15.6.13

Những Hồi Tưởng A20: Nhà số 4


A20 Phạm Văn Thành


Tháng 10 năm 1994.

Tôi được gọi làm việc liên tiếp kể từ ngày 26 tháng 9. Nhân vật tôi phải đối diện không vào trong trại mà tôi phải bị dẫn xuất cổng để đi bộ ra tận ngoài Nhà Cơ Quan. Hôm nay đã là ngày thứ tư.

Đường vắng lặng. Đầu con đường này làm tôi nhớ như in cảnh anh Trương Văn Sương đầu đội một thúng dừa, đứng như trơì trồng bên cạnh đoạn đường khơì đầu từ cổng trại giam đế đi xuyên khu rừng dừa ra ngoài khu vực Nhà Cơ Quan trổ ra hướng cống xuất toàn khu vực để tiếp cận với không gian xã hội. Lần đó anh Sương bị phạt vì đã… hái dừa vô phép. Hình ảnh người tù cao lớn tóc rễ tre đứng dạng chân thủ giữ thúng dừa khó có thể phai mờ trong trí tôi. Bữa đó là bữa tôi cũng phải đi làm việc, do chuyện có những thỏi vàng miếng bị phát hiện trong một cuộc trao đổi bí mật đã diễn ra giữa một tù nhân nào đó (tôi nghĩ là của A Quí, một ngươì tù gốc Đài Loan, dính trong những phi vụ mang vàng - số lượng tính bằng tạ - ra vào VN bằng chuyên cơ từ Cambốt) với một “hòm thư” ngoài bìa trại. Tôi nhớ bữa đó tôi đã đứng lại gần chỗ anh Sương bị phạt. Người sĩ quan áp giải giục tôi bước đi nhưng tôi đã đứng lại khá lâu, nhìn chằm chằm vào thúng dừa mà anh Sương đang phải đội trên đầu, chân anh đã có biểu hiện rung. Tôi đi qua anh Sương tiến về phía nhà cơ quan. Khi đi qua anh Sương chừng khoảng hai chục bước, nghe rõ tiếng dừa đập mạnh xuống mặt đường đất. Tôi biết anh Sương đã qụy ngã. Không quay đầu lại. Tôi nghiến răng đi tiếp.Viên sĩ quan áp giải (tên là Luận nếu tôi nhớ không lầm, sĩ quan đặc trách tư tường) vài phút sau đã yêu cầu tôi đứng lại và ông ta vòng lại bên cổng an ninh, nói gì đó với đội sĩ quan trực trại. Tôi nghe thấy tiếng gọi tên anh Sương và tiếng nói nhẹ yêu cầu anh Sương nhập trại…



Hình ảnh anh Sương làm tôi có phần lãng ý, trong khi tôi hiểu cuộc làm việc hôm nay sẽ rất gay go. Hai hôm rồi, viên sĩ quan an ninh đặc biệt vào từ Hà Nội đã chính thức đưa ra lời yêu cầu: “Anh muốn gì cũng được, kể cả việc  chúng tôi sẽ chuyển anh vào K3 (tức Xuân lộc), từ đó tiến hành thủ tục giảm án…”. Để đáp lại yêu cầu ấy, tôi phải phủ nhận Bản Bạch Thư mà quốc tế đang loan tải. Đương nhiên là tôi sẽ không phủ nhận, nhưng sẽ phải kéo dài thời gian những buổi làm việc để biết thêm được những chi tiết phía sau. Bạch thư thì đã đến được nơi tôi muốn đến nhưng hai tệp tường trình và hai đợt danh sách (có cả địa chỉ gia đình của một số lớn tù chính trị, cả hai lần chuyển đi, tổng cộng 167 chi tiết nhân thân tù chính trị và đặc biệt là khoảng 18 tấm hình…) thì tôi chưa nắm được danh sách nào, tệp nào đã được đi đến nơi. Những bài thơ của Trương Nhật Tân và Vũ Đình Thụy đã đến  nơi và bà Thụy Khuê có cho chạy ở một chương trình đặc biệt trên RFI. Chương trình ấy anh em báo lại cho tôi, vừa báo vừa khóc. Chung thân Trương Tân là một trong những người ấy…

