trực tiếp biết được.


8.2.13

Chết Tập-Thể Trong Tù Cải-Tạo



A20 Chế-Văn-Thức

Lời nói đầu: Khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) non trẻ của Miền Nam Việt Nam bị sụp đổ bởi sự phản bội của nước bạn đồng minh. Quân cộng miền Bắc tiến chiếm Miền Nam, trên thế giới đã có một nhận định cho rằng: sẽ có cuộc tắm máu xảy ra.

Nhưng không, rút kinh nghiệm của các nước cộng sản anh em và của chính Cộng Sản Việt Nam (CSVN) qua những lần tắm máu, sau khi cướp được chính quyền, bị thế giới lên án nặng nề. Lần này, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, CSVN không áp dụng thủ đoạn tắm máu mà thi hành chính sách KHÔ MÁU! Đối với Quân Dân Cán Chính VNCH.

Bài viết sau đây, tôi kể lại một chuyện thật, không hư cấu, một trong trăm ngàn sự thật về chính sách đối xử tàn độc của chế độ CSVN với nhân dân Miền Nam Việt Nam! Đề tài khô khan, mong người đọc thông cảm.


Phản Kháng Của Tù Cải Tạo Trong Đêm Noel 1978.

Sau ba năm lao động khổ sai trên vùng rừng núi cao nguyên Lambiang (Lâm Viên) cuối dãy Trường Sơn. Những sĩ quan QLVNCH, người tù chính trị không án, được ngụy trang dưới mỹ từ “cải tạo”, do các đơn vị bộ đội quản lý từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nay vì nhu cầu cuộc chiến xâm chiếm nước láng giềng Cambodia vào cuối năm 1978, bộ đội đã chuyễn chúng tôi trở về trại Suối Máu, Biên Hòa, giao qua ngành công an quản lý.

Tùy tình thân giữa bạn tù với nhau, trong các ngày lễ lớn của bất cứ tôn giáo nào, hay những ngày lễ Quốc Gia, ngày tết Dương Lịch, tết Nguyên Đán, chúng tôi từng nhóm tụ năm tụ bảy hàn huyên tâm sự. Chiều hôm 24 tháng 12 năm 1978, từng nhóm bạn gom góp mỗi người một ít đường, gạo nếp, đốt lửa đó đây dọc theo hè nhà, nấu chè lạc để có bửa ăn chung đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Trên vọng gác, công an trông thấy dấu hiệu lạ trong các khu giam tù từ K1, đên các khu K2, K3. Khoảng 7 giờ tối, từng toán công an võ trang vào bên trong tuần tra, hỏi chúng tôi chuyện gì mà tụ tập, chúng tôi giải thích. Toán tuần tra rảo quanh một vòng rồi trở ra ngoài.

7.2.13

Câu chuyện một Ðặc Công hồi chánh



A20 Vũ Ánh 

Phải thật là khó khăn và qua khá nhiều thủ tục, tôi mới được gặp người bộ đội Biệt Ðộng Thành tên là Mừng, một trong những người thuộc toán biệt động thành có nhiệm vụ đánh chiếm đài phát thanh Saigon, tức đài phát thanh trung ương của Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia, vào Ðêm Giao Thừa Tết Mậu Thân 1968.

 Lý do là vì lúc đó anh ta đang bị giam giữ tại căn cứ 40, một trong những chi nhánh khai thác các tù binh phiến cộng của Hoa Kỳ tại gần trường đua Phú Thọ vào ngày mồng 3 Tết.

Trụ sở Ðài Phát Thanh Saigon tại số 3 đường Phan Ðình Phùng, góc Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phan Ðình Phùng, bị sập 2/3 sau đêm giao tranh giữa lực lượng Nhảy Dù và lực lượng Biệt Ðộng Thành do Mừng chỉ huy, chỉ còn lại văn phòng tổng giám đốc và thư viện. Chúng tôi, những phóng viên và biên tập viên cần thiết được di tản lên làm việc tại Trung Tâm Phát Tuyến Quán Tre, nơi có một đài phát thanh phòng hờ khi đài trung ương bị nguy hiểm, do bị sập bởi Việt Cộng tấn công hay đảo chánh.

