8.4.11

A20 TRẦN VĂN LONG Đã Đến Bến Bờ Tự Do



MỘT HỘI VIÊN HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM: TRẦN VĂN LONG SAU 20 NĂM TÙ ĐÀY ĐÃ ĐÀO THOÁT KHỎI NHÀ TÙ LỚN VIỆT NAM


Từ: Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước

Kính thưa quý vi hữu, quý chiến hữu và quý niên trưởng,

Cựu tù nhân Trần Văn Long, một tù nhân chính trị đã trải qua 20 năm trong các nhà tù của cộng sản Việt nam, ra tù đã đào thoát sang Thái Lan tỵ nạn. Từ Nancy, Pháp Quốc, nhóm phóng viên Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước đã liên lạc được với cựu tù Trần Văn Long và thực hiện cuộc phỏng vấn sau đây.

 (Ảnh: cựu tù Trần Văn Long và gia đình tại Trung Tâm Tỵ Nạn Bangkok)


PV.PTPNVNHDCN: Xin chào anh Long, thưa anh, tôi là An Khương, phóng viên của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước từ Nancy, Pháp quốc xin chúc mừng anh đã thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam. Thưa, xin anh giới thiệu sơ lược với độc giả của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước về nhân thân, được không thưa anh.


CỰU TÙ TRẦN VĂN LONG: Vâng, chào chị An Khương, tôi là Trần Văn Long sinh năm 1958 tại Vĩnh Long, biệt danh Long Rồng, là cựu tù chính trị với bản án chung thân, bởi tội âm mưu lật đổ chính quyền, nhưng nhờ vào sự vận động của Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế và sự can thiệp của các Tổ Chức Quốc Tế Nhân Quyền nên hầu hết anh em chúng tôi được phóng thích sau 20 năm giam cầm, tuy nhiên mang tiếng là được trả tự do, nhưng lại phải ở trong nhà tù lớn với mức án quản chế vĩnh viễn tại gia, tôi có thấy hơn gì đời sống trong nhà tù nhỏ đâu, ấy là lý do mà tôi phải tìm cách để vượt thoát ra khỏi cái nhà tù lớn đó.

PV.PTPNVNHDCN: Vâng, thưa anh, xin anh cho độc giả biết rỏ hơn về những hoạt động nào của anh khiến anh phải bị tù đày, cũng như những nhà tù nào anh đã phải trải qua và chế độ lao tù của CSVN như thế nào ạ?

CỰU TÙ TRẦN VĂN LONG: Dạ, thưa chị An Khương, cũng như hầu hết những người Việt nam yêu nước khác, sau khi Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, sau khi cộng quân Bắc Việt cưỡng chiếm miền nam vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 đó thì không phải chỉ riêng các sỹ quan, hạ sỹ quan và binh sỹ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cùng gia đình của họ chịu sự trả thù hèn hạ của đảng và nhà nước CSVN, mà hầu như toàn thể đồng bào Việt nam từ vĩ tuyến 17 trở vào đều trở thành nạn nhân của nền chuyên chính vô sản CSVN: Sỹ quan, hạ sỹ quan và đảng viên của các đảng phái chính trị tại miền nam thì bị quy thành ngụy quyền bán nước để rồi bị tập trung cải tạo mà không ít trong số họ đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn ở đâu đó tại những chốn nước độc rừng thiêng trong các trại lao cải mà đến nay gia đình thân nhân của họ vẫn chưa tìm được mộ phần của họ, còn hầu hết cư dân ở các đô thị thì bị lùa hết ra khỏi nhà, đưa đến định cư tại các vùng kinh tế mới nếu không phải ở những chốn nước độc rừng thiêng thì cũng là những nơi đồng chua nước mặn, để dành cửa nhà và tài sản của họ lại ở đô thị cho những lớp cư dân mới từ các tỉnh thành miền bắc XHCN chi viện vào để giúp làm cán bộ nòng cốt trong chiến lược cải tạo Miền nam và giúp miền nam sớm tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa, và với chiến lược đó từng đợt nam tiến cứ nối đuôi nhau đưa hàng triệu gia đình đảng viên CS ở miền Bắc XHCN vào nhuộm đỏ Miền Nam. Rồi tiếp nối là những đợt “Cải Tạo Tư Sản” bằng những chiến dịch đổi tiền, kê biên tài sản và hàng chục ngàn lương dân miền nam lại bị bắt bớ, bị tập trung cải tạo chỉ vì họ có nhiều tiền của, có nhà rộng cửa cao là “thành phần tư sản, là giai cấp bóc lột, là kẻ thù của dân tộc” nên “cần phải được chính quyền cách mạng nghiêm trị”. Đây là khoảng thời gian mà lòng người vô cùng ly loạn và là thời kỳ mà hàng triệu đồng bào Miền nam đã phải vượt biển đi tìm tự do mà không ít trong số họ đã vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển cả. Đó cũng là lúc chúng tôi thành lập tổ chức Nghĩa Quân Phục Quốc với khát vọng giải phóng đồng bào Miền nam khỏi họa cộng sản. Cũng bởi thiếu sự hậu thuẩn từ bên ngoài mà lại nóng vội trong việc phát triển lực lượng, nên tổ chức của chúng tôi đã tạo nhiều sơ hở do vậy mà đến năm 1977 thì tổ chức của chúng tôi bị bại lộ và đến ngày 27 tháng 7 năm 1977 thì tất cả chúng tôi đã bị bắt tại tỉnh Hậu Giang. Sau khi bị bắt chúng tôi bị giam giữ để điều tra thẩm vấn tại trại B4 Trà Ếch, trước khi cơ quan an ninh hoàn chỉnh hồ sơ để đưa chúng tôi ra tòa.

PV.PTPNVNHDCN: Vâng, thưa anh, thế rồi anh và những anh em chung vụ Nghĩa Quân Phục Quốc này bị chuyển ra trại Kiên Giam A20 Xuân Phước từ bao giờ a?