Sĩ quan trại tù tỏ vẻ rất sợ nhân vật an ninh vào từ Hà Nội. Y không mang quân hàm, không mặc quân phục nhưng cái mũ lễ y để trên nóc tủ mang viền dây màu cứt ngựa, từ đó tôi hiểu y là người của tổng cục bảo vệ chính trị . Y người tầm tầm, khoảng trên mét sáu và có vẻ  không tự tin lắm về thể hình của mình. Mặt trắng không chân râu, có thể được coi là đẹp trai nếu định nghĩa cái đẹp là sự bảnh bao, chau chuốt. Vai y hóp hẹp tố cáo tinh thần và thể lực chỉ là hạng xoàng nhưng chắc chắn là rất khôn ngoan, điều cơ bản của lớp đàn ông mang bộ mặt gà mái.

Tôi bước vào phòng sau khi gõ cửa và y lên tiếng yêu cầu vào. Viên sĩ quan trại lùi ra xa khoảng 20 mét, có một cái ghế đẩu để sẵn. Hai người sĩ quan bảo vệ võ trang súng dài ngồi ở hai chiếc ghế đẩu cạnh đường đi, phía từ ngoài cổng đi vào. Cả ba người chắc chắn sẽ không nghe được những trao đổi giữa tôi và viên an ninh tổng cục dù là hai cửa sổ đều mở.

Y có vẻ đã nổi cáu và yêu cầu tôi phải sửa sang lại quần áo tôi đang mặc. Lúc này, tôi mặc quần áo tù bên ngoài nhưng bên trong là bộ quần áo đà màu nâu. Áo đà và quần do chị tôi may gởi vào trại nên rất vừa vặn, trái ngược với quần áo tù là ngắn hơn nhiều so với kích cỡ người cao mét tám như tôi, nên áo trong thò gấu ra lớp áo tù. Tôi mỉm cười, thản nhiên vén bụng tháo dây luồn, không buồn quay mặt đi. Y bực lắm nhưng cố gượng giọng nói tôi nên tôn trọng y: “Anh đừng quên tôi là người đại diện quyền lực nhà nước”. Tôi làm như mình điếc, tháo rộng dây luồn để nhét áo nâu vào trong quần rồi xốc lại quần, thắt dây luồn. Đứng bất động. Ông ta quay đi tránh cảnh chướng mắt đó, khi quay lại, cục  adam nhấp nhô sau chiếc cố áo cồn trắng tinh, mồ hôi đã lỗ chỗ nhỏ giọt. Tháng 9, thờ tiết phía Nam hẳn đã làm cho ông quan nhàn hạ này đang rất bực  bội.  

-         Anh đã suy nghĩ về điều tôi đề nghị hôm qua ?

-        Tôi không nghĩ dễ dàng đến vậy. Tôi có anh em tôi, bạn bè tôi. Liệu ông có đưa hết về K3 được không ?

-        Anh làm ơn quên mẹ mấy đứa đó đi. Bạn bè gì ngữ ấy. Chúng chỉ lợi dụng anh. Đòi anh chia chác tiền bạc…

Tôi nghe giọng điệu này đã bốn năm ngày liền, dù rất tức nhưng cố dấu cảm xúc. Ấy cũng chính là nguyên do tại sao tôi đề cập đến viên sĩ quan này trong phần hồi tưởng của tôi, tôi đã dung chữ “y” để chỉ danh. Trong gần sáu năm tù, gần sáu năm bị điều tra liên miên, tôi chỉ dùng chữ “y” để chỉ danh ba tên cán bộ điều tra. Tên này, tên thứ hai là Lê Sáu trại 5 và một tên trung úy oắt con gốc Bắc ở trại B34.
-        Chị anh ở Hố nai  à ?