2.2.13

NỤ CƯỜI CỦA TĂNG NGỌC HIẾU (*)


A20 Phạm Đức Nhì

Lúc mới đến Trại Trừng Giới A20 tôi với anh Tăng Ngọc Hiếu tuy khác đội nhưng cùng ở nhà 3. Cả hai đều ở tầng trên; tôi nằm cách anh 5, 6 người; tuy gần…mà xa. Cả tháng chỉ nhìn nhau chứ không ai nói với ai câu nào. Sau khi điểm danh đóng cửa phòng anh Hiếu ngồi ra mép ngoài tầng trên, chân xếp bằng, mắt đeo kính cận, thả hồn về một cõi xa xăm. Mặt anh lúc nào cũng nghiêm và buồn, lại thêm đôi kính cận dầy cộm nên trông khó đăm đăm. Tôi có cảm tưởng như anh đang bị bệnh táo bón kinh niên. (Sau này mới biết hoàn cảnh gia đình anh thật đáng…lo đến táo bón. Năm 1975 lúc anh đi tù gia cảnh một vợ 6 đứa con, 3 trai, 3 gái; đứa con gái lớn nhất sinh năm 1968, mới 7 tuổi, đứa nhỏ nhất mới tượng hình còn nằm trong bụng mẹ, mãi đầu năm 1976 mới chào đời)

7.11.12

Trại Kiên Giam - Phần cuối




Những nhận xét về
Hồi Ký
TRẠI KIÊN GIAM
của
Nguyễn Chí Thiệp


Trại Kiên Giam có giọng văn điềm tĩnh, không căm thù, nhiều tính ghi nhận về các sự kiện trong đời ông và xã hội giai đoạn này, trong đó có nhiều hoàn cảnh tan vỡ và cảm động khi nhiều người trong gia đình và bạn thời Trung Học của ông hoạt động cho Cộng sản. Có nhiều suy nghĩ và phê phán chính xác về các chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Cộng sản. Có những nhận xét sâu sắc về các nguyên nhân sụp đổ của chế độ Sài Gòn và hướng suy tàn tất nhiên của chủ nghĩa Cộng sản …
Đây là tác phẩm xuất sắc, cần được trân trọng trong mọi tủ sách gia đình.
(Giao Điểm số 91)

Tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, nhân viên cao cấp VNCH, tù nhân cải tạo - Nguyễn Chí Thiệp thật đủ điều kiện để viết hồi ký cải tạo với cái nhìn rộng hơn nhiều người khác …
… theo ghi nhận của nhiều người đây là một tập hồi ký cải tạo giá trị, không giống với nhiều tập chỉ kể khổ và sự tôn vinh đã từng xuất hiện.
(Văn Học số 75)