CỰU TÙ TRẦN VĂN LONG:
Dạ, thưa chị, chuyện hơi dài dòng chị ạ! Khi bị tạm giam và điều tra thẩm vấn tại trại B4 Trà Ếch hầu hết cán bộ điều tra là người Bắc Kỳ, được đào tạo nghiệp vụ điều tra thẩm vấn từ các nước cộng sản ở Đông Âu nên chúng tàn ác đến mức không tể nào hình dung nổi, hàng ngày với chiến thuật Xa Luân Chiến, chúng thay nhau tra tấn nhục hình anh em chúng tôi bằng tất cả mọi hình thức tra tấn dã man nhất mà chúng từng được học, để buộc chúng tôi phải khai thêm ra những anh em chưa bị bắt, nhưng vì không ai trong chúng tôi ai chịu khai báo gì thêm, nên việc tra tấn này cứ tiếp tục kéo dài từ tháng này sang tháng khác. Mà chị biết không ngày nào chúng tôi cũng bị treo lên trên xà nhà để chúng tha hồ tra tấn. Rồi một chiều nọ khi anh em chúng tôi vẫn đang bị treo trên xà nhà như thế, các cán bộ điều tra thẩm vấn tạm ngưng tay tra tấn để ra khu thể thao thi đấu bóng chuyền thì Chúa Mẹ đã ban cho chúng tôi phép lạ để cứu chúng tôi: Tôi bỗng nhiên phát hiện sợi dây thừng treo trói tôi bị lơi ra, nên tôi đã tìm cách tuột ra khỏi dây thừng và tôi đã mở dây giải thoát cho tất cả anh em đã bị treo trói cùng phòng, rồi anh em chúng tôi cùng phá khóa cho các phòng giam khác và giải thoát cho hầu hết phạm nhân khác trong trại giam B4 này. Anh em chúng tôi đã vượt thoát ra khỏi trại B4 thuộc khu vực Trà Ếch này suốt một ngày một đêm với nhiều hướng khác nhau trong các khu dân cư của vùng sông nước này nhưng chẵng may, địa hình của vùng Thới Lai, Cờ Đỏ, Phong Điền này quá hiểm trở, kênh rạch quá chằng chịt khó di chuyển nên chỉ sau một ngày bị truy bắt, một số anh em chúng tôi bị bắn chết và cuối cùng những người còn sống sót chúng tôi đã bị bắt trở lại hầu hết và ngay sau khi bị bắt trở lại, chúng tôi bị dẫn giải về khám lớn Cần Thơ tại số 8 Ngô Gia Tự, thành phố Cần Thơ, nơi đây chúng tôi cũng bị nhục hình bị tra tấn hết sức dã man, bởi cơ quan an ninh muốn biết ai là người chủ mưu trong vụ phá ngục và giải thoát phạm nhân này.

Dù bị tra tấn đến thừa chết thiếu sống để bức cung, nhưng anh em chúng tôi cũng chỉ một mực khai cho những người đã chết, nên không ai chịu án tử hình. Nhưng tất cả anh em chúng tôi sau khi ra tòa vào năm 1980, đều phải nhận mức án chung thân và bị chuyển ra và thọ án tại Thung Lũng Tử Thần A20 Xuân Phước, Đồng Xuân, Phú Khánh vào đầu năm 1981.

Cũng tại trại giam A20 Xuân Phước này, chúng tôi được thử rèn cùng các sỹ quan cao cấp của QLVNCH như Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến Võ Đằng Phương. Trung Tá Vũ Xuân Thông, Trung Tá Nhạc Sỹ Vũ Đức Nghiêm, Đại Úy Bác Sỹ Nguyễn Kim Long…, cùng các đấng Trưởng Thượng, khác như Linh Mục Nguyễn Luân, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, frère Phạm Quang Hồng, Linh Mục Nguyễn Văn Minh, Thượng Tọa Thích Thiên Minh, Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Bác Sỹ Nguyễn Đan Quế,…Đây chính là những người Thầy vĩ đại của những anh em tù nhân chính trị chúng tôi, đã đào luyện chúng tôi và nung đúc ý chí của chúng tôi để không ai chùn bước, không úy kỵ trước uy vũ của bạo quyền cộng sản để dù đang ở đâu cũng tiếp tục công cuộc đấu tranh giành tự do cho quê hương.


Sau 20 năm bị đọa đày trong các nhà tù nhỏ, tôi được phóng thích trở về với nhà tù lớn Việt nam năm 1997 với gia đình hoàn toàn tan nát, cha mẹ qua đời không thấy mặt, anh em ly tán không tông tích, với mức án quản chế tại gia vô thời hạn tôi vẫn âm thầm tiếp con đường mình đã chọn, móc nối lại với các anh em cùng tổ chức trước kia, công việc đầu tiên mà chúng tôi có thể làm được lúc bấy giờ là làm kinh tế để đùm bọc, trợ giúp những cựu tù chính trị và gia đình của họ đang gặp khó khăn do bị chính quyền địa phương bao vây kinh tế cũng như tổ chức thăm nuôi định kỳ các anh em tù chính trị “mồ côi”. Công việc thực hiện được hơn 1 năm thì chúng tôi lại bị chính quyền phát hiện, toàn bộ phương tiện làm kinh tế cũng như tài sản bị tịch biên, tôi bị bắt trở lại, bị tra tấn nhục hình bởi chính quyền CSVN cho rằng chúng tôi làm kinh tài cho Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam nhằm gây dựng nhân lực và tài lực nhằm âm mưu lật đổ chính quyền.

Sau hơn 1 tháng điều tra thẩm vấn nhưng không khai thác được gì, cơ quan an ninh điều tra bộ công an buộc phải trả tự do cho tôi với án mức quản chế tăng lên là không được làm bất cứ một ngành nghề nào, không được tiếp xúc thăm gặp bất cứ cựu tù nào và muốn rời khỏi nhà để đi khám chữa bệnh đều phải báo, phải trình. Trước đại hội đảng cộng sản Việt nam khóa 11 vào tháng giêng năm 2011 vừa qua và nhất là khi cuộc cách mạng Dân Chủ ở các nước Bắc Phi nổ ra, các cựu tù chính trị chúng tôi lại bị câu lưu, bị tập trung “quán triệt đường lối chính sách của đảng”, chúng tôi lại bị răn đe lại bị sách nhiễu bởi nhà nước CSVN thừa hiểu rằng chính chế độ nhà tù khắc nghiệt của CSVN đã không thể khuất phục được ý chí của chúng tôi, mà ngược lại còn làm cho chúng tôi quyết tâm hơn trong việc đấu tranh để thủ tiêu chế độ cộng sản, giành tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt.

PV.PTPNVNHDCN: Vâng, thưa anh rồi cơ may nào mà anh đã vượt thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam để đến được Thái Lan xin tỵ nạn và tình trạng tỵ nạn của anh hiện thời ra sao?

CỰU TÙ TRẦN VĂN LONG: Dạ, thưa chị, như tôi đã trình bày với chị rằng dẫu ra khỏi nhà tù nhỏ, nhưng tôi lại chịu án quản chế vô thời hạn, cho nên cho đến nay tôi vẫn chưa được nhập hộ khẩu, chưa có bất cứ một quyền công dân nào của một công dân Việt nam, vì vậy mà tôi hiện vẫn là người vô quốc tịch, con chúng tôi sinh ra không được làm giấy khai sinh, nên dầu đến nay cháu đã 13 tuổi rồi nhưng cũng không được học hành. Để chấm dứt tình trạng sống lưu vong trên chính quê hương của mình như thế, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam quốc nội đã liên lạc với Chi Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam ở Cambodia và Thái Lan nhờ giúp đở. Nhờ vậy chúng tôi được hướng dẫn cho đường đi nước bước và đến được Bangkok an toàn và đã trình diện với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc để xin quy chế tỵ nạn, trước mắt chúng tôi đã được cấp giấy tờ tỵ nạn và đã được bảo vệ quốc tế. Hy vọng tôi sẽ được phỏng vấn và được cấp quy chế tỵ nạn trong thời gian tới.

