Ta từng có một thời làm
lính trận
Súng đạn, ba-lô
trĩu nặng đôi vai
Tuổi đôi mươi sá gì đời sương gió
Mộng sông hồ cho thỏa chí
làm trai
Ghìm tay súng
nơi tuyến đầu lửa đạn
Ngăn quân thù gieo tang tóc đau
thương
Mong quê
hương nhà nhà vang tiếng hát
Cho mẹ già, em gái bớt lệ vương.
Rồi từ đấy đi vào
miền gió cát
Mảnh chinh y thấm máu
bạn, máu thù
Có những lúc dừng chân
nơi lũng thấp
Tiễn bạn mình
vào chốn nghỉ thiên
thu !
Đêm từng đêm dừng quân trên đất địch
Dưới chiến hào
đợi giặc lúc
trăng lên
Chợt một thoáng
mơ về nơi phố thị
Nhớ người yêu
ta thầm khẻ gọi tên
!
Nhưng quê cũ
vẫn một màu
tang tóc
Súng đạn quân thù xé nát làng
quê
Đất nước đau thương ngập tràn
tiếng khóc
Lính trận ra đi, đi mãi không
về.
Tháng tư đến trong nghẹn ngào
uất hận
Ta vào tù
biệt xứ tận biên cương
Mình mất nhau khi tàn
cơn binh lửa
Và cuối cùng… đánh mất
cả quê hương !
A20 Lê Phi Ô
|
1.4.16
Một đời lính trận…
21.3.16
Cao Lãnh và bạn ta
Bạn đón ta khi trời gần tắt nắng
sau chuyến qua phà thấm mặn mồ hôi
vất vả chi dù vạn dặm xa xôi
thấy được mặt nhau là quá đủ rồi
thuở chung chiếu đoạn trường - còn chi nói
kẻ chết nhiều hơn đứa sống lất lây
gặp nhau thì đủ thứ chuyện trời mây
nhắc tới y như mình vừa ở đấy
mới rửa mặt đã bày như tiểu yến
mồi đưa cay vàng hực chuột nướng lu
hễ gặp nhau là chén tạc chén thù
kệ - ngươi rót không lẽ ta thúc thủ
uống thì uống nhưng chỉ say vừa đủ
để còn nghe bạn khóc nước thương non
bởi tại ngươi sinh ra để sống còn
vác đao mài kiếm không cần lựa chọn
ngươi đón ta như tên khùng thất trận
nói nói, cười cười cho hết cuộc chơi
dẫu sao ta, ngươi cũng thua lâu rồi
không cơ hội làm bàn như lính mới
mai ta đi, đi khắp vùng lục tỉnh
để nhớ về tuổi trẻ lỡ mất đi
bởi sợ rồi đây ta chẳng còn gì
khi vắt kiệt nhiều năm làm chốt thí
đừng tiễn, chớ đưa - khỏi cần bịn rịn
cứ như là gặp lần cuối - vậy thôi
cám ơn ngươi - chuột nướng lu làm mồi
Cao Lãnh và ngươi cần gì phải nói
A20 nguyễn thanh khiết
Về Cao Lãnh thăm A20 Lâm Mỹ Thuận
tháng ba -2016
13.3.16
Chí Cả Chưa Cùn*
Thép làm gươm vì được tôi trong lửa
Người thành nhân nhờ khéo luyện trong tù
Ta gặp nhau đâu phải chuyện tình cờ
Từ mọi nẻo đấu tranh giờ hội ngộ
Trong đêm tối những vòng tay rộng mở
Gửi đến nhau niềm thông cảm vô bờ
Mắt long lanh sáng lên từng tia lửa
Rạng rỡ ngọn cờ chính nghĩa tự do
Sắc thép chừ trong tay giặc
Máu nóng chừ trong tim ta
Ngày đêm chừ đày đoạ
Chí cả chừ đơm hoa
Ta biết vui vì đời đang kết quả
Có đêm nào dằng dặt chẳng qua đi
Thân hao mòn nhưng sáng ngời chí cả
Bàn tay gầy cùng nắm chặt tương lai
Hẹn nhau đây mùa sau về mở hội
Ly rượu nồng nhắc nhở chuyện hôm nay
Có những tháng năm ngục tù tăm tối
Để có ngày cờ ta lại tung bay
A20 Vũ Mạnh Dũng
Trại Xuân Phước A20 1981
(ghi lại theo trí nhớ của A20 Lâm Mỹ Thuận)
*quán Lá đề tựa
28.12.15
Vì Chúng Ta Là Người Việt Nam
A20 Tống Phước Hiến
- Tưởng Niệm trận Hải Chiến Hoàng
Sa
giữa Hải Quân VNCH và Hải quân
Tàu cộng cướp nước VN
- Nhân đọc bài viết của cán binh cộng sản Bắc
Việt viết về nỗi lòng của họ đã tham gia trận cưỡng chiếm VNCH
Tổ Quốc chỉ là một,
Đừng
lấy địa lý… núi sông...