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 20




Chương Hai Mươi

Tình cờ trước khi đi, tôi gặp một số bạn của thời trung học. Đặng Thao đến thăm tôi tận nhà. Cha của Thao là một giáo sư Việt văn của một trường trung học tư thục. Thao ngồi sát tôi, Thao làm thơ và đưa cho tôi đọc. Tôi không làm được thơ nhưng rất thích đọc thơ. Tôi khâm phục và yêu mến thi sĩ, họ là người được Thượng Đế ưu đãi cho một tâm hồn nhậy bén, phong phú và khả năng diễn tả làm rung động lòng người. Từ chỗ thơ, tôi được Thao cho mượn nhiều truyện đọc và có hôm Thao đưa cho tôi đọc cuốn ”Bàn Về Vấn Đề Thanh Niên” của Lénine, một số bài thơ của Tố Hữu và thỉnh thoảng lại một tác phẩm khác của các nhà lãnh đạo Cộng sản, một tuyển tập của Mao Trạch Đông. Thuở còn bé được đọc lén những tác phẩm của Cộng sản quả là thích thú và nhiều xúc cảm. Sau khi đưa tôi đọc. Thao hỏi ý kiến tôi về những vấn đề liên hệ trong sách, tôi trả lời Thao là tôi thấy điều Lénine và Mao Trạch Đông viết đáng suy nghĩ nhưng với tôi, Cộng sản luôn có một giới hạn mà tôi không vượt qua được. Cái giới hạn đó hình thành trong tôi không phải bằng lý trí mà bằng tình cảm, bằng những kỷ niệm ăn sâu vào ký ức của tôi lúc còn thật bé chưa cắp sách đến trường ở quê tôi làng Thanh Quít. Tôi kể cho Đặng Thao nghe về những điều tôi thấy lúc bé và tôi thù người Pháp, khinh người Việt Nam theo Pháp và ghét Việt Minh. Từ đó, giữa tôi và Thao có giới hạn- Thao không thuyết phục tôi nữa. Năm 1966, tôi được tin Đặng Thao vào khu khi đang học Sư Phạm Huế. Đầu năm 1976, Thao đến thăm tôi tại nhà, lúc đó, Thao là Trưởng Ban Chấp Pháp Quận Gò-Vấp, biết tôi trốn trình diện, Thao khuyên tôi cố tránh đừng để bị bắt, và theo Thao thời gian qua rồi mọi việc sẽ xóa hết và tôi có thể trở lại đời sống bình thường. Tôi biết Thao đến thăm tôi để hàm ý xác nhận với tôi là Thao đúng và tôi sai, hoặc Thao là kẻ chiến thắng và tôi là kẻ chiến bại. Ngay lúc đó tôi biết Thao là cán bộ Cộng sản nhưng chưa hiểu biết hết chế độ vì đối với Cộng sản không có việc thời gian sẽ xóa hết, vì theo lý thuyết Cộng sản, họ đấu tranh không khoan nhượng đối với kẻ thù, đã là kẻ thù của họ, họ sẽ đuổi tận giết tuyệt hay câu thúc mãi mãi trong nhà tù cải tạo, chỉ có khi nào chế độ đó bị loại bỏ thì mới xóa được.

3.11.12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 19




Chương Mười Chín

Tôi có ý định vượt biên từ khi ở trong tù, ra khỏi tù, ý định đó không thay đổi và trở thành một nhu cầu cần phải đi sớm chừng nào hay chừng đó.

Trước khi đi, tôi đến thăm Đoàn Viết Hoạt, anh được thả ra từ Chí Hòa sau tôi hai ngày. Gần 13 năm anh bị giam ở các nhà giam tại Sài Gòn, may mắn không phải đi thụ hình tại các trại lao động cải tạo. Tôi mến Hoạt từ khi mới gặp trong khu xà lim Sở Công An Thành Phố, trong lúc đa số trí thức Sài Gòn bị ru ngủ trong lý luận “một nước đã bị cộng sản hóa thì không đảo ngược lại được.”, thì Hoạt rất lạc quan, lần đầu tiên tôi nghe một người nói với tôi rằng cộng sản tạm thời thắng lợi về quân sự, nhưng sẽ thất bại trong chính trị và tình cảm dân tộc và con người. Trong lúc các bạn tù tiêu phí thì giờ bằng cờ tướng, học tử vi, kể chuyện kiếm hiệp hay tưởng nhớ quá khứ huy hoàng ăn chơi trụy lạc và ước mơ phép lạ Hoa Kỳ đến để tiêu diệt cộng sản, Hoạt làm việc, anh chia sẻ những điều hiểu biết cho những người tù trẻ tuổi, giúp họ nung đúc ý chí, rèn luyện phẩm cách, anh phân tích những điểm sai lầm phản tự nhiên của thuyết Marxism để truyền niềm tin là chế độ cộng sản không thể tồn tại, cho những người tù trẻ tuổi. Hoạt là một nhà giáo, từng du học ngoại quốc, anh quan tâm đến việc xây dựng một ý thức mới trong lớp người mới để phục vụ cho đất nước mai sau; tôi thấy anh thành công trong việc nhen lên một niềm tin cho các người trẻ và nhiều bạn tù trẻ tin nơi anh.