-        Thưa vâng. Tôi chỉ có một người chị. Đang sống tại Hố Nai.

Đòn tâm lý gia đình sắp được tung ra nhưng đã là thừa đối với tôi. Vì cũng tại căn phòng này, chỉ vài tháng trước đây. Tôi đã được dẫn ra, ngồi tại đây, một mình với một khẩu K54 cố ý để lòi bá súng ra trong góc tủ. Lúc ấy là mẹ tôi từ Mỹ về, cháu tôi đưa bà đến trại và khênh trên ghế như một chiếc băng-ca, vào đợi tôi ở nhà thăm nuôi. Lần ấy tôi không được gặp mẹ vì đang trong thời gian kỷ luật. Họ nói nếu tôi biết điều thì sẽ cho tôi gặp được chị. Còn mẹ thì tôi không có quyền gặp vì không có giấy xin phép của Bội Nội Vụ 2 (tức Nguyễn Văn Cừ / B34, Sài Gòn) cấp. Tôi nhìn cây K54 thò ra khe cửa tủ và biết ngay là một cái bẫy đã được giăng sẵn. Đối phương nghĩ rằng tôi sẽ điên lên khi biết mẹ mình đang nằm ở nhà thăm nuôi. Tôi hiểu, đối phương biết rất rõ, đã hơn 10 năm kể từ 1982, tôi không gặp được mẹ mình. Khi bà rời VN sang Mỹ là khi tôi chuẩn bị xâm nhập. Tôi ở Pháp, hoạt động đấu tranh gần như vô sản, tiền bạc không đủ để sang thăm mẹ tôi trước khi quyết định về nước. Anh em từ đội về buổi trưa đã báo việc mẹ tôi được khênh vào nhà thăm nuôi trên một chiếc ghế kiểu ghế băng-ca. Đây là một kỹ thuật cố ý rò rỉ thông tin gây phẫn uất cao độ trong tôi. Việc mất bình tĩnh mà giật cây K54 chắc chắn sẽ gây nhiều hệ quả vô cùng bất lợi cho tôi và cho anh em, vốn dĩ tình hình lúc bấy giờ đã rất nóng, một số bài thơ của anh em đã chạy trên RFI gây không khí phấn chấn trong anh em nhóm Bảo Vệ Danh Dự Tù Chính Trị nói riêng, anh em chính trị nói chung. Không khí đấu tranh bắt đầu sôi lên vì lần đầu tiên, thông tin A20 đã được dội lại từ các hãng thông tấn nước ngoài. Vang vang trên bầu trời quê hương lồng lộng. Anh em Việt Quốc, Đại Việt lập tức kết cụm lại và tỏ rõ  ý chí cật lực hỗ trợ và đây chính là một đường dây chuyền tin phát sinh sau cùng song song vơí đường dây độc lập của các tù nhân thâm niên (từ 1978) của Phong trào Liên Tôn  (LM Vàng), những nhân lực này đều ở thời kỳ sáp mãn hạn tù 18, 20 năm  và đang thủ giữ các  bộ phân  sinh hoạt trọng yếu của  trại A20, từ nhà máy đèn đến xưởng rèn, các công trình xây cất ngoài trại hoặc các nhà chăn nuôi… Chính họ là những ngươì đã băng qua bạt ngàn các đồi mía để đến với giáo dân một xứ đạo lân cận, ráp nối chuyền những bản tin sau cùng của nhóm tổ chức về tới Sài Gòn, lọt cả vào được một số lãnh sự quán để nhanh nhất tới được cơ sở Quê Mẹ và cơ quan Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, các hãng thông tấn. Sự đàn áp điên cuồng đã bị chặn dừng lại bởỉ sức mạnh của truyền thông quốc tế…