vạch
làn ranh ngăn cản,
phân
chia da thịt, máu xương.
Lịch
sử điểm danh
Bên
này - Bên kia, bằng:
Phản
bội - trung trinh ,
tim người - tim thú
Cũng
có lúc,
tôi
ngỡ,
những
kẻ bên kia hào chiến tuyến,
trái
tim họ chỉ làm máu chuyển hận thù,
lên
não, xuống gan?
Đêm
về, miên man tự hỏi:
Nổi
ác trong anh, không bao giờ mệt mỏi?
Rồi
tôi hiểu,
Nỗi
ác, là biểu kiến của trái tim lạc lối,
bởi
cường quyền dùng bóng tối,
bủa
vây chân lý,
trong
xã hội chai lì,
cái
ác lại trở thành chân lý!
Nhưng
chân lý, ngàn đời vẫn là chân lý,
Dù
bị vẽ vời, bị bẻ quẹo quanh co.
Thì
chân lý vẫn là áo ấm cơm no,
là
khóc cười cùng nhân gian hỷ nộ!
Khi
trí khôn bớt đi phần hoang ảo
Và
tim hồng, nồng thêm độ xót xa.
Tôi yêu nước Việt,
thiết tha !
Trải
bước chân theo khóm lúa bờ tre,
Từng
viên đạn nhắm vào nhau
cũng
bởi thương con đê, dãy núi.
Bây
giờ,
đạn
bom là âm thanh dĩ vãng,
Các
anh về xóm cũ đường quê,
thôn
trang tan tác.
Ngơ
ngác tương lai.
Chiến
tranh xưa, máu tim thủa ấy,
Khóe
mắt cay,
bàng
hoàng tin cháu bé:
Bán
thân mình trên đất lạ mỗi ngày.
Những
cụ già lê lết, thân gầy,
không
áo cơm, quạnh quẻ bên lề.
Hoàng - Trường sa, Biển Đông giặc
cướp.
Cao
Nguyên - Trường Sơn đỉểm cao chiến lược
Giặc
xây xong chiến lũy ém quân.
Phố
Tàu ngỡ ngàng đất mẹ.
Mười
sáu chữ vàng chiếc phù điêu mật lệnh.
Giặc
Tàu hung hăng ngỗ ngáo,
Kẻ
nội thù hèn ương với giặc, hiếp ác dân lành
Ngang
ngược, những lâu đài ngất ngưỡng
Cưỡng
hiếp, tham tàn, hạnh họe, lưu manh.
Các
anh mang nỗi buồn miên viễn
Thời
trai trẻ ngã hồn theo bóng tối
Buồn
đau,
Chiến
tranh xưa, máu tim thủa ấy.
Đừng
dấu tiếng thở dài, xuôi
tay phó mặc!