24.10.12

MỘT CHÚT TÂM TÌNH



                
            Một người bạn chuyển cho tôi bản tóm tắt bài nói chuyện của Tiến Sĩ
            Nguyễn Văn Lương. Sau đó lại thấy rất nhiều người trên nhiều diễn đàn
            khác nhau phụ họa. Bèn viết bài thơ cho đỡ ngứa ngáy.
            Phạm Đức Nhì


Ngày 30-4-2012, Tiến sĩ Nguyễn Văn Lương, chuyên gia kinh tế tài chánh tị nạn 1975 tại Hoa Kỳ đã phát biểu và thảo luận về chiến dịch ngừng du lịch Việt Nam, ngừng gửi đô-la Mỹ (hay còn gọi là chiến dịch xiết kiều hối) trên mạng PALTALK nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc hận 30-4. Bài phát biểu được tóm tắt thành 7 điểm:

1)      Đồng bào hải ngoại tị nạn không du lịch Việt Nam
2)      Dừng việc gửi tiền kiều hối quá mức về Việt Nam (chỉ gửi hạn chế không quá $50/tháng)
3)      Tẩy chay hàng hóa nhập cảng từ Việt Nam 
4)      Không ủng hộ, quyên góp cho các tổ chức tôn giáo, từ thiện, danh nghĩa tại Việt Nam
5)      Vận động chính phủ quốc gia nơi đồng bào cư trú ban hành đạo luật cấm gửi tiền và du lịch Việt Nam
6)      Du lịch và gửi đô-la Mỹ về Việt Nam là PHẢN QUỐC!
7)      Du lịch và gửi đô-la Mỹ là nuôi chế độ VC sống lâu thêm!



“Con ơi!
Đây là cây vàng
nhà mình có bốn chỉ
sáu chỉ kia mượn của bà con
lạy trời chuyến này con đi trót lọt
qua đó gắng đi làm
gởi tiền về trả nợ nghe con”
đó là hậu cảnh vượt biên
không đủ vàng, không đủ tiền
nên nhiều gia đình
phải chấp nhận hy sinh
người đi kẻ ở

với những người tù cải tạo
may mắn sống sót trở về
bị công an quản chế khắt khe
sống những tháng ngày khó khăn, thiếu thốn
khi được chương trình HO phỏng vấn
rồi lúc vui mừng bước lên phi cơ
“miếng khi đói, gói khi no”
không khỏi bâng khuâng
nghĩ đến ân nghĩa
của bao người đã ra tay giúp đỡ
có thể nói
hầu hết người Việt Nam
đang sống tự do nơi hải ngoại
đều ít nhiều mắc nợ người ở lại
món nợ ân tình

21.10.12

Ra đất Bắc


Trung thu này là đám cưới của Khánh Vy và Minh Đức, nhà của Đức ở thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Cũng như chuyến đi vào Sài Gòn trong dịp đám cưới Thục Vy, lần này chúng tôi cũng đi xe lửa cho rẻ tiền và an toàn. Đi xe lửa dễ chịu hơn đi xe ô tô vì được đi lại trên tàu, được ngồi uống trà, ăn cơm và trò chuyện cùng nhau.

Xe lửa VN vẫn còn rất thô sơ và lạc hậu, toa tàu cũ kỹ như của thời Đệ nhị Thế chiến, phòng vệ sinh bẩn thỉu, người ta xả xuống đường tất cả cho nên mỗi lần tàu dừng lại là cái mùi xú uế bốc lên ngộp thở. Nhưng khó chịu nhất là tiếng ồn, khi tàu tăng tốc thì như tiếng máy bay phản lực bay sát đầu rất kinh khủng, toa tàu thì rung lắc dữ dội, người nào lần đầu tiên đi tàu không khỏi phải sợ hãi.

Cả nhà tôi có 8 người, để tiết kiệm chúng tôi mang thức ăn theo. Buổi trưa chúng tôi ăn cơm với thịt xíu, buổi chiều ăn bánh mì chà bông, khuya thì ăn nhẹ bánh biscuit, hoặc uống sữa.

Chúng tôi hưởng được trọn vẹn cái không khí đầm ấm của một gia đình dù đang ở trên tàu trong một chuyến đi xa.