 “Nước ngoài biết thì quốc dân sẽ biết. Thế là tốt rồi”. Cả Trương Tân, Nguyễn Thành, Vũ Đình Thụy, Nguyễn Văn Trung… đều  phát biểu ý tưởng này. Tất cả đều chuẩn bị tinh thần vào buồng cùm kiên giam bất cứ lúc nào. Đây cũng là thời gian anh Hoàng Xuân Chinh (nhà giáo 16 năm / Quảng Nam) bị giao động. Đối phương tung tin mỗi bài thơ tôi chuyển ra ngoài, tiền dành cho tôi của “nước ngoài” hàng chục ngàn usd mỗi bài thơ ! Tôi hoàn toàn không biết có sự xáo động này cho đến tận khi cận ngày nổ ra vụ 28/10. Nguyễn Trung và Trương Tân đã đả thông được vấn đề mà tránh không cho tôi biết, để tôi tập trung ý tưởng cho việc quần thảo với bên an ninh.

 Không khí anh em trong lúc này đã rất căng nên chỉ trao đổi với nhau bằng mắt. Người tôi trao đổi các quyết định cụ thể chỉ vắn tắt qua ba người là Đỗ Bạch Thố, Phạm Anh Dũng Trần Nam Phương. Tất cả các quyết định đều thông báo rất vắn tắt trực tiếp cho Trần Nam Phương (tử hình xuống chung thân / Quảng Nam) trong những giờ tôi ra bờ giếng đánh răng hoặc tập thể dục. Nam Phương khai triển với Vũ Đình Thụy (20 năm +10 quê Phú Yên), Nguyễn Văn Trung (20 năm, quê Sàigòn, vụ linh mục Trần Hữu Hiệu và  Trần Văn Nguyện ), Trương Nhật Tân (Chung thân xuống 20 năm/quê Bình Thuận, Tin Lành, Vụ án Mặt Trận Phục Hồi Nhân Quyền VN 1980 ) và Trương Nhật Tân khai triển với Hoàng Xuân Chinh. Chinh khai triển với Trần Minh Tuấn (20 năm quê Bình Định). Tuấn lại khai triển với Nguyễn Đình Oai (20 năm quê An Khê là đường dây liên lạc chuyền tin dự phòng đặc biệt của nhóm, khi không còn con đường nào khác. Đường này nối với đường dây của giáo sư Đào Đăng Nhẫn (16 năm, nhẫn nhịn trong vai trò tên tù gác đêm, đã đến Mỹ).

-        Tôi cho anh thêm một ngày để suy nghĩ. Anh có thể về rất sớm với con anh nếu như anh biết thức thời. Tôi lập lại, anh chỉ là  con cờ cho người khác lợi dụng. Cái bản bạch thư ấy anh không đủ trình độ để viết nó. Chúng tôi biết rõ ai là ngươì đã thảo ra và anh là người chép lại. Họ cho anh được cái gì ? Mạng sống của anh à ?

Tôi phải rất nhẫn nhục để không tung một quả đấm vào mặt tên đàn ông mặt gà mái, mà với sự tức giận đang lên đến đỉnh điểm chắc chắn sẽ bóc hẳn hàm răng của y ra ngoài. Phải một lúc tôi mới nói được:

-        Cán bộ cho tôi thêm vài ngày. Đột ngột quá, tôi  không thể không bối rối.

-        Anh nghĩ chúng tôi sợ anh ư ! Anh lầm. Quốc tế chúng có quyền lợi của chúng. Chỉ những đứa khờ khạo mớ đi ăn cứt gà của bọn ngoại quốc…

Mặt y đanh lại, màu trắng như xanh đi vì tức, vì bị một thằng tù không chịu nghe lời. Y tức phần lớn vì y cảm thấy bị xúc phạm. Cảm thấy đường đường là một nhân lực quyền thế trung ương mà không bắt được thằng tù nhỏ nhoi phải quỳ xuống van xin mình. Y bước ra ngoài phòng, gọi  viên sĩ quan áp giải: “Dắt nó vào !” rồi quay sang bên cạnh, ngoẹo cổ phun ra một bãi nước bọt.