Dù
đóm lửa cũng là hơi nóng,
Dù
que diêm cũng thắp sáng giữa đêm
Cuồn cuộn hôn thiêng, cùng cháu con vung kiếm
Tôi
bùi ngùi nghe vị mặn,
từ
tim anh,
vượt
trùng dương rót xuống trái tim tôi
A20 Tống Phước Hiến
20.8.15
Giờ lâm trận
Đã đến lúc người câm lên tiếng nói
đã tới hồi người điếc phải lắng nghe
kể cả người đui thậm chí người què
cùng đứng dậy đập tan bầy cộng sản
Khom lưng cúi là ngàn năm khổ nạn
cõng kẻ thù trên xương máu cha ông
từ Bắc vô Nam máu đã ngập đồng
cửa nát nhà tan - sống đời sâu bọ
Vũ khí ta là tự do chính nghĩa
sắc như gươm đao chặt đứt xích xiềng
đừng đợi chờ trước cơ đồ ngả nghiêng
đứng dậy, hoặc cam tâm làm nô lệ
Đã tới lúc vươn mình như Phù Đổng
đã tới giờ cắm cọc Bạch Đằng Giang
dân ta ơi! mất rồi ải Nam Quan
sẽ mất hết dưới tay bầy bán nước
Dù hơi cuối, dù phải lê từng bước
để cháu con không thẹn mặt Việt Nam
trên đường cùng - dù sức tàn, lực cạn
phải một lần đi trả nợ nước non
Nguyễn Di Ngữ
tháng 08-2015
21.6.15
Xuân Lưu Đày !
Tân Trương / Vũ Bình Nam
(Quảng
Nam/20 năm khổ sai /cấm cố).
Xuân Ất Hợi lưu đày ra đất Bắc
Ta nhớ ngày đánh giặc của Quang Trung
Nhưng hôm nay không binh dũng tướng hùng
Không vó ngựa vẫy vùng thanh kiếm thép
Ta về đây không rượu nồng đón tết
Không hoa đèn cờ xí rước quân vương
Hai tay còng siết chặt một tình thương
Ta ôm trọn nỗi đoạn trường vong quốc
Căng mắt giận vẫn nghe lòng lạnh buốt
Nén căm hờn cho máu hận về tim
Hỡi anh linh của nòi giổng Rồng Tiên
Có hiểu được nỗi niềm cho hậu thế
Kinh thành đó sao bao đời hoang phế
Lũ sói lang ô uế trước cung đình
Cánh đào không chúm chím nụ cười xinh
Hay ấp ủ mối tinh chung vạn kỷ
Ta về đây quốc hồn nung chính khí
Nhìn non sông hùng vĩ tự bao đời
Mỗi bước chân là mỗi nắm xương rơi
Mỗi tấc đất là mỗi trời thương nhớ
Tình dân tộc chảy qua từng hơi thở
Ta cúi đầu xin khất nợ tiền nhân
Ai đã từng vị quốc vong thân
Trên chiến trận mấy lần xông lửa đạn
Rồi hôm nay trước quân thù cộng sản
Tổ quốc còn trao sứ mạng thiêng liêng
Nguyện làm chiến sĩ trung kiên
Ra đi bẻ gãy xích xiềng cộng nô
Văng Lang xây lại cơ đồ
Nhân quyền dân chủ thắm cờ tự do .
Việt Nam 20/6/2015
A20 Tân Trương/Vũ Bình Nam
(tặng
Tango, Ngọc Vàng và các CH lưu đày ra bắc năm1994)
19.6.15
Án Cải Tạo!
A20 Đỗ Văn Phúc
Ðúng là ở Xuân Phước không thấy ngày về:
Ðến đây thì ở lại đây,
Ðến khi bén rễ xanh cây, chửa về.
Ðến khi bén rễ xanh cây, chửa về.
Vài vị linh mục trong nhóm Vinh Sơn, ra
toà nhận án 5 năm. Thời gian trôi qua, hết hạn 5 năm, chờ hoài không thấy kêu
lên làm thủ tục trả tự do, các vị mới hỏi và được trả lời:
– Tội các anh lớn lắm, đáng ra phải ra toà nhận thêm án, nhưng cách mạng khoan hồng chuyển qua tập trung cải tạo, khi nào xét thấy tiến bộ sẽ cho về.