PV.PTPNVNHDCN: Thưa anh, xin cho biết là hiện nay điều kiện anh ninh và đời sống của anh ở Thái Lan như thế nào ạ?

CỰU TÙ TRẦN VĂN LONG: Dạ, thưa chị, không riêng gì chúng tôi mà ngay cả những người đã được cấp quy chế tỵ rồi cũng luôn bị đe dọa về phương diện an ninh, bởi Thái Lan là một quốc gia không ký công ước 1951 và nghị định thư 1967 với Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn nên cảnh sát di trú Thái Lan luôn xem chúng tôi là dân nhập cư bất hợp pháp và sẵn sàng bắt giam chúng tôi bất cứ lúc nào họ phát hiện ra chúng tôi vì vậy mà chúng tôi suốt ngày phải ở trong phòng và chỉ đi ra ngoài khi thực sự cần thiết. Hiện nay tôi đang ở cùng phòng với gia đình một cựu tù khác cũng vừa đào thoát đến Thái lan vào đầu tháng 2 vừa qua. Về pháp lý thì chúng tôi cũng được một mục sư người Việt đang làm việc cho một tổ chức quốc tế Speak Up For The Poor, hết lòng giúp đở nên mọi công việc đàm luận với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cũng không đến nổi quá khó khăn, đời sống vật chất thì tất nhiên là rất khó khăn, nhưng bù lại là chúng tôi đã được thoát khỏi sự kềm kẹp của chế độ cộng sản nên cũng thấy vui lòng.

PV.PTPNVNHDCN: Vâng, thưa anh thay mặt Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước, An Khương xin chúc anh và gia đình gặp vạn điều may mắn, sớm được cấp quy chế tỵ nạn và sớm đến được bến bờ tự do để tiếp tục con đường đấu tranh cho tự do dân chủ cho quê hương.

CỰU TÙ TRẦN VĂN LONG: Dạ, xin cảm ơn chị An Khương và Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước.





XÁC NHẬN VỀ CỰU TÙ CHÍNH TRỊ TRẦN VĂN LONG CỦA THƯỢNG TỌA THÍCH THIỆN MINH



XÁC NHẬN

Tôi Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Nguyên Hội Trưởng Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo VN xin xác nhận:

Trần Văn Long, sinh ngày 2/05/1958 tại Vĩnh Long,

Án: Chung Thân, địa chỉ cũ khi ra tù: Khu phố 9, phường Tân Biên, thành phố: Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trước đây có ở tù chung với tôi tại trại A20 (Xuân Phước, tỉnh Phú Yên) và trại Z30A (Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai)

Long là thành viên Hội Ái Hữu Tù Nhân CT và TGVN. Cùng vụ án “Chống phá trại giam” với tôi và BS. Nguyễn Kim Long tất cả đều tăng án. Long là một người tù Chính Trị học lực không cao nhưng có bản lĩnh và tư cách, một người nhiệt thành và trung kiên chịu đựng nhiều năm tháng lao tù và bị cấm cố biệt giam nơi trại thung lũng tử thần. Sau khi ra tù đời sống gia đình khốn bách khó khăn và luôn bị chính quyền o ép, sách nhiễu.

Kính mong các đoàn thể CT xã hội, các nhà hảo tâm, quan tâm giới thiệu, giúp đỡ hay bảo lĩnh để Long sớm được UNHCR cứu xét.

Số Điện Thoại Liên Lạc Của Trần Văn Long: +66859784047, +66859784057

Thích Thiện Minh


(*Quán Lá xin chân thành cám ơn anh Ngô Đắc Lũy đã chuyển đến gia đình A20 tin vui này.)


6.4.11

Đoàn Văn Xường



A20 Kiều Công Cự



Chân Dung Tác Giả





Sinh năm 1942 tại Quảng Nam. Gia nhập Khóa 22 (1965-1967), Trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam. Chọn Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến khi ra Trường và ở Tiểu đoàn 2, và Tiểu Đoàn 9 từ 22/12/67 đến 30/4/75. Đi tù VC từ 24/6/75 đến 1/4/85. Cùng Gia đình định cư tại Mỹ theo Chương trình HO 22 (22/11/1993). Đã qua tuổi về hưu nhưng vẫn còn đi làm. Rất mong ước có đủ sức khỏe, và đam mê để tiếp tục viết, và dịch những sách Quân sử VNCH.

* * *





Trong Tập san BĐQ số 29, phát hành tháng 5/2010, ở trang 64, có bài thơ “Em, Anh và Cuộc chiến” của Tịnh Nhiên, đã làm tôi xúc động. Bởi vì Đoàn văn Xường là người bạn cùng Khóa cuả tôi mà người con gái này đã quen, đã biết và nhớ rất rõ về cấp bực, chức vụ, đơn vị, và KBC của bạn tôi:

...Gặp được Em, cô bé mới lên mười
Đôi mắt thơ ngây má phúng duyên cười
Trong nhung lụa, em như công chúa nhỏ
Nào ai biết cuộc đời sẽ thay đổi
Rồi một hôm, cao nguyên kéo cờ rũ
Cha cô bé đã nằm xuống cho Cao nguyên
Thương cô bé vành khăn tang khi tuổi vẫn còn thơ...


4.4.11

LỄ TRUY ĐIỆU


LỄ TRUY ĐIỆU CỐ ĐẠI ÚY
NGUYỄN NGỌC BỬU VÀ
5 SĨ QUAN TRỐN TRẠI BỊ GIẾT

*Cố Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu khóa 25 trường Võ bị Quốc Gia là một Sĩ quan gan dạ, một cấp chỉ huy thương yêu binh sĩ dưới quyền... (Cựu sinh viên Võ Bị Đà Lạt khóa 23 Nguyễn Trọng Việt)
* “Tôi bị CSVN bắt giam 17 năm, tôi nghĩ rằng mình gặp thương đau và bất hạnh, nhưng qua tấm gương cố Đại Úy Nguyễn Ngọc Bửu và những chiến hữu của chúng ta đã bị quân thù giết dã man thì đấy mới chính là những hy sinh cao cả không thể quên được..” (Phan Tấn Ngưu, Chủ Tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam Cali).


Hiền Tài Phạm Văn Khảm đọc lời cầu nguyện



Châu Đạo California. 15/11/2009 (Hoàng Phúc/SGT) Trong một bầu không khí đầy đau buồn thương tiếc, thân nhân cố Đại Uy TQLC Nguyễn Ngọc Bửu khóa 25 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và thân nhân 4 sĩ quan khác đã có mặt tại Châu Đạo California, tọa lạc trên đường Chestnut thuộc thành phố Westminster, tham dự ngày giỗ và lễ truy điệu Cố Đại Úy Nguyễn Ngọc Bửu và 4 sĩ quan đã bị CSVN giết hại trong cuộc trốn trại vào năm 1980 từ trại giam Xuân Phước tỉnh Phú Khánh. 
Hội Ái Hữu trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đã phối hợp cùng một số Hội Đoàn cựu quân nhân và gia đình những người quá cố tổ chức trọng thể lễ Truy Điệu theo nghi thức Tôn Giáo (Cao Đài) vào lúc 12 giờ 30 ngày 15 tháng 11 năm 2009.  Nghi thức truy điệu gồm có phần dâng hương, Lễ Cầu Nguyện và điếu văn. 
Trong điếu văn, Cựu Sinh viên Sĩ Quan Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Nguyễn Hàn nhắc lại quá trình nhập ngũ, ra trường gia nhập binh chủng TQLC của Sinh viên Nguyễn Ngọc Bửu cho đến ngày anh được thăng cấp Đại úy chỉ huy một Đại Đội TQLC bảo vệ vùng giới tuyến 17 và từng chạm trán với những đơn vị lớn của CSVN là cả một quá trình dài và căng thẳng trước mưu đồ xâm lăng của tập đoàn CSVN từ miền Bắc, Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu đã chứng tỏ anh là một sĩ quan gan dạ, anh hùng cương quyết không chấp nhận để quân thù hành hạ sau ngày 30 tháng 4  năm 1975 cho nên đã tìm cách cùng một số anh em Sĩ Quan khác vượt ngục.  Nhưng không may cho anh và 4 sĩ quan khác không vượt thoát được và đã bị bộ đội và Công an đuổi theo bắn chết trên đồi Ma Hóa.  Ngoài Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu còn các sĩ quan khác là Đặng Lý Thông, Nguyễn Duy Đức, Trần Lưu Úy, Nguyễn Hùng Quân và Nguyễn Văn Minh bị thảm sát.  Nhiều năm sau đó thân nhân cố Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu và các sĩ quan khác mới tìm được thi thể  các nạn nhân đưa về quê mai táng.
Có mặt tại buổi lễ, ông Phan Tấn Ngưu, chủ tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam Cali ngỏ lời rằng: “Tôi bị CSVN bắt giam 17 năm, tôi nghĩ rằng mình gặp thương đau và bất hạnh, nhưng qua tấm gương cố Đại Úy Nguyễn Ngọc Bửu các sĩ quan khác của Quân Lực VNCH thì sự hy sinh của họ cao quý, đau thương và bất hạnh hơn tôi nhiều và chúng ta sẽ không bao giờ quên đi những tấm gương anh hùng đó...”. 
Một sĩ quan khác ông Nguyễn Trọng Việt khóa 23 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt kể lại một số kỷ niệm giữa ông và cố Đại Úy Nguyễn Ngọc Bửu trong những tháng ngày cùng chiến đấu bên nhau tại vùng hỏa tuyến và Ông Việt cho biết: Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu là một Sĩ quan anh hùng, thương yêu binh sĩ dưới quyền, luôn quên quyền lợi cá nhân cho quyền lợi tập thể binh sĩ dưới quyền chỉ huy của mình. 
Thân nhân cố Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu, bà Nguyễn Thị Mừng (chị ruột Đại úy Bửu) cho biết:  Sau khi em bà thi đậu Tú tài toàn phần, gia đình hỏi anh có lựa chọn chưa, hoặc tiếp tục vào Đại học hoặc đi làm?  Anh Bửu trả lời: Đất nước đang có chiến tranh, bổn phận làm trai là phải cứu nước.  Anh đã lựa chọn cho binh nghiệp, đó là vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.  Sau khi ra trường, anh đã lựa chọn binh chủng TQLC và ra ngay mặt trận.  Bà Mừng nói thêm: Cố Đại úy Bửu là một sĩ quan có một tâm hồn cao thượng lấy tập thể Quân Đội làm niềm vui của mình và Bửu chưa có thời gian hưởng hạnh phúc gia đình, anh chỉ mới có người yêu thì thảm họa đất nước ập đến anh cùng nhiều sĩ quan khác bị CSVN bắt giam.  Tính kiên cường, bất khuất anh không chấp nhận kẻ thù đày đọa nên tìm cách vượt ngục cùng đồng đội nhưng người em ruột thịt của bà đã ra đi không bao giờ trở lại với quân đội và gia đình. 
Hiền tài Phạm Văn Khảm, thuộc Châu Đạo California cùng Đại diện gia đình, Hội Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và một số Hội Đoàn cựu quân nhân khác cùng niệm hương trước bàn thờ Tổ Quốc và Di ảnh cố Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu, sau đó dâng lời cầu nguyện hương linh cố Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu và các sĩ quan bị thảm sát  cùng ông năm 1980 trong vụ vượt ngục tại trại giam Sơn Phước Tỉnh Tây Ninh. 
Buổi lễ kết thúc vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày trong niềm đau buồn thương tiếc những sĩ quan gan dạ của Quân Lực VNCH đã đi vào cõi vĩnh hằng trước vận nước tang thương của năm 1975.

(Tin Saigon Times)



3.4.11

CẶP LỰU ĐẠN "MINI"


A20 Nguyễn Văn Học


       Miền Nam, kể từ đầu tháng tư, trời hình như trở nên nắng gắt, có lẽ để chuẩn bị chào đón mùa mưa sắp tới, đâu đây cũng đã có rải rác một vài cơn mưa sớm.  Những cơn mưa đầu mùa như thúc dục nhà nông thêm tất bật dọn đất, ruộng, cho kịp thời vụ. Suốt một cánh đồng rộng, dài mút tầm mắt, những cột khói đốt đồng chừng như cũng mệt mỏi, rã rời vì nắng hạ, đang uể oải uốn mình bay lên nền trời trong vắt, cánh đồng về chiều bỗng trở nên vắng lặng, khi những người nông dân âm thầm thu dọn đồ đạc trở về.
       Gian quán đầu làng của Bà Ba lần lần đông khách, dân trong làng thường tụ tập vào buổi chiều tà.  Khi công việc đã tạm ổn cho một ngày, trên đường về nhà, họ gặp nhau uống ly cà phê, ly chanh đường giải khát, sau một ngày làm việc vất vả, trao đổi với nhau vài ba câu chuyện thời sự, chiến sự, chuyện làng xóm, chuyện mùa màng v..v.. Một số người có máu Lưu Linh, rủ nhau "lai rai ba sợi" cho ấm lòng, trước khi về nhà dùng bữa cùng gia đình. 
     

Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết


DUY LAM

Tặng Nguyễn Khoa Doánh với lòng tiếc thương vô hạn,
người bạn tù chết tại trại Hà Nam Ninh 1981.


Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Nắm không buông như níu kéo cuộc đời
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Người bạn tôi vừa rời bỏ cuộc đời
Chỉ vừa đây trong tiếng rên hấp hối
Anh cầu xin tìm hộ cho anh
Một chiếc kẹo vì anh thèm chất ngọt
Nhiều tháng năm chỉ chờ đợi lúc này
Ý nguyện ấy anh chỉ còn dám nói
Khi thịt da cái lạnh đã ngập tràn
Lũ chúng tôi cùng bạn anh chạy loạn
Trong trại tù miệng rối rít van xin
Một cái kẹo nhanh nhanh cho người bạn
Sắp ra đi mau mau kẻo muộn rồi
Trong tuyệt vọng vẫn thoáng niềm hy vọng
Mang kẹo về kịp lúc anh lâm chung
Đầy hoan hỉ tôi nhìn anh ngắm nghía
Trong bàn tay rộng mở kẹo vô tri
Nụ cười nhẹ trên đôi môi nhợt nhạt
Anh thầm thì ồ thú quá sẽ ăn
Chiếc kẹo này khi khỏe vui chi lạ
Sao nỗi vui chỉ nhỏ bé thế thôi
Rồi anh chết không kịp ăn chiếc kẹo
Nằm lặng yên trong những ngón tay xanh
Chúng tôi liệm anh im lặng nặng nề
Làn vải thô lớp quần áo thuở nào
Khi tôi cậy tay anh bàn tay mở
Chiếc kẹo rơi nằm nhẹ trên ngực anh
Đầy cẩn trọng trong nỗi niềm kinh hãi
Tôi nhặt lên để nhẹ cạnh bát cơm
Bên quả trứng món quà cho người chết
Chẳng bao giờ anh được nếm vị hương
Rồi chúng tôi tất cả đều nức nở
Nước mắt tuôn cứ mãi mãi chẳng ngừng
Khóc cho anh cho chúng tôi tất cả
Biết khi nào đến lượt biết khi nào
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Chẳng kịp ăn khi từ giã cuộc đời.

DUY LAM

(Tin Saigon Times)

Nhạc phẩm: "Chiếc Kẹo Nhỏ Trong Bàn Tay Người Chết"

Thơ: Duy Lam – Nhạc: Xuân Điềm – Trình bày: Đức Tuấn




Anh Xuân Điểm kể về bài tù khúc “Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết”:

“Nhà văn Duy Lam từ Bắc chuyển trại về Nam có tặng bài thơ nội dung nói về cái chết tức tưởi của đại tá Nguyễn Khoa Dóanh là bào đệ của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.

Nhà văn Duy Lam là người tù canh giữ trạm xá nơi đại tá Nguyễn Khoa Dóanh kiệt sức đang nằm chờ chết. Hôm ấy, đại tá Dóanh thều thào với nhà văn Duy Lam rằng ông thèm ngậm một viên kẹo trước khi lìa đời. Sau khi tìm được kẹo về thì đại tá Dóanh cầm chặt viên kẹo trong tay tỏ vẻ vui mừng nhưng không ngậm được nữa vì giờ chết gần kề. Khi nhà văn Duy Lam vuốt mặt lần cuối cho người bạn tù thì viên kẹo rơi ra khỏi tay và nằm trên ngực áo, Ôi! Thương thay, đến chết mà ước mơ thật nhỏ bé cũng không thành sự thật”. (Xuân Điềm)



25.3.11

Trường ca ngược về vĩ tuyến





Phong Điền


hôm ghé lại Phong Điền trời còn hanh nắng
thiết lộ im nằm theo nhịp thở thời gian
nhà xưa ven đường, dăm cành gãy khô khan
trơ trọi, gậm đau những căm hờn sót lại


Mai Lĩnh
qua Mai Lĩnh, lớp rêu xanh màu tê tái
những lỗ châu mai còn tức tưởi, cô đơn
là gió đông hay hồn tử sĩ chập chờn
ai gọi trong chiến hào chưa phai dấu máu
trời kéo mây đen, trời đè lên cổ tháp
vạch cỏ lau cố tìm lại dấu ngày xưa
giọt máu khô hay rêu mốc bám mùa mưa
ôi! Mai-Lĩnh đang im lìm trong mộ địa

Mỹ Chánh

Con sông vắt ngang, cây cầu nằm trơ đó
nước lũ một màu đỏ đục của bi thương
Mỹ Chánh âm vang, danh gọi một chiến trường
mùa hè, những khởi đầu trên con lộ máu
thoảng trong gió tiếng ầm ầm bầy đạn pháo
mưa bay bay nghe âm ỉ tiếng khóc than
gò đống xác người, chiến tích xếp hàng hàng
sông Mỹ Chánh chưa hết tanh mùi chết rữa

ta về đây, bạn bè xưa còn dăm đứa
sống lạc loài với mảnh đạn cũ trên thân
tuổi chiến trường già hơn tuổi để thành nhân
rồi tàn tạ khi tan hàng về quê cũ
dòng Mỹ Chánh còn như thương ngày chiến trận
bè bạn ơi! tóc đã bạc vẫn còn đau
Mỹ Chánh ơi! ta không dám mở miệng chào
đi lầm lũi, khóc cho một dòng sông chết



Thạch Hãn



























phong ba ngày trước, xác xơ thành quách cũ
trời lập đông làm rét buốt triệu anh linh
tường cổ lam nham dấu đạn, đứng nghiêng mình
máu ai đã chảy đầy con sông Thạch Hãn

Quảng Trị co ro trong đêm trường than oán
ta co ro quanh quẩn góc chiến trường xưa
nhà thờ Long Hưng pháo giặc phá ngày mưa
chết đứng bao năm rồi còn khoe dấu đạn
mùa hè khô trên con sông như lòng chảo
hứng hết đạn bom bên thành cổ quặn đau
ai nghe chăng theo ngọn sóng vỗ rì rào
lẫn theo gió tử thần đang vang tiếng hú


bạn đưa ta ngồi trên bến ghe ngày cũ
nơi vạn xác người chồng kín cả khúc sông
hôm nay lũ về, lũ của mỗi mùa đông
chắc chưa trôi hết nắm xương còn sót lại
ta đứng yên ngó dòng sông cuồn cuộn chảy
trong bạn bè có mấy đứa chết ở đây
chết mấy mươi năm, chết lạnh dưới mộ nầy
chỉ có nước, nước vổ về thân mất nước
bóng vó câu quân qua thành Đinh Công Tráng
như mờ mờ trong bom đạn nổ đâu đây
Quảng Trị ơi! Thạch Hãn hỡi! Cổ thành nầy
xương, máu, giang san còn gì khi tan trận?

Ái Tử

câu hát cổ vang trong đầu bên sông trắng
miếu đền xưa trên cát vắng xương còn phơi
dòng nước nghẹn ngào trôi theo tiếng à ơi
chiều sương lạnh nổi da gà qua Ái Tử
đồn lũy bao năm không còn gì dấu vết
nước mất nhà tan thành quách biết tìm đâu
một cái tên, từ đất chúa thuở công hầu
nghe văng vẳng giữa dòng trôi trong màu cát
ta buồn bã đứng bên cầu nghêu ngao hát
đất hỡi ! linh thiêng, đồi hỡi ! dựng cơ đồ
chinh chiến vạn lần, cồn cát vẫn nhấp nhô
như mộ vô danh của những người chết trẻ



Đông Hà


cũng nhà, cũng chợ, cũng quán nghèo cóc ổi
cũng âm u rờn rợn kiểu của Đông Hà
băng ngang cây cầu con sông nhỏ chạy qua
nhìn đất chết mới thấy thương thằng ở lính

Đông Hà, vùng đạn bom nhiều hơn cây cỏ
nơi trùng trùng không đếm hết bãi tha ma
hai mươi mấy năm, hết lớp trẻ đến già
vùi trong đất để thành người đi giữ nước

bây giờ mất, nói thế nào cũng lỡ mất
bây giờ đau, kệ, đau thêm cũng chẳng sao
chiều qua Đông Hà, ta thăm trước, thăm sau
thăm luôn cả những nhục, vinh còn ở đó

châm điếu thuốc tưởng tới người ra đi trước
rót một ly, nghe nóng mặt tiếc ngày xanh
đứng giữa Đông Hà nhìn quá khứ tan tành
trong căm hận muốn chửi thề dăm ba tiếng

cũng giống như mi, ta không còn vốn liếng
không có màu cờ để phủ lúc ra đi
chỉ là tạt ngang lượm lặt một chút gì
mà ngần đó thời gian dập vùi tàn nhẫn



Hà Thanh

tới cầu Hà Thanh ta giật mình nhớ lại
giọng hát của một thời xa lắc xa lơ
cũng chỗ nầy bạn ta chết lúc cuốn cờ
xác bỏ lại và được thiêu bằng bom lửa
ba mươi lăm năm với cuộc đời thối rữa
ta giống một thằng hề đi tới, đi lui
qua những địa danh nầy ta thấy không vui
chỗ nào cũng có bạn bè xưa nằm xuống
Quảng Trị! có phải ta về thăm quá muộn
như những con sông thoi thóp đợi đò ngang
nghiến răng trên vết thương cũ, buổi tan hàng
chảy đau đớn, khô dần ngang đường số một


Gio Linh


trên đất chết, cây khô, vườn không, nhà trống
ta nhìn Gio Linh thay áo mới mà thương
một chút phấn son không dấu nỗi đoạn trường
khuôn mặt lỗ chỗ còn đầm đìa nước mắt
về Gio Linh còn nghe bước chân chạy giặc
còn thấy trẻ thơ ngơ ngác đứng bên đường
bom tấn, pháo bầy cày xới chẳng tiếc thương
Gio linh chết, cái chết từ từ, đau xé
chợ Cầu già nua lưng còng chân nứt nẻ
nuôi một Gio Linh tàn tật mấy mươi năm
ôi! hôm nay ta đứng ngó, ngó thật gần
sờ da thịt Gio Linh tanh mùi máu giặc
đất khóc, người rên, cỏ cây nằm úp mặt
con trâu cái cày bương bã chạy về Nam
Gio linh chưa quên nửa thế kỷ lầm than
giờ cay đắng dâng xác mình ngày giặc tới




Trên Bến Hải





















ném viên sỏi xuống dòng sông Bến hải
đo độ sâu của xương máu bao năm
đứng giữa Hiền Lương đang khóc âm thầm
ta đang đạp trên lằn ranh vĩ tuyến

ôi Bến Hải, ôi Hiền Lương oan trái
tít mù xa cửa Tùng có kêu đau
bên này cầu ai ứa lệ nghẹn ngào
nhìn bờ Bắc ngày nào căm bóng giặc

nghe gió đông chuyển mình rung nhịp giữa
Hiền Lương xưa, chỗ này gãy làm đôi
dấu biên cương, là lịch sử mà thôi
giặc mấy lượt đưa quân tràn qua tuyến

ta vắt vẻo trên thành cầu sắt lạnh
Bến Hải đỏ ngầu sóng trước, sóng sau
ngó giang san lẫm liệt ngả một màu
tang tóc cũ mờ mờ trôi trên đó

người ta cố nối cho bền nhịp gãy
cố che lên lớp máu bám khung cầu
màu trắng thê lương này sẽ phai mau
hư cấu đó chỉ làm đau Bến Hải

dấu binh lửa trên làn ranh địa sử
dăm bận nghẹn ngào ghi hận xăm lăng
Hiền Lương xưa khóc suốt hai mươi năm
vết thương đó bây giờ còn mưng mủ

tới Bến Hải, ta nhớ ngày rách áo
xót màu cờ nên dừng lại bờ Nam
ngó Xuân Hoà một bãi cỏ khô khan
bên kia lộ kỳ đài không còn nữa

xoá di vết là sợ nhìn lịch sử
phá thành xưa thái độ kẻ bất nhân
đào mồ tử sĩ hành động vô thần
tội lỗi đó hãy gởi dòng Bến Hải

Thạch Hãn mang xương đổ đầy cửa Việt
Bến Hải căm hờn làm cửa Tùng đau
chiều ải quan mây đùn trắng một màu
ta hát khẽ một bài ca năm cũ


nguyễn thanh khiết
11-2010



(Nguồn: http://nguyenthanhkhiet.wordpress.com/)






22.3.11

Tìm gặp




Tống Phước Hiến


Tôi đã nếm những gì là vinh nhục
Nhục và vinh đã thử ghé vào đời
Vinh thì nhỏ, nhục đau nhiều vô kể
Qua nhục vinh tôi thấy được mặt người.