6.10.12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 18



Chương Mười Tám


Tôi được thả ra khỏi trại cải tạo Long Khánh ngày 13 tháng 2 năm 1988 tức là 26 tháng chạp năm Đinh Mão. Lần thả tù này được quảng cáo rầm rộ để chứng tỏ với dư luận trong và ngoài nước chính sách cởi mở của Nguyễn Văn Linh. Chúng tôi được xe đưa đến tận Ty Công An Quận Hai để nghe Phó Giám đốc Công An Thành Phố nói chuyện. Ngoài nội dung tuyên truyền về chính sách cởi mở, y lưu ý chúng tôi hai điểm, thứ nhất là đừng quá ngạc nhiên về sự thay đổi của xã hội và ngay cả gia đình chúng tôi, thứ hai đừng lo lắng về cán bộ công an phường quận, cán bộ những đoàn thể nhân dân sẽ thường xuyên thăm viếng chúng tôi tại nhà. Chúng tôi sẽ không bị quản chế và được nhập hộ khẩu tại thành phố ngay sau dịp nghỉ Tết. Không bị quản chế và được nhập hộ khẩu là những thay đổi rất quan trọng đối với người tù cải tạo được về. Trước đây một người tù về địa phương phải chịu chế độ quản thúc rất chặt chẽ, mỗi người phải giữ một quyển sổ ghi công việc hàng ngày và sự quan hệ tiếp xúc với người khác trong ngày, cuối mỗi tuần phải đưa lên công an phường để đóng dấu chứng nhận. Muốn đi khỏi địa phương phải xin phép, và chỉ được cho đi trong thời gian vài ba ngày. Người bị quản chế thường bị huy động đi làm những công việc lao động nặng nhọc và bị nhục nhiều hay ít tùy tính tình của những tên công an phường, xã, luôn luôn muốn chứng tỏ quyền uy trên người chiến bại. Có được hộ khẩu tại Sài Gòn không phải là điều dễ; trước đây người tù cải tạo về bị bắt buộc phải đi kinh tế mới, nếu nấn ná sống ở Sài Gòn là tạm trú và tùy vào khả năng xoay xở đút lót của gia đình cho trưởng công an phường xã và công an khu vực.

5.10.12

Trở lại Sài Gòn và Tây Nguyên




 Đã 22 năm rồi bây giờ mới trở lại Saigon và Tây nguyên.

Sau khi đám cưới của Thục Vy diễn ra thật tốt đẹp vì được bảo vệ bằng tình thương yêu và trân quý của thân hữu và các bậc trưởng thượng, tôi từ biệt đất Saigon với rất nhiều bịn rịn vì những tình cảm bạn bè nồng ấm, những cái bắt tay còn lưu luyến, những câu chuyện chưa kịp nói hết, những khuôn mặt thân thương chưa kịp nhìn trọn, những cuộc hẹn chưa thành, những ân tình chưa một lần đền đáp…

Rời Saigon lúc 7 giờ tối, sau khi chiếc xe “trung chuyển” chật vật luồn lách trên những đường phố đông đúc người để ra đến quốc lộ 1.

Tôi thở phào nhẹ nhõm khi được “xa” Saigon, vì tôi không thích nghi được với cái sinh hoạt quá náo nhiệt và bất hợp lý nơi này.

Đường phố Saigon quá nhiều người và xe cộ chen nhau, nó cũng giống với cuộc sống bon chen tại đây, không khí ngột ngạt vì khói bụi, những con kênh, những dòng sông chết bốc mùi hôi thối kinh khủng.

15.9.12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 17




Chương Mười Bảy

Về trở lại trại Z-30A, bị cùm trong xà lim không gì đáng kể, một phần đã quá quen, một phần sự kiểm soát ở trại tù không còn quá khắt khe. Mở, đóng cửa xà lim, đưa cơm, đều do trật tự cũng là tù nhân. Đó là anh Ngọc, cựu trung tá Dù, trưởng ban trật tự, giúp đỡ tận tình, cho đem đủ tiêu chuẩn ăn và thức uống. Ngoài ra, thuốc hút và thức ăn thêm do người bạn trẻ từ trại Xuân Phước là Phạm Văn Đồng gửi lén vào. Chỉ có ban đêm thì muỗi từ rừng ra quá nhiều và bị lắc còng kiểm soát không ngủ được. Cùm ở xà lim như vậy xem như tạm nghỉ dưỡng sức khỏi phải lao động.