Không Nơi Ẩn Nấp
A20 Đỗ Văn Phúc
Ở các trại khác còn nghe chuyện tù trốn
thoát chứ tại Xuân Phước thì con kiến cũng không ra lọt. Ðể phòng ngừa tù trốn
trại, bọn cán bộ cấm ngặt gia đình tiếp tế các thực phẩm khô. Những đội tù gồm
quân nhân chế độ cũ chỉ được lao động quanh quẩn gần trại; bao quanh là các đội
hình sự. Khi xuất trại, dù mưa hay nắng, anh em phải đi chân đất. Mùa hè,
cơn nắng miền trung nung cháy con đường đất, bước chân đi như dẫm lên than
hồng. Mùa mưa, đường sá ngập bùn lầy lội, trong lúc bọn cán bộ ngồi trong căn
nhà lô, ăn uống lu bù, thì anh em tù vẫn phải làm việc.
18.6.15
Mưu Sinh Trong Trại Tù
A20 Đỗ Văn Phúc
Khó mà nói cho thật hết hay thật rõ ràng
để cho mọi người thấy được những đày ải, khổ nhục mà những người tù nhân phải
chịu đựng nhiều năm trong các trại tù cải tạo sau khi miền Nam bị Bắc Việt
chiếm đoạt. Những người bị giam giữ này lại không phải là thành phần hình sự,
can án cướp của giết người; mà là hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức từng phục
vụ trong chính quyền Cộng hoà Việt Nam đối kháng với Cộng Sản miền Bắc. Họ
được Cộng Sản gọi bằng mỹ danh là “các trại viên học tập cải tạo”, nhưng thực
ra là “các tù khổ sai vô hạn định” mà chủ trương cải tạo chỉ là một sự trả thù
dã man của những người thắng thế đối với kẻ bại trận.
Tù Trong Tù
A20 Đỗ Văn Phúc
Trong căn phòng tối mịt mù này, tôi
không còn ý thức rõ rệt về thời gian. Tôi chẳng nhớ đã bị đưa vào cùm nơi đây
bao nhiêu ngày rồi. Dễ cũng đến hơn hai tháng chứ không ít đâu. Những người tù
thay phiên nhau vào ra ở phòng hai bên đã nhiều bận mà tôi thì vẫn cứ trụ trì
trên chiếc bệ xi măng lạnh cóng này; với hai cổ chân xích cứng vào thanh sắt 12
li bằng hai chiếc cùm xoắn oan nghiệt.
Mỗi ngày, tên cai tù cùng một tên trật tự vào đưa cơm một lần. Theo thông lệ là phần ăn trưa. Có lúc chúng đem vào khoảng 9 giờ sáng, khi nhà bếp vừa ra chảo bánh khoai mì đầu tiên. Có khi mãi đến giờ lao động buổi chiều mới nghe tiếng dép lẹp kẹp của chúng. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ chờ đợi, chỉ để nhận khi thì vài lát khoai mì luộc, khi thì một góc chiếc bánh cũng bằng bột khoai mì chỉ nhỏ bằng phần tư bao thuốc lá. Chẳng phải vì đói mà chúng tôi mong sớm đến bữa ăn đâu. Chẳng qua là muốn cho ngày tháng qua mau kẻo nằm mãi trong xà lim cũng buồn chán và kiệt sức quá đỗi.
Tết Trong Tù
A20
Đỗ Văn Phúc
Những Khuôn Mặt Đáng Nhớ
A20 Đỗ Văn Phúc
Không thể không nhắc đến những người đặc
biệt trong trại ít nhiều đã để lại trong lòng anh em tù nhân, những ấn tượng
đặc biệt..
Sư huynh Phạm Quang Hồng, thuộc dòng Đa Minh (?), bị án 20 năm khổ sai vì tội tham gia lực lượng chống đối. Sư huynh còn trẻ, cao ráo, khôi ngô. Tuy cuộc sống trong tù khổ ải, anh vẫn luôn tỏ vẻ vui tươi vì anh cũng là Hướng đạo sinh nên tuân theo điều luật “gặp khó khăn vẫn vui tươi.” Qua anh, tôi học được rất nhiều điều. Anh dạy cho tôi hát các bài hát trong các phim The Inn of the Sixth Happiness, The Sound of Music, và các bản Thánh Ca… Tôi không nghe các tác giả nhắc đến Sư huynh trong các hồi ký. Hiện nay, Sư Huynh đã là Linh Mục Chánh Xứ tại một Giáo Xứ ở Perth, Tây Úc.