Xin cám ơn đời cho tôi dâu bể
Nỗi buồn vui in bằng dấu chân di
Mỗi vấp ngã thêm một lần chợt ngộ
Mỗi đoạn đường thêm viên gạch từ bi

Cây trỗ nhánh, đâm cành đơm hoa nở
Đời đổi thay như gió nhạt bâng khuâng
Cũng có lúc thử xòe tay bắt nắng
Nắng vuột bay thơ thẩn nhập trầm luân.

Đấng sinh thành, mãi miết đi rất sớm
Không có gì để được gọi trắng tay
Từ độ ấy, ngẩn ngơ cùng gió cát
Mắt vẫn thường ướp lệ dưới mi cay.

Tuổi hoa bướm chỉ nghe bằng ngôn ngữ
Màu tương lai bầm tím ngát chân trời
Tôi ngơ ngác đau vết roi nhân thế
Viết đời mình bằng những nét chơi vơi

Cây cỏ úa thèm nước sông hờ hững
Sông lững lờ xa cỏ úa bâng khuâng
Đá thầm hỏi giòng sông trong hay đục?
Sông thở dài tự hỏi đục hay trong !

Đời lẩn thẩn quẩn quanh màu trong đục
Năm tháng dài đuổi bắt chuyện đục trong
Rồi mệt mỏi đếm dấu chân trên cát
Bỗng vụt cười huyền ảo những ước mong,

Chân đã bước, tay ôm là đã sống
Tóc đổi màu pha dấu bụi thời gian
Mắt bảo chân cuộc đời là phía trước
Nhưng lắm lần chân lạc bước lang thang.

Đêm hôm qua, trườn tay rờ huyệt mộ
Nơi tôi về và từ đó tôi đi
Tôi bỗng thấy kim thời gian xoay ngược
Thấy đời mình trôi giạt giữa mê si

          Sinh nhật lần thứ 67 – 23.08.2010
            Tống Phước Hiến



18.3.11

cũng từ chuyện Tháng Ba Gãy Súng



Tưởng Niệm Cao Xuân Huy

ngồi đây nơi ngã ba tắt nắng
cô hàng ơi cho một cốc xây chừng
nâng chén muộn phiền đợi bạn
như có lời của gió mùa sang
gọi từ nghìn trùng xanh thẳm
xúm xít quanh đây
những hồn ma thức dậy
dưới trời chiều loang loáng máu tươi
tiếng ai điên dại nói cười
tháng Ba cửa Thuận An bẫy chết
những người lính Kình Ngư
Thủy Quân Lục Chiến
màu áo hoa rừng đẫm máu
giày trận rách bươm
xương tàn cốt rục
những mộ phần đào vội lấp nông
xác người lính Miền Nam
thua trận tháng Ba
tháng Ba cửa Thuận An
những bia thịt bấy nhầy
trước họng súng kẻ thù
lính, dân dồn cục rối mù
chiến trường nước mắt hận thù anh em
ôi những cái chết hào hùng
chưa một lần được biết
của người lính vô danh
THÁNG BA GÃY SÚNG đoạn đành
bốn bề biển nước loanh quanh chết dần
giữa bến chiều Cai Hạ
sau lưng kẻ thù rượt tới
vũ khí trên tay mà thêm nặng nợ
ĐẠN KHÔNG CÒN
lấy thân mòn chống lại kẻ thù
như con rắn bị chặt đầu
chiếc đuôi quẩy đạp ngập tầu máu xương
thế rồi giữa biển chiều thoi thóp
địa ngục vỡ toang
một người ngồi lại trên bờ cát *
giòng người tiếp tục chạy
một người nữa ngồi lại trên bờ cát
giòng người vẫn chạy
và những người khác nữa….
kết thành vòng tròn chết
quả lựu đạn nổ bung ở giữa
máu và xác người tung toé
đỏ rợn người nơi bãi cát trắng tươi
ôi Tổ Quốc tôi
bi thương man rợ
những người lính bơ vơ
đã chết một ngày như thế
những người lính cùng đường
đã bị bội phản
bán đứng thảm thương
bị bỏ lại giữa đường
cho kẻ thù tập bắn bia người
ngoài khơi tầu bè qua lại
trong bãi cát lầy
những vòng tròn chết vẫn dài ra
những tiếng sóng êm đềm vẫn vọng từ xa
giữa tiếng súng
tiếng lựu đạn
nổ tung trời cõi chết
một trời vô vọng
giòng người bỗng chậm dần ngong ngóng
rồi ngưng lại
đụ mẹ sao không chạy tiếp *
chạy con mẹ gì nữa cha ơi
ôi cửa Tư Hiền đã quá xa vời

CÁI TRỌNG TY

* trong ngôn ngữ Tháng Ba Gãy Súng




VIỆT- KIỀU


                                                                        Tống-Phước-Hiến
                                                                                                              *

    Cuộc chiến-tranh vừa qua, nhiều người lầm tưởng đã kết thúc vào 30.4.1975 và bị đánh giá là cuộc nội-chiến Nam Bắc, mà Cầu Hiền-Lương vắt qua giòng sông Bến-Hải, trên Vĩ-tuyến 17 là biểu-tượng cho một giai-đoạn xót-xa của lịch-sử. Thật ra, cuộc chiến-tranh đó vẫn được tiếp-diễn, nhưng theo thế-trận khác và ý-nghĩa cũng được nhận-định lại đúng đắn hơn !

Sau 30.4.1975 Cộng-sản phơi bày chân-tướng là một lũ phỉ quyền tham ác lưu-manh; nên Người Quốc-Gia giành đoạt được chính-nghĩa và tiến-hành cuộc chiến-tranh giải-phóng Dân-tộc hầu có điều-kiện đưa đất-nước đến phồn thịnh, nhân-dân được tự do. Trận quyết đấu nầy, người Quốc-Gia đang thắng-thế, từng bước chứng-minh Cộng-sản Việt Nam là tội-phạm nhân-loại, là tội-đồ Dân-tộc. Nhưng bỗng nhiên hàng-ngũ chúng ta có hiện-tượng giao-động, địch biết tránh né, thoát hiễm. Thì ra, chúng ta đang bị một loại “nội thù” rất nguy-hiểm mà mọi người thường gọi bằng tên nghe khá hiền lành “Việt-kiều” !.

Tất-cả những người Việt Nam (VN), nếu không là bọn có quyền thế sống hoan-lạc trên nỗi thống-hận Dân-tộc, và nếu có điều-kiện đều phải đành lòng chấp-nhận gian-nan, nghiệt-ngã, nguy-hiểm, đau nhục để đào thoát ra đi. Sóng nước đại-dương, rừng sâu, hải tặc, thổ-phỉ…... không cản ngăn được ý chí. Họ đào thoát khỏi Cộng-sản dưới nhiều hình-thức như vượt biên, vượt biển, con lai, bảo-lãnh đoàn tụ, cựu tù nhân (H.O), Cựu nhân-viên Chính-phủ Hoa-Kỳ (U.11), thuyền-nhân hồi hương (ROVR); đào tỵ khi xuất ngoại như công-tác, biểu-diễn nghệ-thuật, thi đấu, công-nhân trong chương-trình"xuất-khẩu lao-động"; ngay cả những du-học-sinh hay du-lịch… v.v...phần đông trong thâm tâm họ cũng mơ ước cho toàn dân Việt Nam thoát khỏi ách nạn Cộng-sản.