Tôi chào y, hơi cúi mình mà tay muốn run lên. Câu chữ “dắt nó vào” khô khốc đầy miệt thị ! Tôi hiểu, trong đầu y, y nhìn những người tù chúng tôi không bằng con chó con trâu nên mới dùng chữ “dắt”.  Tôi quay người bước đi về hướng cổng nhà tù, hai bàn tay co duỗi theo từng nhịp thở thật sâu kiểu ba thì, theo chân bước 15 bước là 15 nhịp hít vào, nén thở 15 bước và thở ra đúng nhịp 15 bước. Tôi muốn sắc mặt của mình hoàn toàn bình thường khi đứng trước đội an ninh trực cổng trại, tôi muốn vào buồng mà anh em không thấy sự tức giận đang cuồng nộ như muốn nổ tung phế phổi.

Viên sĩ quan áp giải yên lặng đi bên tôi, bước chân của kẻ không biết võ là gì, đầu chân tòe ra hai hướng, lệt xệt.

Cổng trại mở toang, cả đám an ninh đứng lố nhố. Trung úy Đa nhìn tôi ái ngại. Tôi mỉm cười chào ông ta mà không nhìn những người khác. Đây là viên sĩ quan mới vào từ Hà Nội, là ngườ có học hành đàng hoàng và ham đọc sách. Tôi thích ông này vì tìm thấy ở ông sự biết tôn trọng những người tù chính trị. Chưa bao giờ tôi thấy ông nặng nhẹ với anh em tôi. Ông biết tôi cho vàng một số cán bộ khác nhưng tuyệt nhiên không bao giờ tỏ ý muốn tôi giúp đỡ bất kỳ chuyện gì. Một lần tôi biết chuyện vợ ông ta (là người ngoài đảng, một giáo viên người Phú Yên, chuyện này gây cho ông ta rất nhiều khó khăn) than thở với mấy người tù đi làm rộng, về tình trạng bệnh rất nặng của mẹ ông ta ngoài bắc. Tin ấy đến được tai tôi và tôi quyết định nhờ một bác sĩ ở Sàigòn ra tận nhà mẹ ông ta để tìm cách chạy chữa. Tiếc là chuyện chưa thành công thì vụ nổ 28/10/94 xảy ra…

Về đến buồng số 3, tôi leo lên bệ chỗ của Bạch Thố nằm bẹp, không muốn nói chuyện với ai. Buồng vắng, đội 12 bên nhà 4 đi làm ngoài trại chưa về. Phương, Chinh, Thụy đương nhiên chưa vào trại.  Đội 3 nhà 3 còn đang nấu cơm, chia cơm dươí nhà bếp chính. Đào Đăng Nhẫn (cựu giáo sư Trung học Võ Tánh /Nha Trang án 16 năm) đem cho tôi ly nước chanh tươi. Ông leo hẳn lên ngồi cạnh, tay trái đưa tôi ly nước.

-        Làm cái, thằng-anh-hùng. Kệ mẹ nó chuyện ngoài cổng.

Tôi bật cười với câu nói coi trời bằng vung của ông anh giáo sư. Lão ngồi cạnh tôi, hai đầu gối như hai quả dừa khô đét, cười nhe cả hai hàm răng ra ngoài. Lão gầy quá xá gầy, đen đủi, chỉ có hai con mắt là cực sáng. Nhìn người anh mà tôi cực kỳ yêu quí, bỗng thấy thương dạt dào “lão gìa mất dạy”. Với tay lấy ly nước chanh. Tôi nói: “Anh em chuẩn bị tập trung, em sẽ gài để chúng tập trung anh em mình lại. Có vậy mới tựa nhau được”.

-        Liệu được không thằng-anh-hùng?