Ra khỏi xà lim, Ánh, San, Ngọc và tôi được biên chế về đội 15, khu tù có án. Phân trại chia hai khu vực, khu các sĩ quan trình diện và khu tù có án, khu có án thêm một vòng rào kẽm gai, buổi trưa bị đóng cửa từ nhà một; khu trình diện, trong giờ nghỉ tù có thể đi lại với nhau tương đối thoải mái hơn.

10.9.12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 16




 Chương Mười Sáu

Phải trải qua một giai đoạn khó khăn hơn nữa trong đời tù nhưng tôi thật dửng dưng - không còn lo lắng như những lần chuyển trại khác, cũng không còn sợ gì nữa, đã hơn 11 năm trong tù, bẩy năm hai tháng ở trại Kiên Giam Xuân Phước. Trong đời tôi chưa bao giờ ở một nơi lâu như vậy; di chuyển đến một nơi khác cũng là một sự thay đổi cần thiết. Tôi cố nhìn tất cả cảnh vật hai bên đường đi qua, lần đi đến trại năm 1979 ngồi trong xe bít bùng không thấy gì. Con đường này trước đây tôi đã từng đi lại lúc làm Phó Quận trưởng Đồng Xuân này. Dân chúng làm nhà ở san sát hai bên lộ, xen lẫn đám nhà tranh lụp xụp là những ngôi nhà ngói kiểu bánh ích hai mái ngói và hai chái gần bằng nhau, đó là nhà của những cán bộ Cộng sản địa phương, được đãi ngộ ưu tiên mua vật liệu để làm nhà ngói; ngói và gạch mua của trại cải tạo do chúng tôi làm ra. Cộng sản đãi ngộ đảng viên và cán bộ của họ tận tình, dành mọi ưu tiên nên mức sống cán bộ và đảng viên cách biệt với nếp sống của dân chúng rất xa. Họ chủ trương làm cách mạng để xóa bỏ giai cấp, nhưng thật sự là tiêu diệt thành phần đối lập và tạo nên một giai cấp đảng viên, giai cấp của người cầm quyền, bất công hơn bất cứ xã hội nào khác trong lịch sử từ trước đến nay, kể cả chế độ phong kiến.

Trước kia con đường từ Chí Thạnh lên quận lỵ La Hai và con đường từ quận lỵ La Hai lên đến trại Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Tre thường mất an ninh, mỗi lần di chuyển vào trong các ấp chiến lược mới cảm thấy được an toàn.

8.9.12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 15




Chương Mười Lăm

Trại cải tạo có nhiều tù các nơi chuyển đến thì những hoạt động của các tổ chức chính trị ồn ào nhộn nhịp và hậu quả không tránh khỏi sự khám phá của an ninh qua sự báo cáo của hệ thống tù nhân làm tay sai vẫn lén lút cung cấp tin tức. An ninh biên chế những tù nhân bị liệt vào thành phần cứng đầu vào phân trại B, để thi hành chế độ cải tạo nặng nề và đồng thời chuyển một số người chúng nghi là có ảnh hưởng đến đám đông vào phân trại C để giam vào xà lim và cách ly. Tôi theo toán người vào phân trại B, ở vài ngày chưa yên chỗ thì được lệnh chuyển trại vào C. Phân trại C nằm trong một thung lũng hẹp cách phân trại B khoảng 3 km, theo đường núi ngoằn ngoèo vào xã Xuân Định, đa số là đồng bào sắc dân H’Roi, một sắc dân thiểu số chưa được khai hóa vì từ chiến tranh chống Pháp đến nay vùng rừng núi này thuộc Việt Cộng kiểm soát. Cán bộ chế độ Cộng Hòa chỉ hoạt động từ năm 1956 đến đầu năm 1958 rồi rút từ khi Việt Cộng bắt đầu có những hoạt động ám sát.