17.6.15
Hạt Vàng Trong Bãi Bùn Đen
A20 Đỗ Văn Phúc
Có lẽ vì thù ghét Cộng Sản quá, nên
chúng ta chỉ nhìn thấy những xấu xa của họ, coi tất cả cán bộ Cộng Sản đều hung
ác, thâm hiểm và dốt nát, ngờ nghệch. Nhưng thực tế, đôi khi trong chặng đường
khổ nạn, chúng tôi cũng tìm thấy đó đây những tấm lòng nhân hậu, chưa biến chất
bởi sự giáo dục đồi trụy của chủ nghĩa Cộng Sản vô luân, vô nhân.
Cán bộ Ngà coi đội 13 chúng tôi rất lâu. Câu nói thường xuyên của anh là:
– Các anh cải tạo lâu dài, làm vừa vừa để còn sức khỏe mà về với gia đình.
Anh không bao giờ đặt ra chỉ tiêu cho đội hay cá nhân các đội viên. Trong lúc đội làm việc, thì anh chạy ngược chạy xuôi kiếm khi thì mớ khoai, khi mớ sắn đem về cho đội nấu ăn tại chỗ. Trong một thời gian dài, không có anh nào trong đội bị làm khó dễ hay la mắng nặng lời.
No Eat, No Work
A20 Đỗ Văn Phúc
Phùng
Văn Triển vốn dân từ Bộ
binh chuyển qua Không quân. Cái Trọng Ty
là sĩ quan An ninh Quân đội. Cả hai anh đều thuộc loại bất khuất, khí tiết. Hôm
đó, hai anh gánh chung một cần xé gạo từ kho về nhà bếp cán bộ trại. Trên
đường, họ cố làm vung vãi đổ xuống đường rất nhiều. Việc phá hủy hoa màu, tài
sản trại cũng là một biểu hiện của sự chống đối. Việc này, không may, lại lọt
vào mắt tên cán bộ quản giáo đội tên Quyền.
Khi đội ra lao động bên ngoài phiá Tây Bắc của trại. Cán bộ Quyền gọi hai anh vào nhà lô của đội. Nơi đây đã có sẵn cán bộ Hoà, quản giáo đội của tôi – đang lao động gần đó – và ba tên công an bảo vệ. Vừa bước qua cánh cửa tre, Quyền và Hoà xông vào đánh anh Triển tới tấp. Anh Ty thấy vậy, định chạy ra, thì ba tên võ trang chĩa súng ra ngăn lại. Ty đã la hét thật lớn để các đội lao động quanh đó có thể nghe được:
– Cán bộ đánh anh em chúng tôi là sai. Không được quyền đánh tù.
16.6.15
Gương Bất Khuất Trong Tù
A20 Đỗ Văn Phúc
Thời còn đi học, chúng tôi bị ảnh hưởng
bởi những truyện lịch sử truyền thống Việt Nam, chỉ quan niệm các vị anh hùng
phải là thuộc giai tầng ưu tú xã hội như những vị vua Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái
Tổ, Lê Lợi, Quang Trung, hay các vị tướng lãnh thống soái như Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… Nhờ chế độ Cộng Hoà và nền văn minh dân chủ khai
sáng, người Việt Nam đã nhìn đến những người anh hùng ở các tầng lớp thấp hơn
như các thiếu úy, trung úy, các hạ sĩ, binh nhì, thậm chí đến những chị Ba Hàng
Xanh, em học sinh Quách Thị Trang. Mỗi lần Bộ Tổng Tham Mưu tưởng thưởng
chiến sĩ anh hùng, đều có đủ mặt các cấp từ tướng tá trở xuống đến binh nhì, có
đủ quân binh chủng từ Dù, TQLC, BDQ cho đến ĐPQ và Nghĩa quân. Nói đến anh hùng
thời chiến là nói đến nhưng chiến sĩ quả cảm, lập nên chiến công hiển hách
trong phạm vi khả năng của họ. Thời bình hay nơi hậu phương là nói đến những
nhân vật có những hành vi hơn người, vượt thắng khó khăn sợ hãi để bảo toàn
danh dự, hay lý tưởng; hoặc có hành vi hy sinh bản thân để cứu người. Sự phong tặng
danh vị Anh Hùng của chúng ta không quá lạm dụng như trong chế độ Cộng Sản. Họ
phong anh hùng cho ngay những tên ngu muội, điên rồ bị lừa gạt chết oan nghiệt
cho cái lý tưởng sai lầm; hay những kẻ vai u thịt bắp, đem sức mình ra làm hùng
hục để kiếm tiếng khen. Kiểu anh hùng gánh phân, anh hùng thủy lợi làm cho hai
chữ cao quý này trở thành mỉa mai, lố bịch.
Hung Thần Trong Trại Giam
A20 Đỗ Văn Phúc
Về tên trưởng trại Lê Đồng Vũ (Xú danh
Lê Văn Nhừ)
Chuyện là như thế này. Tên phân trại
trưởng là Lê Ðồng Vũ, người miền núi Thanh Hoá có lẽ thuộc sắc dân Mường.
Khuôn mặt y bèn bẹt vô tri vô giác, trên đó có đôi mắt lèm nhèm và cái miệng
mỏng dính, thâm sì trông vô cùng nham hiểm. Chúng tôi đặt tên nó là Lê Văn Nhừ.
Nó đúng thuộc con cháu ba đời của Chí Phèo, tượng trưng cho loại người hạ đẳng
của xã hội, mang đầy mặc cảm thân phận đớn hèn, nên khi có chút quyền thế là ra
tay sinh sát thậm tệ với đồng bào đồng loại. Tên này ít nói, vô học đến
nỗi đọc lại lời trong trang sách cũng sai bét sai be. Có lần nó đọc đoạn viết
về phát triển nhà ở bên Liên sô. Thay vì: “năm
nay, có 10000 căn hộ đủ tiện nghi được đưa vào sử dụng,” nó đọc thành “có 10000 cán bộ đầy đủ tiện nghi…” Cũng
có lần, vì không biết ngừng đúng nơi dấu chấm câu, nó đã đọc một đoạn văn như
sau: “Nhân dân ta, sau khi chiến thắng đế
quốc Mỹ, đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.” thành: “nhân rân ta sau khi chiến thắng, đế quốc Mỹ
đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân noại.”
Hai Muỗng Cơm, Hai Muỗng Nước
A20 Đỗ Văn Phúc
Mấy ngày sau khi tôi bị cùm, trại kiếm
đủ cớ để đưa vào biệt giam thêm khoảng chục anh. Chẳng bao lâu sau đó, các
phòng biệt giam chật ních người. Vì sắp đến lễ Giáng sinh, chúng lựa những
người có thành tích đấu tranh cho vào giam trước đề phòng chuyện không hay xảy
ra. Thế là chúng tôi, bốn người nằm một phòng, hai người trên một bệ chia
nhau thanh sắt cùm. Chúng tôi bắt đầu gửi tín hiệu thăm hỏi nhau và tôi được
biết bên ngoài cũng đang vô cùng căng thẳng. Nhất cử nhất động đều có ăng ten
theo dõi và báo cáo. Vì thế các anh khuyên tôi nên ứng xử thật khéo léo để
tránh bị gán thêm tội.
14.6.15
Những Ngày Cùm Biệt Giam
A20 Đỗ Văn Phúc
Khi nghe tiếng khoá lách cách bên ngoài,
tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Dù sắp phải đối phó với những màn ép cung mà một lời
nói sơ suất có thể mang lại những hậu quả phiền toái; hoặc có thể xảy ra màn
tra tấn đánh đập như từng xảy ra khi chúng tôi bị gán tội sách động đòi yêu
sách hồi còn ở trại K5 Suối Máu. Tuy nhiên, công tâm mà nói, ở Xuân Phước
hơn sáu năm, anh em tù nhân có thể bị khủng bố nghiêm trọng về tinh thần, nhưng
cảnh tra tấn thì không dã man bằng ở trại Kà Tum, hay các trại miền đồng bằng
Cửu Long, nơi bọn du kích, địa phương Việt Cộng quản lý trong những năm đầu.
Chúng tôi vẫn coi thường những màn hỏi cung của bọn công an vì trình độ học
thức, lý luận chúng rất kém cỏi. Vấn đề là phải làm sao để không hớ hênh khai
báo gì mà có thể liên lụy cho các bạn mình hay để chúng chụp thêm tội. Dù có
nhận tội hay không thì thời gian bị cùm cũng chẳng thay đổi gì. Đơn giản là nếu
không nhận tội, thì chúng cho là ngoan cố; mà có nhận đại cho xong, thì chúng
nó đoán sẽ còn nhiều điều cần truy cứu thêm. Nên trong cả hai trường hợp, chúng
sẽ biệt giam cho đến khi nào gần quỵ gục thì mới thả ra.
13.6.15
Người Tù, Chiếc Lon Gô, và Nhà Kỷ Luật
A20 Đỗ Văn Phúc
Sống trong chế độ Cộng Sản hàng chục năm ngoài
miền Bắc trước năm 1975, người dân đã quên đi chiếc bàn ủi để ủi áo quần. Có lẽ
sau khi giặt xong, vài người chỉ biết xếp áo quần lại rồi lót dưới gối cho
thẳng. Vì thế chúng ta thường thấy những cán binh Cộng Sản khi vào Saigon, ăn
mặc luộm thuộm, lùng thùng như những con rối.
Mãi cho đến những năm 78-79, có những anh em tù muốn lấy điểm, đã bày vẽ cho bọn cán bộ việc dùng bàn ủi. Văn minh miền Nam từ chiếc bàn ủi điện đã nhờ chế độ Cộng Sản, tụt xuống bàn ủi than mà chúng ta còn nhớ hình thù thô kệch với con gà trống trên đầu mũi để làm cái khoá mở ra đóng vào khi đổ than. Loại bàn ủi này đã biến mất những năm cuối thập niên 1950. Có còn chăng, hoạ hoằn là ở vùng nông thôn heo hút.
Bọn cán bộ Cộng Sản thì dĩ nhiên không dám nghĩ đến việc xa xí là sắm một cái bàn ủi than này. Lo chi, đã có bọn tù khốn kiếp bày mưu tịch thu vật dụng bằng nhôm của tù cải tạo để đúc bàn ủi xài tạm.
12.6.15
Trại Tù A-20, Xuân Phước
A20 Đỗ Văn Phúc
Trại A-20 được
thế giới biết đến nhiều như một trại giam man rợ nhất. Ngay cả trong danh sách
những tù nhân mà các chính phủ, hội đoàn đã và đang tranh đấu với Cộng Sản Việt
Nam để được trả tự do, trại A-20 vẫn chiếm hàng ưu tiên một. Trại A-20 từng
giam giữ những chiến sĩ Ðoàn Viết Hoạt,
Phạm Trần Anh , các vị thượng tọa, đại đức, linh mục tranh đấu cho nhân
quyền như Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn
Vàng, Nguyễn Quang Minh. Ðây là một trại tù trừng giới ở miền Nam nơi
giam giữ lâu dài những anh em quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà được chúng liệt
vào thành phần bất trị, các bạn chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ sau ngày
30-4, và đám tù hình sự mang án chung thân hoặc tử hình. Ðã đến đây thì chẳng
ai nghĩ đến ngày về nữa. Ngay cả trong giấc ngủ, cũng chẳng mơ được chuyện
thoát ra khỏi trại. Muốn biết thêm về trại A-20, quý vị có thể tìm đọc trong “Hồi
Ký 26 Năm Lưu Đày” của Thượng Tọa Thích
Thiện Minh, Chủ Tịch Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam;
“Trại Kiên Giam” của Nguyễn Chí Thiệp;
“Đoạn Trường Bất Khuất” của Phạm Trần
Anh; và nhiều bài của Vũ Ánh đăng
trên nhật báo Người Việt hay nguyệt báo KBC Hải Ngoại.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)