Tôi vừa uống vừa muốn sặc: “Quên cái chữ ấy đi bố, mệt thấy ông cố nội còn bắt nhau leo lên đọt dừa. Đây chỉ có một thằng anh hùng thôi. Hắn đi mất tiêu rồi…”.

-        Ai vậy ? Thằng nào mà ngon vậy ? Dám xưng hùng xưng bá ở cái đất ó đâm này ?
-        Tống, Lý Tống. Ổng đi rồi.

Nhẫn phá lên cười. Quỳ cả lên để ôm bụng. Ông bảo: “Thằng-anh-hùng cũng biết tiếu lâm quá mạng…”. Vừa nói vừa cười sằng sặc. Tôi biết lão hình dung ra chuyện Lý Tống vượt ngục và bị bắt tại trận trong một ngôi nhà đang xây sát bờ tường nơi một góc khuất của trại, và hình ảnh Lý Tống đánh nhau với ông Lê Văn Sơn, một người tù án chung thân của Phật Giáo Hòa Hảo. Tống đánh đến nỗi xé toạc cả áo Lê Văn Sơn. Ông Sơn trần trùng trục với chiếc áo tơi tả đi ra trình báo phía cổng an ninh. Ông Sơn lúc ấy cũng trên 60 rồi, râu tóc đã trắng gần hết. Ông Sơn bị cho là ăn-ten lại được trại bố trí vào nhà 3 làm nhà trưởng, kiêm đội trưởng đội 10 (là đội của tôi với Lý Tống, toàn hải ngoại). Với tôi, cảnh tượng ấy là cảnh tượng buồn, tôi không muốn ghi nhớ nhưng tiếng cười của giáo Đào làm tôi phải liên tưởng lại. Một cảnh tượng như hai con gà tồ đá nhau, vì cả hai đều ngang ngửa tầm cao của tôi, mét tám.(*)

-        “Thằng-anh-hùng” cũng biết đùa quá mạng... Lão-già-mất-dạy (*2) cứ lảm nhảm.

Tôi biết có nhắc, có không vui, lão ấy cũng cứ cù nhầy ba cái chữ “thằng-anh-hùng” để mong lôi tôi ra khỏi trạng thái muốn cô độc. Tôi hỏi sang chuyện khác:

- Lý Hổ đâu rồi cha ?
- Y ở dưới. Nãy tự quản có họp. Cả trực sinh lẫn trực buồng, gác đêm và các đội trưởng ở khu nhà này phải bám sát mọi hành vi của cậu.

- Thấy ông ta sao ?
- Khó biết…

Lý Hổ là người về từ Thái Lan cùng với ông Hoàng Cơ Minh. Là một y tá dự phòng của ông Minh. Người gốc Miên.

Trong nhà số 3, mỗi đầu buồng là một người trực đêm nằm thủ hai đầu nhà, phía hành lang. Hai chỗ nằm đầu nhà phía hậu, lối đi ra hầm phân hố xí là một người trực sinh (nằm sát tường nhà cầu /hố xí), đầu nhà phía bếp (nơi đối diện với chỗ nằm của giáo sư Đào Đăng Nhẫn) là của một nhân lực đặc biệt do trại phân bố, thường là tù hình sự hoạc tù tham nhũng, phía chính diện lối ra vào luôn luôn là nhà trưởng và hai ba tù kinh tế (tham nhũng). Đó là cách phân bố những vị trí trọng yếu của hầu hết các nhà có giam giữ tù chính trị. Lý Hổ với tôi khá thân vì từng là Việt Tân với nhau. Khi tôi vào trại, anh em Việt Tân rất quí tôi và Dũng Sơn, vì thấy chúng tôi không lợi dụng ai điều gì, trái lại, điều gì có thể sẻ chia, tôi và Dũng đều không ngần ngại. Anh em Việt Tân rất thiếu thốn, hầu hết không có thăm nuôi. Việc chia sẻ xảy ra hoàn toàn không có sự tính toán nào, nhưng trong bối cảnh tù, miếng ăn, viên thuốc… trở nên rất to tát, nên anh em âm thầm tìm cách trả ơn. Tôi nghĩ chuyện này cũng bình thường và tìm cách làm cho anh em đừng bận tâm về những chuyện ấy. Tôi cần tiền để chi phí cho những hoạt động của mình và đã nhờ các anh em Việt Tân khá nhiều trong việc chuyển tiền và chuyển vàng vào trại. Các anh em này chỉ biết việc đưa chuyển tiền (và đương nhiên có khoản phần trăm hào phóng) tôi làm điều này, vừa có thu nhập cho các anh em, vừa tạo cho anh em mất đi cảm giác mang ơn tôi và Dũng. 