Qua một con suối cạn, một cánh rừng nhỏ, đến trảng tranh đầu thung lũng, nhìn lại tứ bề vách núi dựng đứng. Thung lũng trở thành như cái giếng cạn khổng lồ. Bề mặt thung lũng được san bằng phẳng, khu trại được xây hai bên con đường băng ngang, bên tay phải là trại tù, bốn bề có dây kẽm gai, hào sâu trồng cây xương rồng dầy đặc, bên tay trái cách cái ao nuôi cá là dãy nhà chỉ huy và nhà ở của cán bộ. Bấy nhiêu đó đã nói lên bao công trình của tù đã để lại, bao nhiêu mồ hôi đã đổ ra, và bao nhiêu tuổi trẻ đã nằm xuống, còn ghi lại bởi những nấm mồ nằm chi chít trên một ngọn đồi đầy cỏ tranh đất khô cằn không trồng được cả loại khoai mì H-34. Sau tù tàu Việt Nam Thương Tín xây dựng trại A, tù hình sự đến Xuân Phước xây dựng trại B, trại C và trại D. Họ phải chống lại nước độc và sương lam chướng khí và phải đẵn cây, san đất, xẻ đường với dụng cụ thật thô sơ và sức con người còm cõi vì thiếu ăn.


5.9.12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 14





Chương mười bốn

Lần nói chuyện với Tích thấy sự rạn nứt trong nội bộ các lãnh tụ đảng Cộng sản là có thực, và trong hàng ngũ đảng viên không còn tình trạng bưng bít và nói theo một chiều như những năm đầu nữa; bây giờ cán bộ có thể phát biểu những ý nghĩ riêng tư của họ, tôi nghĩ đó là một sự tiến bộ nếu nhìn chung trên quyền lợi đất nước, đối với đảng Cộng sản đó là một sự suy thoái đến độ trầm trọng. Một lời nói của một cán bộ cấp thấp chưa phải có giá trị hoàn toàn đúng nhưng nó phản ảnh một hiện tượng, về sự đồn đãi bàn bạc giữa cán bộ với nhau về các sự tranh chấp nội bộ, điều này trước kia không hề có trong nội bộ của một đảng Cộng sản. Tính chất của những đảng độc tài, cán bộ được huấn luyện có niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ và những điều lãnh tụ nói ra, đảng độc tài dùng động lực căm thù làm phương tiện đấu tranh và củng cố nội bộ nếu còn đối tượng tranh đấu, còn đối tượng căm thù tức là còn kẻ địch thì tất cả họ hướng về kẻ địch để tiêu diệt. Nhưng khi không còn địch thủ thì sự tranh đấu đó không thể nào hết đi được nên nó hướng vào bên trong tức là hướng vào sự tranh chấp nội bộ. Tôi hiểu thêm được một khía cạnh của vấn đề, những nhà lãnh tụ độc tài họ luôn luôn tìm ra đối tượng căm thù một phần để giữ vững tổ chức. Trường hợp Trung Hoa sau khi tiêu diệt hết kẻ thù giai cấp, không còn đối tượng cho đám đảng viên và đoàn viên trẻ tuổi đã được dạy tư tưởng Mao Trạch Đông, ông ta phải tạo ra cuộc Cách mạng Văn hóa để hướng tuổi trẻ Trung Hoa đấu tranh tiêu diệt những đồng chí thân thiết của ông đã trở thành những đối thủ, đó là những nguyên soái Tư lệnh các Quân khu và những người đang nắm giữ các chức vụ có thể tranh chấp quyền hành với Mao. Như vậy có thể tin tưởng được rằng sau khi Cộng sản hết kẻ thù trong nước và mối đe dọa từ bên ngoài, thì những cuộc đấu tranh nội bộ sẽ xảy ra và có thể làm đổ vỡ tổ chức Đảng. Một điều ghi nhận nữa là dù cho Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản cố tiêu diệt tính người trong cán bộ của họ, muốn đào tạo nên “con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”, họ dùng lối tuyên truyền bịp bợm để đánh lừa đảng viên, biến đảng viên thành ra cái máy chỉ biết căm thù. Họ đã thành công khi bưng bít tất cả sự thật, nhưng khi sự thật bị phơi bày, thì tính người của đảng viên Cộng sản lâu nay bị che khuất sẽ trỗi dậy và trong trường hợp có điều kiện nó sẽ gây nên những phản ứng có thể làm đổ vỡ tổ chức Đảng.