    Ðối với Việt-cộng (VC), những người hội đủ điều-kiện được tái định-cư ở nước ngoài khi trở về Việt Nam đều bị xếp vào loại người có danh xưng là “VIỆT-KIỀU” (VK).


13.3.11

Thư Gửi Anh Em A-20 (bài chót)



A20 Vũ Trọng Khải 

Anh Em A-20 Thân Quý.

Thưa Quý Anh,

Đến bài này, tôi xin vào ngay sự việc đã hứa với Quý Anh và Anh Phạm Kim Minh, và xin một lần nữa cảm ơn Anh Phạm Kim Minh đã chuyển bài viết của Ông Nguyễn Đình (ngoài Emailgroups của chúng ta ).

Đó là việc liên quan đến lá thư của Ông Nguyễn Đình Bình, cựu Chánh Thanh Tra Giám Sát Viện của VNCH, nói về cái chết trong tù của Đại Tá Sơn Thương.

Thưa Quý Anh,

Trước đây vài năm , khoảng trên dưới 7 năm gì đó, tôi không nhớ rõ.

Nhân dịp gặp một người Bác Họ của tôi, Ông có đề cập đến dư luận cho rằng Đại Tá Sơn Thương chết trong tù là tại Vũ Thành An (VTA).

11.3.11

Thư gửi Anh Em A-20 (bài 1)



A20 Vũ Trọng Khải

Anh Em A-20 thân quý,

Đích thực, các Anh là những Anh Em Thân Quý của tôi.

Vì thế hôm nay tôi cần phải thưa cùng các Anh đôi điều, mà đáng lẽ, tôi đã phải trình bầy từ lâu … từ khi tôi phản bác bài viết  “CON NGƯỜI TA CÓ DUYÊN SỐ HAY KHÔNG” của A-20 Toại Chí.

Rồi đến việc tôi chuyển lời mời Anh Em A-20 San Jose tham dự lễ tưởng niệm Chiến Sĩ Hoàng Sa cùng buổi nói chuyện của Luật Sư Nguyễn Thành.

Cả hai sự kiện này tôi đều bị nhiều Anh lên tiếng trách móc (tôi còn lưu giữ những Email ý kiến của Quý An ).

8.3.11

TẠ ƠN MẸ




Quán Lá cũng xin giới thiệu cây viết Nguyễn Thụy Giáng Sinh là ái nữ của A20 Nguyễn Văn Học. Để chúng ta thấy rằng A20 “hổ phụ sinh hổ tử”.



TẠ ƠN MẸ


Vài dòng tâm sự với các bạn đồng trang lứa, về những người Mẹ của chúng ta.

Nguyễn Thụy Giáng Sinh.



        Năm nay tôi vừa tròn ba chục tuổi, sống ở Mỹ gần mười ba năm, đã có chồng và một con, về công việc học hành cũng như làm ăn sau ngày ra trường. Tôi cảm thấy không có gì phải phàn nàn cuộc đời cả - Tôi biết, sở dĩ cuộc đời tôi được mọi chuyện tốt đẹp như ngày hôm nay, ngoài sự an bài của Thượng Đế, còn có sự tài bồi, lo lắng của cha mẹ, nhưng đặc biệt hơn hết là của Mẹ - Tôi chỉ dùng một tiếng Mẹ, mà không dùng mẹ tôi, vì e rằng các anh chị cho là tôi giành hết mẹ chăng - Tôi có tới sáu anh chị em, và người nào trong chúng tôi, cũng đều có những ý nghĩ, tình cảm riêng thật đậm đà đối với Mẹ - Điều này chắc hẳn anh chị em chúng tôi cũng giống các anh chị mà thôi - Riêng tôi cảm nhận được tình mẹ đối với tôi thật bao la, bát ngát, có thể nói hầu như lúc nào cũng bao trùm hết cuộc đời tôi, khi thì bàng bạc như sương khói, lúc lại nồng nàn, ấm áp như nắng xuân. Từ khi có trí khôn, tôi chỉ biết có Mẹ, và duy nhất chỉ một mình mẹ - Mọi chuyện tôi đều trông cậy, phó thác nơi Mẹ, từ khi còn ẵm ngửa, đến lúc hiểu biết và cả khi đã khôn lớn.
     

7.3.11

Ngậm Ngùi Tuổi Hạc


  
Chia tay nhau từ những năm sau 1980, A20 Nguyễn Văn Học đã bay một mình giữa trời gió bão
Hôm nay anh  về Quán Lá, căn nhà của những cánh chim đã mỏi, bằng bao năm chinh chiến, bằng bao tuổi ngục tù, A20 Nguyễn Văn Học đã viết lại trăn trở của mình từ những năm 2008, anh viết cho anh, cho bè bạn, cho thế hệ mai sau.
 Quán Lá mời các anh lắng nghe tiếng kêu gần như tuyệt vọng của con hổ ngày xưa trên chiến trường đẫm máu, tiếng kêu dưới màu cờ mà anh đã một đời dâng hiến cho đến ngày buông tay, Hãy lắng nghe tâm sự của một A20 từng chia với chúng ta ngọt bùi suốt những tháng năm trong Trại Trừng Giới .


Ngậm Ngùi Tuổi Hạc

A20 Nguyễn Văn Học


       Cuộc đời tỵ nạn đã là những chuỗi ngày bàng bạc nỗi buồn - Đến mùa Quốc Hận, nỗi buồn tăng thêm cường độ, vì những kỷ niệm đau xót lại trở về - Đầu óc cũng trở nên lãng đãng bởi những suy tưởng về ý nghĩa cuộc đời.

       30 tháng Tư năm 1975 đến 30 tháng Tư năm 2008, đã qua 33 năm - Những chàng trai phương cường, những thiếu phụ xinh tươi thuở ấy, tuổi ngoài ba chục, đến nay đã tròm trèm bảy chục - Gần bảy chục tuổi của các ông, bao gồm cả thời gian đại hạn, khổ sai trong lao tù cộng sản, đa số bề ngoài cũng đã hom hem lắm lắm . Trong những người hom hem đó có tôi - Chuyện này không làm tôi buồn, vì bè bạn, nhiều người giống mình, nên gặp nhau, chẳng có gì lạc lõng, cứ vui cười thoải mái.