Với ông Lý Hổ, tôi biết tâm tánh của ông là người bất tường. Ông nhu nhược trước quản giáo và giám thị trại, ông rất cẩn thận trong công việc trực đêm và là người rất tinh rất thính. Thường các buổi tối, tôi ngồi uống trà với ông trước khi về bàn trà của Lê Quí Hòa (võ sư / Huế). Bàn trà này là nơi tôi trưởng thành hơn rất nhiều trong cuộc đời lao lý. Thủ bàn trà chính là giáo sư Đào Đăng Nhẫn. Người gác đêm của nhà 3 cùng với Lý Hổ. Nhà 3 có một chiếc tivi đặt ở phía đầu tường gần nhà cầu/hố xí. Thường đêm đêm sau giờ tin tức là giờ phát hình phim chưởng hoặc phim xã hội Đài Loan được chuyển âm tiếng Việt, việc đài truyền hình tiếp vận (Huyện Đồng Xuân) dùng toàn thể loại phim xã hội Đài Loan để chiếu trên hệ thống truyền hình cũng là một giải pháp chiến thuật của chúng tôi. Vì giờ ấy, hầu như mọi ngươì đều tập trung ngồi sát chiếc TV để xem phim. Bản thân tôi cực kỳ ghét ba cái phim cao su kéo hết ngày này qua ngày nọ với những kiểu chuyển ngữ tạp nham… nên thu mình vào góc bàn trà cuối buồng với Đào Đăng Nhẫn và Lê Quí Hòa. Ở đây, tôi bắt đầu thu gom những ý tưởng muốn viết và nhờ vào “cái bóng” của Đào Đăng Nhẫn, tôi bắt đầu từng trang hồi ký, hoặc trong màn/mùng của tôi, hoặc dưới ngay góc khuất của bàn trà, hoặc sát cạnh chỗ thầy Tuệ Sĩ đang tọa thiền (ai cũng nghĩ tôi học tiếng Nhật với thầy Tuệ Sĩ). Tôi không có quyền dập xóa, cũng không có quyền coi lại. Viết xong trang nào sẽ có ngườ chuyền ngay ra ngoài buồng hoặc dấu một góc nào đó mà chính tôi cũng không biết. Hai anh em làm công việc này (hiện thời chưa thể công bố tên tuổi). 
Tôi không tin được ông Lý Hổ, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ là ông Lý Hổ đã tố cáo tôi điều gì. Có lần ông nói với tôi: “Cũng nhục lắm Thành. Nhưng sức tôi mà ra đào ao thì chỉ có chết. Lội ruộng cũng chết. Làm gạch lại càng chết hơn. Biết anh em coi khinh mình. Nhưng tôi không làm thì bọn hình sự chúng cũng làm. Anh em còn khó thở hơn…”. Tôi chỉ biết nói: “Cố làm sao đừng để anh em thiệt”. 

Tình cảm tôi với anh em Việt Tân thậm chí làm cho một số các anh án lâu ở trại có người bực mình. Một sĩ quan trung úy không quân người gốc Huế có ngón đàn rất ấm và ở vào hàng chơi chuyên nghiệp, chỗ nằm đối diện vói chỗ nằm của ông Lý Hổ, nói với tôi:

-        Thành có biết bọn đó là bọn giết người, giết lẫn nhau tranh sống hay không ? Bọn đó mà chính trị chính em cái gì ?

Tôi buồn lắm khi mấy anh lớn nói như vậy. Nhưng không cãi được, vì thật sự có chuyện đó xảy ra ờ kỳ Đông Tiến/Sang Sông 1. Lâm Thao đã bị lựu đạn đập vỡ đầu chết trên võng. Vàng bạc bị anh em mình lấy sạch để mong tẩu thoát… nhưng rồi tất cả đã bị bắt lại, trước tòa khai ra hết mọi hành vi. Ra trại, không ai dấu được ai điều gì ! Sang Sông 2 cũng có những cái chết xử lẫn nhau mà một trong những cái chết ấy, cái chết gây oan khuất và đau đớn tột cùng cho Đỗ Bạch Thố là cái chết của Trần Hướng Việt. Hướng Việt ngườiViệt sống ở Thái lâu năm, đi vào đoàn chiến đấu của tướng Hoàng Cơ Minh. Hướng Việt với Đỗ Bạch Thố thân nhau như anh em ruột. Trên đường xâm nhập tháng 8/87 Hướng Việt bị trúng đạn, Thố cõng Hướng Việt chạy nhưng rồi cũng kiệt sức. Lãnh đạo hành quân lúc ấy là Khánh / Trần Thiện Khải (cựu sĩ quan hải quân VNCVH về từ Mỹ cùng ông Minh) ra lệnh phải giết chết Hướng Việt. Lệnh ra cho Đinh Văn Bé (một tay súng đã hơn hai lần làm công tác xử tử anh em mình, bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều và chồng của Kim Huệ là Trần Tự Nhiên tại chiến khu  Ubon năm 1986), Đinh văn Bé lại lệnh cho Đỗ Bạch Thố. Thố bắt buộc phải giết chết Trần Hướng Việt. Lệnh giết là bóp cổ, không được dùng súng. Thố đã phải cởi giây giầy của Việt để đưa Việt đi, khi Việt vẫn còn nói được tiếng: “Đừng giết tôi”! Đây là câu chuyện thực, đã biết bao lần Thố dựng ngược người hét lên trong đêm, trong giấc ngủ nặng nề. Một lần, vừa kể với tôi, Thố vừa khóc. Thố bảo: “Đây là lần duy nhất tôi kể về một sự thật đã ám ảnh tôi bao năm nay”. Tôi biết, Thố rất yêu mến Hướng Việt. Mỗi năm, Thố đều âm thầm làm lễ cúng cho Việt. Không ai biết lễ cúng ấy là lễ dành cho Việt, cho đến khi Thố nói ra với tôi. Những buối trưa như vậy, Thố lại ngồi khóc một mình. Người lính rừng chai lỳ cận vệ của tướng Hoàng Cơ Minh suốt bao năm trường khốn khó nơi biên thùy đất Tam Biên, vai giật lên từng hồi, nghiến răng để không bật ra tiếng khóc. Đó là một trong những ngườ bạn tù thân thiết nhất của đời tôi.   

 Hôm sau, tôi tung cú đòn lừa với người sĩ quan an ninh đặc biệt vào từ Hà Nội. Yêu sách tù chính trị phải được sống từng khu riêng, cách biệt hẳn vơí tù hình sự và tù kinh tế. Tôi bắt đầu hiện nguyên dạng là một người làm chính trị.  

 A20 Phạm Văn Thành
Viết ngày 6/1/2013_Paris

____________
(*) tôi chưa bao giờ nghĩ ông Lê Văn Sơn  Phật Giáo Hòa Hảo làm ăn-ten, với tôi đây là kỹ thuật cô lập của trại đối với ông Sơn .
(*2) mất-dạy: giáo viên bị cấm dạy  học.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét