22.5.10

Xuân Hành



Viết tặng anh Hà Thượng Nhân

Mây trắng lững lờ trên tầng cao
Đàn chim én lượn bay lao chao
Lòng ta chơi vơi xao xuyến quá
Ô hay, mùa xuân đến rồi sao?

Đã qua rồi, sáu năm tù ngục
Những ngày lưu xứ sống lao đao
Hắt hiu chốn rừng sâu, núi thẳm
Nhớ nhà thương nước tim nghẹn ngào
Núi rừng Hoàng Liên Sơn, Yên Bái
Có bao giờ lòng nguôi khổ đau!

Ta gọi tên đàn con yêu dấu
Duyên, Thơ, Trinh, Dũng, Tuấn, Quỳnh, Giao!
Thương tuổi thơ học hành dang dở
Mái đầu xanh sớm chịu cơ cầu
Mang nặng dĩ vãng bị trù giập
Ông cha xưa trí phú địa hào
Chập chững bước vào đời vắng bố
Tương lai mờ mịt biết về đâu

Thương vợ hiền sớm khuya tần tảo
Nuôi dạy con thân liễu gầy hao
Chắt chiu giọt mồ hôi nước mắt
Vượt ngàn trùng thăm ta trong lao
Phút gặp nhau nói cười ngoài mặt
Nhưng con tim nức nở réo gào
Giờ chia tay lòng đau chất ngất
Em nhìn ta nước mắt rơi mau!
Xót tình nghĩa tao khang nồng đượm
Nửa đường đời sớm tối bên nhau
Hơn sáu năm đoạn tình chăn gối
Oan khiên ơi đất thảm trời sầu!
Đêm trên nền xi măng lạnh giá
Thương căn nhà xinh trên đồi cao
Viên ngọc trắng bên lùm cây biếc
Chiều mây trôi thông reo rì rào
Chập chùng bỗng cuồng phong nổi dậy
Mái nhà thân yêu nay còn đâu?
Ôi tổ ấm một đời xây dựng
Chợt tan tành như giấc chiêm bao!

Từng đêm từng đêm sâu trằn trọc
Từng đêm thao thức với trăng sao
Nỗi hờn căm quân thù cướp nước
Tâm sự này xin gửi trời cao
Quanh ta vòng kẽm gai khép kín
Những bạn tù khuôn mặt vêu vao
Cùng ta đau niềm đau mất nước
Ôi tự do, lòng ta khát khao
Bao đêm mơ giấc mơ phục quốc
Than ôi! ta chẳng già rồi sao?

Vũ Đức Nghiêm
Trại 6 Thanh Chương, Nghệ Tĩnh 1/1981


(Nguồn: http://thovuducnghiem.blogspot.com)



Cảm Đề



Đã mấy trăng hao gầy ngóng trông,
Mưa khuya trăn trở, sương mênh mông.
Suy tư dằn vặt, nhầu chăn gối,
Sự nghiệp tan tành, thẹn núi sông.
Tủi với tiền nhân ca chính khí,
Ngượng cùng hậu thế luận anh hùng
Tuổi tri thiên mệnh tàn cơ nghiệp,
Lại bắt đầu đi từ số không.

Vũ Đức Nghiêm
Trại Tù Long Giao, tháng 9-1975


(Nguồn: http://thovuducnghiem.blogspot.com)



Thơ Viết Trong Tù - Tự Trào

 

Tuổi trời cho ta năm mươi mốt,
Đau đớn thay, 5 năm bị nhốt,
Sáng sáng đẩy xe, dăm chục xe,
Chiều chiều ngô hột, vài trăm hột.
Thi đua lao động chẳng cần hay.
Học tập tăng gia không mấy tốt.
Thơ thẩn lăng nhăng, ngày lại ngày.
Lòng son sắt trước sau như một.

Ta sinh ra, biếng lười ngu dốt,
Hút thuốc lơ mơ ngồi dựa cột.
Mặc kẻ lên voi ưa nói ngông.
Thương mình xuống chó không thưa thốt.
Gặp thời, ừ nhỉ chúng khôn ngoan,
Lỡ vận, đành thôi ta dại dột.
Say cuộc cờ, nghĩ mình pháo xe,
 

Than ôi, ta chỉ là con chốt!
Chốt đã qua sông, bèn thí chốt.
Ba năm kiếm củi, một giờ đốt.
Thảm thương thay, chiến sĩ mang cùm.
Ngao ngán nhẽ, cáo cầy đội lốt.
Sông cạn khát khao vài trận mưa
Núi cao rung chuyển từng cơn sốt
Mơ ngày phục quốc cứu quê hương,
Thù giặc cộng minh tâm khắc cốt.


Vũ Đức Nghiêm
Trại Tù Nghệ Tĩnh 6 (NT6), 1980


(Nguồn: http://thovuducnghiem.blogspot.com)
 


20.5.10

Những ngày cuối cùng của Vùng I và miền Nam


                     Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn


Những ngày cuối cùng của Vùng I và miền Nam



Lời giới thiệu:
Duy Lam, cháu của nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, trong nhóm bút Tự Lực Văn Đoàn, một nhân chứng lịch sử viết rất trung thực về những ngày cuối cùng của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 29-4-1975, tôi gặp anh mới từ Đà Nẳng di chuyển vào Sài Gòn. Chúng tôi, Bảy Bốp Phạm Thái và kỹ sư Đỗ Hữu Cảnh, có mặt đứa con gái lớn của Duy Lam, ngồi quán Cà phê đối diện Trụ sở Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến trên đường Phan đình Phùng, bàn thế bối thủy, và ai đi ai ở, rốt cuộc cả bốn đều ở lại. Tôi qua Mỹ trước, Duy Lam qua sau 14 năm tù đày, có lúc bị cùm chân đến thúi thịt . Phạm Thái bị tù đến gần chết mới được thả. Đỗ Hữu Cảnh bị bắt đi bắt lại mấy lần. Ngày gặp lại Duy Lam tại Virginia, tôi có dẩn anh đến bàn thờ cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy vừa mất cách đó 3 tháng, anh đã làm tất cả anh em hiện diện hôm đó cảm động khi anh khóc sướt mướt và độc thoại những lời tâm huyết với di ảnh Giáo Sư Huy. Bài viết của anh làm tôi liên tưởng đến anh chàng Pierre, triết gia cô đơn trong tác phẫm War and Peace của Léon Tolstoy ...
(Thái Thụy Vi)

Phải nói là những ngày cuối cùng của Vùng I và Miền Nam, mỗi khi tôi ôn lại trong những năm tháng tù đầy, hoặc viết lại trong cuốn hồi ký nầy, luôn luôn lại làm tôi xúc động một cách mạnh mẽ và có phần khó hiểu.Trở lại những tháng đầu năm 1975, tôi nhớ lại cái không khí lo âu, mơ hồ cứ lẩn quẩn thấm vào tâm trí mọi người, những lo âu sợ hải hình như không có nguyên cớ rõ rệt.
Sau cái lần Trung tướng Ngô Quang Trưởng đi phó hội với CINPAC về, trong bữa uống rượu ở vườn buổi chiều trước tư dinh của ông, khi được tôi hỏi ông đã thở dài nói chậm rải: "Anh biết đấy, kỳ nầy mà địch tổng tấn công vào Vùng I, Hoa Kỳ sẽ chẳng còn có thể yểm trợ mình về hải pháo hay phi cơ của hạm đội. Khi đó đương nhiên mình phải tự lực cánh sinh chiến đấu với những gì mình có và với tình trạng tiếp vận giảm sút đến gần 80% so với thời kỳ chưa ký hiệp định Paris". Sau đó chúng tôi đã ngồi lẳng lặng uống rượu tiếp và cũng chẳng trao đổi với nhau lời nào cả nửa tiếng đồng hồ.
Khi Đại tướng Trần Thiện Khiêm kiêm Thủ tướng tới họp tại Tiểu khu Quảng Trị, ông đã quay sang nói một câu ngắn ngủi với Đại Tá Kỳ, Tỉnh trưởng Quảng Trị;" Anh Kỳ hãy lo đưa Tòa Hành Chánh và dân Quãng Trị di tản vào Huế". Một quyết định đã có sẵn và được ban bố không một lời giải thích về nguyên nhân chiến lược xâu kín và áp lực của địch, đã nổ ra như một tiếng sấm động trong một ngày trời đang quang đãng. Cả một hội trường, từ cấp cao đến cấp thấp đều ngồi lặng đi, trước viễn tượng của một thảm họa, vì trong thâm tâm, ai cũng có một ý nghĩ thế là đúng rồi: Trung Ương đã quyết định rút quân ra khỏi Vùng I và như vậy là bỏ Vùng I.
Trước đó Tướng Ngô Quang Trưởng có tiết lộ với tôi biết trước là Tướng Nguyễn Văn Thiệu có liên lạc với ông và ra lệnh cho ông phải rút lực lượng Tổng trừ bị đã được tăng cường cũng như các sư đoàn vào Nam để thu hẹp lãnh thổ phòng thủ chiến lược giới hạn bởi Quân Khu III. Tướng Trưởng đã trả lời thẳng với vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội:" Tôi là tướng cầm quân ở tiền tuyến, nên không thể ra lệnh rút quân, và nếu Tổng Thống muốn rút quân, chính Tổng Thống phải ban hành lệnh đó. Thay vì đích thân ra vùng I, ông đã cử Thủ tướng Khiêm thay mặt ông để chính thức ban hành lệnh rút quân.
(Tôi xin mở ngoặc ở đây để các bạn muốn theo dõi chi tiết cuộc rút quân hãi hùng thiếu kế hoạch và thiếu trật tự từ miền Trung, xin hãy đón đọc cuốn hồi ký cả ngàn trang của Duy Lam sắp xuất bản).
Sau khi tướng Ngô Quang Trưởng cáo ốm nằm tại Bịnh viện Cộng Hòa, rồi về nghỉ ngơi tại biệt thự của ông tại cư xá sĩ quan Chí Hòa, tôi có ghé đến thăm anh và bàn qua về diễn tiến của tình hình và những giải pháp chính trị quốc tế khả hữu có thể đưa tới một cuộc điều đình giữa miền Nam và Cộng sản. Anh cũng cho tôi biết riêng theo những tin tức thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sắp từ chức, để nhường lại cho ông Trần Văn Hương. Tôi tỏ vẻ nghi ngờ về sự từ chức quá muộn màng như vậy, và e rằng các chính phủ chuyển tiếp cũng khó lòng đòi hỏi những điều kiện thuận lợi khi miền Nam tiếp tục rã ra từng mảng lớn, và quả thật khó nói đến chuyện điều đình mà cả quốc tế, khi quân lực và lãnh thổ càng ngày càng thâu nhỏ lại.
Tôi cũng ghé lại trụ sở Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, gặp lại anh Nguyễn Ngọc Huy và một số anh em trong Ban Chấp Hành Trung Ương. Sau một buổi họp khẩn cấp tại trụ sở Cấp Tiến, một buổi ký cam kết quyết tử được tổ chức công khai với sự hiện diện của các báo chí Sài Gòn.
Vì tôi là một người đã chứng kiến sự cam kết quyết tử và bảo vệ lãnh thổ Đà Nẳng đã được công bố bởi các vị lãnh đạo các cấp quân sự vào những ngày cuối của thành phố nầy, đã chỉ đưa đến kết quả là các lực lượng chính quy lẳng lặng rút lui đi bằng đường thủy, để các khối quần chúng hoảng loạn tự lo liệu lấy sự đào thoát, nên tôi cũng không mấy tin tưởng vào tất cả những cam kết quyết tử, nhất là của một đảng chính trị không có dù một lực lượng quân sự nhỏ bé để tự bảo vệ.
Tôi cũng tiến lên ký vào bản cam kết chung cùng với các đại diện của Ban Chấp Hành Trung Ương, và thực sự tôi cũng không hiểu cam kết nầy sẽ được thực hiện như thế nào, hay đó chỉ là một sự biểu lộ muộn màng của tinh thần chống Cộng cố hữu của những người quốc gia. Quyết định chung cuộc là trên chiến trường và những biến chuyển trên mặt trận quân sự và những tin đồn đại về những giải pháp điều đình với phía bên kia, với sự bảo đảm của các đại cường ký trong Hiệp Định Paris thực ra rất khó thực hiện. Đơn giản, khi bên kia đang trên đà thắng thế và với đà tiến quân và tương quan lực lượng hiện nay, họ cũng khó mà bị áp lực phải chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị.
Sau hai lần từ chối không đi Mỹ, một lần ông Scott và một lần Trung tướng Ngô Quang Trưởng, vào tuần lể cuối cùng của tháng tư, tôi ghé thăm anh Nguyễn Ngọc Huy tại công thự khiêm nhường của anh ở đầu đường Cao Thắng, chúng tôi bàn thảo về các biến cố chính trị đang diễn tiến và thái độ thích hợp phải có của chính chúng tôi, về chuyện đi hay ở. Anh có nhắc tôi giải pháp do Pháp trung gian của Mereillon , và theo tôi anh có vẻ đặt hi vọng nào đó vào giải pháp nầy sẽ cứu được miền Nam.
Tôi đã nói thẳng với anh, theo tôi tôi không tin Mỹ sau khi bỏ Việt Nam lại chịu để Pháp và Trung Quốc tạo được ảnh hưởng với Việt Nam chung cả hai miền Nam Bắc theo như thỏa thuận Mao Trạch Đông-Nixon năm 1972. Tôi cũng cho anh biết thuần túy trên lãnh vực quân sự, Cộng Sản sẽ tiến thẳng vào Sài Gòn chiếm gọn miền Nam và tạo một sự đã rồi, fait accompli, cả về quân sự lẫn chính trị. Tôi hỏi anh những nhà lãnh đạo miền Bắc đang đà thắng thế quân sự có chịu ngừng lại để điều đình hay không? Theo tôi chắc là không và miền Nam sẽ mất trong một tương lai rất gần.
Anh Huy có vẻ suy nghĩ nhận định nặng về quân sự của tôi và rồi anh thở dài khi tôi lên tiếng hỏi anh liệu anh tính ra đi hay ở lại? Vì tôi đã nói qua cho anh biết hai lần từ chối không đi Mỹ của tôi, nên anh nhìn thẳng vào mắt tôi và nói cả quyết:" Như vậy là chúng ta cũng phải ở lại với anh em mà thôi". Tôi thầm khâm phục cái thái độ cương quyết của anh, như là một nhà lãnh đạo chính trị trong một tình huống cực kỳ khó khăn. Tôi nhìn anh rồi chậm rãi trình bày những gì tôi biết về chính sách của người Cộng Sản đối với những người thuộc chế độ cũ thời sau năm 1954. Tôi nói nếu chúng ta ở lại chắc sẽ bị đưa đi đến các trại tập trung và cứ nhiều lần ba năm cho đến chẳng biết là khi nào mới được tự do. Theo tôi cái chết của một kẻ sĩ nhẹ tợ lông hồng nhưng trong một số trường hợp lại nặng như núi Thái Sơn, nhất là đối với những người có trách vụ lớn phải gánh vác. Anh sức khỏe yếu như vậy, tôi sợ dù anh chọn ở lại thời chắc cũng khó sống qua vài tháng tù. Anh có uy tín đối với quốc tế, anh xuất ngoại hoạt động có lợi nhiều hơn cho người Quốc Gia, tôi trẻ hơn anh mười tuổi nên chúng ta phân công, một mình tôi ở lại đủ rồi, còn anh nên đi. Tôi hẹn anh một này nào đó nếu tôi còn sống sau thời gian bị Cộng Sản tù đầy, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở một nợi chốn nào đó ở hải ngoại để tiếp tục hoạt động và sát cánh với nhau. Đấy chỉ là một sự phân công suy tính căn cứ trên cái lợi cái hại của sự ra đi hay ở lại và chẳng phải đi là tham sống sợ chết hay ở lại là can đảm.
Anh Huy rất buồn khi bắt tay từ biệt tôi và tôi nghĩ khi anh không còn nhắc đến chuyện ở lại với tôi, thời có nghĩa anh đã chọn ra đi. Tôi cũng đâu ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp anh Huy và sự chia tay đã không phải là tạm biệt mà là vĩnh biệt.
Thôi, thế là xong. Tôi nhìn những chiếc xe Jeep cắm cờ Mặt trận Giải phóng với những thanh niên hò hét, phất cờ và giơ cao vũ khí, tay mang băng đỏ, những nhà sư ba mươi đi phát cờ Giải Phóng và ôm các bà nhảy tửng tửng hô: "Phe ta thắng! Phe ta thắng!". Họ là ai vậy? Cộng sản nằm vùng hay những kẻ theo thời? Cách mạng giờ thứ hai mươi lăm? Tôi thoáng nghĩ không chừng có kẻ thấy tôi mặc quân phục đeo vũ khí, sẽ có thể bóp cò súng nhắm vào tôi? Tuy nhiên tôi vẫn lặng lẽ đi và tính về nhà sẽ tìm cách trút bỏ quân phục và vứt bỏ khẩu súng Colt. Quạ từ đâu bay về nhiều quá, đen cả bầu trời. Lại có cả tơ trời nữa, đó là điềm lạ hay điềm gở của miền Nam. Mùa nầy bông cây dầu nồng nàn thơm mùi nam tử. Bây giờ trộn lẫn với hương đêm và mùi khói súng bắn chỉ thiên, loạn xạ. Tin dử đồn tự tử tập thể ở trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám và vài đơn vị lẻ tẻ. Tất cả những cái đó giờ đây đâu còn mang một ý nghĩa nào dù nhỏ nhất. Tại sao chỉ qua vài phút ngắn ngủi mà tôi thấy quang cảnh ngoại vật đột nhiên mất hết các ý nghĩa thông thường quen thuộc, nhà cửa, con người và ngay cả đến lời nói từ ngữ và cách xưng hô với nhau, liên hệ cố hữu giữa người và người và người và vật. Tiếng Trung tá mà vị Thiếu tá vừa gọi tôi chắc cũng chỉ một thói quen lâu đời. Trung tá Thiếu tá Đại tướng Thiếu tướng cũng như là tiếng người ta xưng tụng những kẻ đã nằm dưới mồ. Tôi vốn là một người viết văn quá nửa đời người nên từ ngữ vốn mang nặng những ý nghĩa xâu xa với cái ma lực riêng của nó. Tôi bây giờ là ai? Một cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Một kẻ thất trận? Một tù binh chiến tranh? Chắc tôi chỉ còn cái danh hiệu là nhà văn với những tác phẩm cụ thể đóng góp cho văn chương? Thực sự đọc nhiều về chính sách của kẻ địch, tôi hiểu trước sau họ sẽ tự bỏ luôn cái danh hiệu cuối cùng đó của tôi, nếu tôi từ chối không cộng tác với họ. Tôi tin dù họ bỏ tù được thân xác tôi, nhưng họ khó có thể tha hoá được tôi, biến đổi tôi thành một bộ máy vô hồn. Tôi nghĩ tôi đang mỉm cười, hơi một chút chua chát, hơi một chút ngạo nghễ. Cuối cùng ai sẽ thắng? Điều đó thời phải năm mươi năm nữa, tôi mới có câu trả lời chính xác, đúng theo phương pháp luận của sử học. Hiện thời tôi chỉ có thể bình tĩnh và đầy đủ tự tin đón chờ số phận của tôi, cũng như tất cả các người sống trên mảnh đất miền Nam nầy. Nói cho cùng chẳng phải nhà quân sự hay nhà chính trị trong tôi đã đưa ra những lý luận thuần lý để biện minh cho việc tôi đã ba lần từ chối xuất ngoại, để ở lại. Xâu xa hơn nữa, trong con người tôi, chính cái con người nhà văn dấn thân trong tôi, đã chi phối sự chọn lựa nầy của tôi. Cái lòng tò mò ghê gớm đã thúc đẩy tôi từ trước đến nay, là luôn chọn đi vào trung tâm các cơn bão lốc của thời thế, để có thể đích thân sống qua và chứng kiến các xúc cảm, về những gì các hoàn cảnh sống mang lại cho tâm hồn của một người cầm bút. Tôi sợ nếu tôi đã ra đi một ngày nào đó lưu vong ở một đất nước xa xôi và xa lạ nào đó, tôi sẽ tiếc là không có dịp ở lại, để bị tù đày hành hạ, vì như vậy tôi sẽ thành một người ngoại cuộc, đối với nỗi thống khổ mà dân tộc tôi phải chịu. Chắc lúc đó tôi sẽ khổ tâm và ân hận, điều mà tôi sợ nhất trong đời. Tâm trạng tôi lúc đó giống như một người nhảy xuống vực sâu, chỉ mong chạm đáy vực dầu thịt nát xương rơi, nhưng không bao giờ tới đáy. Mãi đến gần 20 năm sau những hoạt cảnh của ngày 30/4 mới tuần tự xuất hiện trong bài thơ Tháng Tư Đen. Điều đó vào giây phút mọi sự diễn biến trước mắt tôi, tôi chỉ tỉnh táo quan sát, mà chưa ý thức được rõ rệt là rồi chúng sẽ được thể hiện trong văn hay thơ của tôi vào lúc nào, cách nào trong đời của một người cầm bút. 


DUY LAM

(Nguồn: vnthuquan.net)



14.5.10

Anh Hùng Tử Sĩ Nguyễn Ngọc Bửu

-->
  
                                          
  


Anh Hùng Tử Sĩ Nguyễn Ngọc Bửu


Nguyễn Ngọc Bửu, SVSQ/Đại Đội A/K25/TVBQGVN. Là một SVSQ hiền lành cương trực, sống yêu đời với nụ cười thân mật luôn nở trên môi. Bạn bè khóa 25, ai cũng đều thương mến.
Ngày mãn khóa, anh "không cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao nắng mưa cùng nguy hiểm", anh chọn binh chủng lừng danh của QLVNCN, binh chủng TQLC.


6.5.10

chim Phượng về Tây Bắc


Nhớ xưa chim Phượng bay vào núi

tiếng kêu buồn thảm vọng về Nam
thành tan xiêu đổ chàng đi biệt
ôi, nước sông Ngân chảy bên trời
năm ấy trên đường bay truy kích
Chàng về Lương Sơn ngày cuối năm
nơi đất Phương Đoài mây xám bạc
phi vụ hành quân
chiều mật khu
gío thổi cát vàng
thấm máu đỏ tươi
vùng đất hiểm hung
chuyện sống chết như đùa
nơi tử địa
Chàng bỏ lại nhà xưa
chiều khói bếp
người vợ yêu kiều
hơi ấm còn thơm
một thân theo gío vào đất địch
hiu hắt ngậm ngùi lên cỏ cây
như tiếng Sơn Ca trưa lồng lộng
bay vút tầng không vọng bốn phương
nhớ xưa chàng như cơn lốc bụi
Thiên Mã về Trời
vó ngựa bốc mù trên đồi tranh
giày cỏ tha phương
cơn mưa đầu mùa phố chợ
ngồi bệt thềm hoang
gío lùa ủ rũ
chiều Tàn Quân
về ngang sông Lũy
Phượng đỏ bên đường
tà áo xưa bay
guốc gỗ đường trơn
một thời thê thiết
lượn tóc mây bay
suốt mùa ly loạn
Hồng Hạc bên trời đậu bến sông xa
Thiên Thu chim Phượng về Tây Bắc
hồn ngóng Trùng Dương
chỉ thấy Rừng

Cái trọng Ty


5.5.10

Tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4 ở đâu và như thế nào?



Vũ Ánh
(03/13/2010)
 
Trong những trại cải tạo, cái đói khát triền miên, ốm đau không có thuốc, công việc lao động khổ sai không làm chúng tôi sợ bằng hằng năm cứ vào đêm 29 tháng 4, đám cai tù buộc chúng tôi phải xem lại toàn bộ hình ảnh sự thất bại của chính mình vào sáng ngày 30 tháng 4 cách đây 35 năm. Tôi không hiểu những người bạn tù khác nghĩ sao, nhưng riêng tôi, hành động này là một đòn tra tấn tinh vi nhất mà những người chiến thắng sử dụng với người chiến bại.
Hàng ngàn người tù bị đẩy ra sân trại vào buổi tối để bắt buộc phải ngó lên một màn ảnh, nhìn những thước phim được chạy qua một ống kính của máy chiếu 16 ly ghi cảnh tan hàng tức tưởi của một trong 4 quân lực hùng mạnh nhất thế giới. Hàng đống xe cơ giới, thiết giáp, M-113, đại bác, súng cối, M-16, ba lô, quân phục, cờ, thẻ bài được quay cận cảnh chen lẫn đó đây, những nhóm quân nhân VNCH phải cởi bỏ quân phục, chỉ còn chiếc áo lót và quần đùi trước mũi súng của kẻ chiến thắng. Còn nỗi cay đắng nào hơn, nhưng cuối cùng cũng phải uống những chén thuốc đắng, dù chỉ là để “nhớ nước đau lòng con quốc quốc.”
Ðầu tiên, anh em chúng tôi tìm cách khai bệnh và ở lại buồng giam để khỏi phải tập họp xem phim. Sau đó, bọn cai tù phát giác ra chuyện này và đem nhốt tất cả những ai không chịu xem phim vào xà lim để trừng phạt. Nhưng riết rồi số người từ chối xem phim ngày một đông hơn và họ vui vẻ đưa chân vào cùm trong những xá lim cá nhân. Mỗi xà lim cá nhân chỉ nhốt 2 người nhưng vào những dịp 30 tháng 4, nhân số gia tăng lên 10, rồi 15 người mỗi xà lim. Chúng tôi ngộp thở đến nỗi phải chia phiên nhau thò lỗ mũi ra cửa tò vò duy nhất của cánh cửa xà lim để thở, nhưng sao vẫn thấy lòng vẫn nhẹ nhàng và cùng nhau hát tù ca hăng hái hơn.
Nhưng sau khi được định cư ở Hoa Kỳ rồi, cảm tưởng sợ hãi lại trở lại với tôi mỗi năm đến dịp cộng đồng tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4. Ðã được may mắn hơn người khác thoát được cái nhà tù lớn Việt Nam, được sống trong một đất nước tự do, dân chủ, quyền con người được tôn trọng, được tự do phát biểu những ý nghĩ của mình, sao lại sợ hãi?
Quí vị độc giả hãy cùng tôi nghĩ lại xem trong hai thập niên qua, đã bao lần trong cộng đồng này, cứ đến gần ngày tưởng niệm, đã nảy sinh các cuộc tranh cãi về việc ai được quyền treo cờ trên phố Bolsa, ai được quyền tổ chức ngày 30 tháng 4. Rồi đến khi có được khu Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ, sự tranh cãi ai được quyền tổ chức ngày tưởng niệm 30 tháng 4 đúng ngày và phải tổ chức ở khu tượng đài vẫn là một hình ảnh đậm nét nhất.
Dĩ nhiên, không ai có thể không công nhận là tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4 ở Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ là điều kiện tối ưu. Nhưng nếu kẹt là trước đó đã có người có giấy phép làm đúng ngày này thì tại sao lại không tổ chức vào vài ngày trước đó. Ngày 25 tháng 4 thì có khác gì ngày 30 tháng 4? Ngày 20 tháng 4 thì có khác gì ngày 25 tháng 4. Thời gian đó cũng đã có thể gọi là tuyệt vọng đối với VNCH rồi. Mọi người chờ đợi cái thòng lọng tròng vào cổ mình nên đã có người gọi toàn bộ tháng tư năm 1975 là Tháng Tư Ðen cũng không ngoa.
Và nếu như thế thì việc tưởng niệm được tổ chức đúng vào ngày hay trước ngày 30 tháng 4 thì cũng vẫn là quốc hận như thường. Nếu đã gọi là quốc hận thì từ dân đến quân, cán, chính đều cùng có những đau khổ, cay đắng và nhục nhã như nhau, có gì mà phải tranh đấu cho được chính mình hay tổ chức của mình mới là người có quyền tổ chức tưởng niệm ở tượng đài.
Thực tế, ngày giờ và địa điểm tổ chức lễ tưởng niệm không quan trọng lắm mà quan trọng là nội dụng của chương trình tưởng niệm có đáp ứng được mối quan tâm của đồng hương không, có biểu lộ được tinh thần đoàn kết đồng lòng rửa mối hận mất nước bằng cách khôi phục nền dân chủ và nhân quyền cho hơn 80 triệu đồng bào Việt Nam ở trong nước hay không? Nói đoàn kết mà ngay trong việc tổ chức ngày tưởng niệm 30 tháng 4 cũng còn tranh cãi với nhau thì sao tạo được niềm tin trong đồng hương.
Cho nên, hình ảnh sẽ gây được ấn tượng mạnh nhất trong lễ tưởng niệm năm nay, nếu tất cả các tổ chức tạm xếp những khác biệt chính kiến nắm tay nhau đứng hàng một dọc theo các con đường từ Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ dẫn về trung tâm Little Saigon. Làm được điều này chúng ta cũng sẽ tránh được việc phải nhờ đến thành phố, nhất là phải nhờ đến những người chẳng bao giờ thông cảm nổi nỗi đau của chính chúng ta giải quyết chuyện tranh chấp về ngày và vị trí tổ chức lễ tưởng niệm. Cá nhân, tôi ủng hộ mạnh mẽ ý kiến của luật sư Chris Phan, thành viên trong Ủy Ban Tượng Ðài và Chủ tịch Hội Quân Nhân Người Mỹ Gốc Việt, là hãy cố gắng thương lượng dàn xếp và thảo luận với Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Sát Orange County Janet Nguyễn để hợp tác tổ chức một Lễ Tưởng Niệm 30 tháng 4 thật ý nghĩa.
Ý nghĩa của một lễ tưởng niệm không phải chỉ là sự hoành tráng của những tiết mục mà còn là nội dung nói lên được gì. Hà Nội hiện đang thuê Bắc Hàn giúp tổ chức những màn đồng diễn lớn lao. Nhưng những người tham dự đồng diễn cũng như những người ra lệnh tổ chức sẽ chỉ là những con người máy không trái tim nếu họ không nêu rõ được tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm Trung Hoa, bởi vì hoàng thành Thăng Long tượng trưng cho cuộc chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm phương Bắc.
Ở hải ngoại, cũng vậy. Nếu chúng ta không biểu lộ được tinh thần dẹp bỏ những khác biệt để cùng nhau bày tỏ sự đoàn kết trong một lễ tưởng niệm, dù nó được tổ chức lớn lao, dềnh dàng, ở đâu đi nữa, thì vẫn không nói lên được đầy đủ ý nghĩa.
Năm nay lại còn là năm bầu cử, nhưng bất cứ ban tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4 nào biến lễ tưởng niệm thành cơ hội tuyên truyền cho bất cứ ứng cử viên nào cũng sẽ gây tai hại khôn lường. (V.A.)


(Nguồn:  http://www.vietherald.com)


2.5.10

Ði “thăm” một vị tướng anh hùng QLVNCH






Nguyễn Thanh Khiết (viết riêng cho Việt Herald)



Ðã 5 năm qua, năm nào cũng vậy, cứ mỗi cuối tháng 4, sau khi đã như chết rồi trong tiếng reo hò chiến thắng, tiếng pháo mừng đì đùng của giặc, tôi lui cui chuẩn bị ra khỏi nhà vào buổi chiều, đi lên phía Gò Vấp, trên đường Lê Quang Ðịnh, một trong số những con đường may mắn chưa bị đổi tên suốt 35 năm nhục nhằn của thành phố Sài Gòn từ sau ngày 30 tháng 4, 1975 tang thương cũ.


Chùa Già Lam, một cái tên dễ gọi nhưng thật khó. Năm năm về trước, tôi mày mò trên mạng, vào một trang web, một ai đó ghi hàng thông tin “...theo nguồn tin của gia đình tướng Nguyễn Khoa Nam, hài cốt ông được đưa về ‘chùa Gia-Lâm’ đường Lê Quang Ðịnh, Gò Vấp.” Tôi bỏ ra 3 ngày đi nát con đường nầy, Lê Quang Ðịnh không dài, chỉ là con đường cũ từ trước cửa chợ Bà Chiểu thẳng một mạch lên Gò Vấp và kết thúc tại khu nổi tiếng là ngã năm chuồng chó. Vậy mà tôi đi miết 3 ngày, hỏi cả trăm người cái “chùa Già Lâm” ai cũng lắc đầu chẳng biết nó ở đâu. Buổi chiều cuối cùng, với thất vọng và mệt mỏi, tôi ghé vào trạm xăng bên đường, định đổ đầy một bình rồi lên xe về.


Chiều xuống thành phố chật chội bụi xe, người ngựa dân đi làm từ các công sở ùa ra đường phố, đường nào cũng chật, cũng kẹt xe, tôi cố mà không băng qua được bên kia đường cho đúng chiều. Chán nản, tôi dắt con ngựa sắt phong trần, bung bửng, mất vè, đi dọc về phía chợ Bà Chiểu. Ngừng ở một ngã ba, châm điếu thuốc, tự thưởng chuyến hành hương bất thành.


Tôi ngước lên phà khói, bất thần tôi nhìn thấy ba chữ “chùa Già Lam.” Tôi chợt hiểu, cái trang mạng mắc dịch nào đó, một đương sự, không biết tiếng Việt nào đó, một cu cậu không cài phần mềm bỏ dấu tiếng mẹ đẻ nào đó, đã lỡ tay gõ trên thông tin hai chữ “Gia-Lam,” rồi một ông cốt đột nào đó (chắc chắn không phải là cư dân Gò Vấp) đã quá tay dịch từ tiếng Việt sang... tiếng Việt là “Gia-Lâm” báo hại tôi lội 3 ngày trên con đường không hơn 5 cây số này.


Tôi thở ra một cái, tự thưởng cho cái thông minh quá muộn màng của mình, sau khi đã đẫm mồ hôi tới 3 cái áo. Tôi lên xe đi theo hướng mũi tên trên biển báo, lại một phen ngất ngư vì hẻm Sài Gòn. Từ mặt lộ, vào chưa tới 50 mét, con hẻm chia ra hai hẻm nhỏ, mỗi con hẻm có tới hai ngôi chùa tên nghe lạ hoắc, tôi phải lộn ngược ra ngoài hỏi thăm thật cặn kẽ rồi mới an tâm vào bên trong.


Già Lam là một ngôi cổ tự, nằm tận cùng trong con hẻm, ngôi chùa rộng, có khoảng sân ngoài lát đá thật khang trang, qua khỏi cổng là cái sân trồng hoa, một số cội mai lớn sắp hàng trên lối vào chánh điện.


Bên trái là địa tạng đường, xây đơn giản, gồm hai tầng với một cầu thang bằng xi măng vừa đủ cho một người đi lên. Tôi hỏi thăm người giữ xe ở cổng, một cảnh sát trước năm 1975, vóc dáng gầy gò, nhưng nhiệt tình. Khi biết tôi muốn thăm và thắp nhang cho tướng Nguyễn Khoa Nam, ông nắm tay tôi kéo lên cầu thang và giới thiệu tôi với một tăng nhân trạc hơn 30 tuổi có nhiệm vụ trông coi địa tạng đường.
Quả thật, cũng khó mà tìm ra nơi đặt hài cốt, nếu không có người hướng dẫn và sơ đồ chỉ rõ. Trong địa tạng đường, nếu tôi không nhầm, có gần mấy ngàn tro cốt chứa trong các lọ nhỏ lớn đủ kiểu, đủ dáng, đặt trong những tủ kính nằm dọc và dài bằng bức tường phòng.


Có bốn hàng tủ như vậy với hai lối đi nhỏ dọc theo chiều dài, mỗi tủ cao bằng trần nhà nên luôn có một cái ghế gỗ cao cho thân nhân dùng leo lên đối với những hài cốt nằm phía trên cùng.


Hũ tro cốt của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam có lẽ do một duyên may nào đó hoặc do vị trụ trì chùa này, một thượng toạ đã viên tịch sau lần cầu siêu cho tướng Nam vào ngày bốc cốt và gởi vào chùa, là người có giao tình với gia đình của thiếu tướng. Hũ tro cốt của tướng Nam được đặt vào ngăn thứ 5 trong tủ kính nhỏ kê sát bức tượng Ðịa Tạng Vương trên bàn thờ giữa phòng.


Khác những năm trước, chiều nay tôi vào thăm ông từ lúc 1 giờ trưa, địa tạng đường khóa ngoài, người trông coi vắng mặt. Tôi trở ra quán cà phê Dương Cầm nằm trên con đường nhỏ gối đầu Lê Quang Ðịnh, tôi không chờ, không đợi ai, và tôi biết ngày hôm nay tôi chỉ có một việc: Bước vào địa tạng đường, thắp một nén hương cho một vị anh hùng đã tuẫn tiết theo thành khi nước mất nhà tan, bằng khí tiết của một tướng tư lệnh.









Ông tự kết liễu đời mình vào ngày + N, sau khi đã vào thăm các binh sĩ của mình trên con đường giữ nước không may thương tật đang được nằm điều trị trong bệnh viện Phan Thanh Giản. Ông vô cùng can đảm khi phó tướng của ông, chuẩn tướng Lê Văn Hưng đã đi trước ông một bước. Tướng Hưng đã tự sát bằng chính cây súng lệnh của mình khi giặc tràn vào bộ tư lệnh và khi kế hoạch phản công của tướng Nam cùng ông với những đặc lệnh truyền tin đủ chuẩn bị cho cuộc kháng cự “cố thủ miền Tây” dù Sài Gòn đã thực sự buông súng để rơi vào tay Bắc quân.


Một kế hoạch dựa vào kinh nghiệm chiến đấu trên sông rạch của hai ông bị một đại tá có nhiệm vụ thi hành đã nhẫn tâm ném nó vào sọt rác và ra đi theo đoàn người di tản, để lại một hậu quả tang thương cho vùng IV sông ngòi.


Ly cà phê nhỏ những giọt chậm, buồn hơn mọi ngày. Trong cái sánh đen của màu cà phê, tôi còn như thấy được hạt máu những anh hùng bất tử đã đổ xuống cho quê hương nầy như năm tướng Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng và Nguyễn Khoa Nam.


Uống ly cà phê tôi còn nghe vẳng đâu đó một bản nhạc buồn “Anh hỡi anh ở lại Charlie, anh hỡi anh giã từ vũ khí.” Tôi nghĩ tôi phải tội nghiệp cho ông tướng mà chiều nay tôi sẽ đốt một nén nhang tưởng niệm ông. Ông chết chi vào cái ngày mắc dịch đó để không có ai làm cho ông một bài hát đại khái như vầy cũng được:
“Tôi thương ông, người chiến sĩ không bán mình cho giặc, biết chết và chết oai hùng, ngay trên đống tro tàn còn bốc khói...”


Tôi trở lại chùa Già Lam lúc 6 giờ chiều, và đúng chiều nay sau khi uống ly cà phê suốt 4 giờ chết tiệt.


Người giữ cửa vẫn chưa tới. Tôi bước thẳng vào trong khi thấy lấp ló một tăng nhân trong đó, tôi trình bày ngắn gọn và được giúp đỡ tận tình. Ông đưa cho tôi xâu chìa khoá, chỉ cho tôi cái chìa để mở cửa phòng chứa tro cốt của tướng Nguyễn Khoa Nam. “Ông biết chỗ rồi phải không? Hay để tôi chỉ cho ông?” Tôi cám ơn vị tăng nhân và cầm chìa khoá đi thẳng lên tầng trên.


Ðịa tạng đường tối âm u, cái u uất thường cảm nhận ở những nơi như vầy. Chiều đã hết, bây giờ là thời gian của âm khí, cái âm khí rợn dọc sống lưng, giống như một bãi tha ma. Theo lời chỉ dẫn của tăng nhân khi nãy, tôi kéo cầu dao bật điện, mở cửa bước vào phòng.


Bức tượng Ðịa Tạng Vương bồ tát to lớn đặt giữa phòng, cái lư hương trống trơn không một que nhang tàn trong đó. Tôi thật sự xúc động. Hôm nay ngày giỗ của ông, thì tại nơi này, nơi đặt lọ tro cốt của ông, chút thân xác hóa tro đó, anh linh của một thời hiển hách đó, nhang tàn khói lạnh. Không ai, quả thực không ai buồn thắp nén nhang cho ấm lòng.


Tôi lấy cái quẹt ga để sẵn trên bàn thờ và lựa ba nén nhang, loại nhang thường nhất, nhỏ nhất và ngắn nhất thắp lên bàn thờ bồ tát. Tôi đứng nghiêm trước di ảnh tướng Nam, chụm chân chào ông theo kiểu nhà binh mà tôi học lóm được trong bộ đồ dân sự, trong tính cách một thường dân Nam Bộ. Tôi chào viên tư lệnh vùng IV đã tuẫn tiết theo thành vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5 của 35 năm về trước với tất cả lòng kính trọng và một chút ngậm ngùi. Khi nhìn quanh, chỉ có mình tôi trong chiều xuống giữa địa tạng đường âm u với duy nhất 3 nén nhang thường.


Tôi nhớ trong lòng, 5 năm qua, những lần tôi đến đây, hôm nay ngày tôi buồn nhất. Trước khi ra về, tôi nói nhỏ với di ảnh của người, tôi xin ông cho tôi ghi lại bức ảnh của một tư lệnh, trong chân dung người lính ngày mới ra trường, dù nó không đánh dấu tính oai nghiêm của một danh tướng, nhưng nó là tất cả cái cao thượng, thanh liêm và chất phác của một người đã nằm xuống thực sự hiến dâng cho đất nước.

Bước xuống trả xâu chìa khoá trên bàn vị tăng nhân đã cho tôi mượn, sau khi kéo cầu dao trả lại bóng tối cho những người đã chết, tôi bước ra sân ghé cái quán lá của người lính cũ giữ xe ngoài cổng, tôi mua bao thuốc. Chưa kịp chào, ông đã nhận ra tôi với nhiều lần lui tới, ông trầm giọng cho vừa đủ nghe: “Ba năm nay, ngày này sao không thấy ai đến đốt nhang cho thiếu tướng, chỉ có mình ông thôi hả?” Tôi cười như mếu quay mặt bước đi, tôi lẩm bẩm một mình: “Hôm nay ngày 1 tháng 5, ba mươi lăm năm rồi. Và ba năm qua chưa có ai nhớ mà về đốt cho tướng Nguyễn Khoa Nam một nén nhang!” (N.T.K.)


(Nguồn: http://www.vietherald.com)

30.4.10

30 tháng 4, 1975 và cụ Nguyễn Văn Huyền




Vũ Ánh
(04/09/2010)

Lần chót tôi gặp cụ là vào khoảng 7 giờ tối ngày 28 tháng 4, 1975. Từ 8 giờ sáng ngày hôm đó, với tư cách là Phó Tổng Thống của “Big Minh,” cụ được giao nhiệm vụ vào trong trại Davis ở khu Tân Sơn Nhất, trụ sở của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, để theo lời cụ, thương lượng với viên tướng độc nhãn Việt Cộng Hoàng Anh Tuấn, hầu tránh một cuộc đổ máu vô ích. Lúc xẩm tối 28 tháng 4, khi vừa từ đài truyền hình THVN-9 trở về thì nhận được điện thoại của Tổng Trưởng Thông Tin Lý Quí Chung là phải chuẩn bị để đón tiếp Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền và chuẩn bị sẵn một phòng vi âm để thu thanh hiệu triệu của cụ Huyền. Lý Quí Chung cho biết là cụ Huyền sẽ từ Tân Sơn Nhất đi thẳng về đài.

Tôi ra lệnh cho câu lạc bộ chuẩn bị sẵn một số khăn ướp lạnh và nước uống cho cụ trước khi cụ vào phòng vi âm, rồi gọi trưởng ban an ninh cho khám xét an ninh phòng vi âm B, tức là phòng vi âm chỉ để đón tiếp các khách VIP. Khoảng 10 phút sau, một toán an ninh từ Phủ Thủ Tướng sang để duyệt lại lần chót về an ninh trước khi cụ Huyền tới.

Vào khoảng thời gian đó, sức khỏe của Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền đã xuống rất nhiều. Trước đây, khi còn làm Chủ Tịch Thượng Nghị Viện, mỗi khi lên các bậc thềm ở trụ sở Hội Trường Diên Hồng hay cửa trước Dinh Ðộc Lập, cụ mới cần người dìu lên. Nay đi đâu cũng phải có người dìu.

Là người Công Giáo thuần thành, cụ nổi tiếng là người đạo đức, thanh liêm. Dường như, suốt cuộc đời làm chính trị, cụ không bị dính tới bất cứ một vụ tai tiếng nào về tiền bạc hay đạo đức chính trị hoặc đối xử tệ hại đối với các đồng viện hoặc đối với những người biểu lộ rõ rệt là không thích quan điểm của cụ. Thực tế, cũng khó kiếm ra một người mà ngay cả vào lúc quyền lực cao trọng như cụ mà vẫn sống một đời sống khổ hạnh. Và có lẽ trong chính giới ở Quốc Hội VNCH, cũng khó tìm một người lúc nào cũng giữ giọng ôn tồn, nhẹ nhàng nhưng có sức nặng bằng những hòn đá tảng như cụ.

Người miền Nam, tính tình hiền hòa, cởi mở, không chấp nhất, câu nệ, nhưng rất cương quyết. Có một khoảng thời gian, một số những nhân vật thân chính ở trong chính phủ cũng như Quốc Hội toan tính vận động để sửa đổi số nhiệm kỳ mà một ứng cử viên tổng thống được quyền tranh cử, cụ đã thẳng thắn chống lại âm mưu này. Nếu kế hoạch thành công, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có quyền tranh cử thêm một nhiệm kỳ nữa.

Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền về đến đài phát thanh Sài Gòn trước 7 giờ tối. Người sĩ quan tùy viên dìu cụ xuống xe. Tôi tiến tới bắt tay cụ và nói: “Chúng tôi nhận được lệnh đón tiếp Phó Tổng Thống. Phó Tổng Thống khỏe chứ ạ?” Qua làn kính cận, đôi mắt cụ Huyền sáng quắc. Cụ nói: “Hổm rày cũng không được khỏe lắm. Mình làm việc ngay được chứ?” “Vâng, chúng tôi đã chuẩn bị xong.”

Tôi đi chầm chậm hướng dẫn cụ Huyền vào sân cỏ hẹp chạy dọc theo các dãy phòng làm việc. Một số nhân viên mở cửa phòng tính đi theo cụ Huyền, nhưng bị trưởng ban an ninh mời ra. Ðúng theo kế hoạch và vì vấn đề an ninh, chỉ có những người nào có phận sự mới được lại gần khu vực phòng vi âm.

Thấy như vậy, cụ Huyền nói: “Thôi cứ để họ lại gần, qua muốn bắt tay và cảm ơn giờ này họ vẫn còn ở lại.” Cụ bắt tay từng người, hỏi thăm gia cảnh và đích thân ngỏ lời cảm ơn các nhân viên và các biên tập viên. Hai “tài xế” chủ câu lạc bộ đưa cho cụ một khay gồm khăn bông nhỏ trắng phau ướp lạnh và ly nước. Cụ Huyền nói: “Thôi để vào trong phòng vi âm.” Tôi hướng dẫn Phó Tổng Thống vào phòng vi âm và kéo ghế cho cụ ngồi trước microphone, rồi dặn dò cụ, rồi sau đó để cho ngoài phòng máy thử giọng và đo âm lượng. Loại máy hiệu Ampex mà từ lâu hệ thống truyền thanh quốc gia tín nhiệm có độ trung thực gần như 100%, nên cũng không cần thử máy nhiều lần. Cụ Huyền nói: “Qua quen mấy vụ này lắm rồi, em yên tâm.” Như Tổng Thống Dương Văn Minh, cụ Huyền dùng từ “qua” làm ngôi thứ nhất.

Bài hiệu triệu của Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền dài khoảng 7 phút đồng hồ, trong đó cụ chia làm hai phần. Phần đầu cụ tường trình về cuộc thương lượng với “phía bên kia” và phần thứ hai là kêu gọi mọi người tôn trọng luật pháp, tránh hoảng loạn, tránh những hành động có thể khiến lực lượng an ninh hiểu lầm. Cụ cũng kêu gọi lực lượng quân đội và cảnh sát sát cánh để giữ an ninh trật tự và thẳng tay đối với những kẻ cướp và hôi của. Bên ngoài phòng vi âm, nhân viên tụ tập vòng trong vòng ngoài và trời bỗng đổ xuống một cơn mưa nhẹ. Tiếng cụ Huyền trong hệ thống loa kiểm soát ngoài phòng máy vẫn lồng lộng, không vấp váp và đầy tình cảm. Cuối cùng, cụ Huyền kêu gọi mọi người bình tĩnh và kiên nhẫn chờ đợi những quyết định của chính phủ. Khi cụ dứt lới, trên mắt mọi người từ trong và ngoài phòng vi âm đều đẫm nước.

Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền, rút trong túi áo chiếc khăn mù xoa trắng, chậm nước mắt. Cụ quay sang tôi và hỏi: “Trong đài hiện nay còn bao nhiêu người?” Tôi trình bày: “Thưa Phó Tổng Thống, ngay bây giờ đây chúng tôi có khoảng 40 người, những người còn ở lại làm việc tối nay dựa trên nguyên tắc tình nguyện. Hồi trưa, ông Tổng Trưởng Thông Tin nhắc lại lệnh của Tổng Thống là chỉ để lại những người cần thiết. Tôi đã cho những người không cần thiết về rồi. Số còn đứng ngoài kia họ chưa chịu rời khỏi đài.”

Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền chậm rãi, nhưng giọng đầy xúc động: “Thật tình là chúng ta tuyệt vọng rồi. Qua không biết lấy gì để cảm ơn mấy em còn ở đây cho đến giờ phút này. Ðiều mà chính phủ cần bây giờ là thương lượng để họ (VC) đừng tắm máu những người dân vô tội. Cho nên tiếng nói quốc gia bây giờ rất cần thiết. Thành phố còn tương đối yên lành, ít cướp bóc và hôi của cũng là nhờ còn có đài phát thanh. Còn đài, họ biết là chính quyền còn nên chưa dám làm bậy.

Tôi hỏi cụ Huyền: “Cuộc thương lượng có kết quả gì không thưa Phó Tổng Thống?” Cụ trầm ngâm một chút rồi trả lời, ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa: “Lúc VNCH còn mạnh, họ cũng còn chưa chịu thỏa hiệp huống chi bây giờ. Chính phủ thì mới thành lập chưa được một ngày. Nhưng qua cũng nhịn nhục vào gặp họ chỉ để yêu cầu họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài Gòn, chết người thêm chi cho vô ích. Riêng qua và ông Minh thì còn kể số gì nữa, họ xử ra sao cũng được.

Tôi hỏi cụ một câu chót: “Chúng tôi được biết, Phó Tổng Thống nhận lời’Big Minh’ rất trễ. Như vậy Phó Tổng Thống cũng biết trước là tình hình sẽ diễn tiến như hiện nay?” Cụ Huyền thẳng thắn: “Khi ông Thiệu bỏ đi, ai cũng đoán được là tình hình cuối cùng sẽ như hiện nay. Chúng tôi đứng ra nhận trách nhiệm khi biết rõ không còn phương sách nào có thể cứu vãn được. Trước khi chúng tôi quyết định, nhiều anh em đã nói, ngu dại gì mà bước vào làm việc trong hoàn cảnh này, nhưng tôi nghĩ đã là kẻ sĩ thì không thể nào thiếu trách nhiệm đến mức thời bình thì ngựa xe quyền lực, nhưng khi đất nước tan hoang thì lại bỏ đi tìm sự yên thân.”

Chờ đến khi trời dứt mưa hẳn, chúng tôi tiễn cụ Huyền ra xe. Cụ lại bắt tay từng người, mắt vẫn sáng quắc. Ðó là lần cuối cùng, tôi được gặp và nói chuyện với cụ, được biết tâm sự u uất của một người yêu nước. Khi vào trại cải tạo, chúng tôi có gặp lại một vài nhân viên đã từng được biệt phái làm việc trong văn phòng Chủ Tịch Thượng Nghị Viện VNCH. Họ cho biết cụ Huyền không bị đưa vào trại cải tạo nhưng bị quản thúc rất kỹ tại gia. Ngay cả vào chiều 29 tháng 4, sáng 30 tháng 4, 1975, cụ có nhiều cơ hội để ra đi, nhưng cụ đã từ chối. Và từ sau buổi sáng ngày 30 tháng 4 cách đây 35 năm, cụ Huyền giữ im lặng cho tới lúc qua đời. Và cũng từ đó không còn ai nhắc nhở đến cụ nữa.

Sang đến hải ngoại, tôi chỉ còn nghe thấy người ta gọi cụ Trần Văn Hương là kẻ sĩ cuối cùng của VNCH, chứ còn cụ Huyền thì thường là bị tiếng đời trách cứ vì cụ là phó của Tổng Thống Dương Văn Minh, trong khi “Big Minh” thường bị lên án là đã dâng miền Nam cho Cộng Sản.

Nhưng cá nhân, vốn là người từng học sử và đọc sử, tôi tin rằng những trách cứ bất công dành cho những nhà lãnh đạo cuối cùng của chế độ VNCH không có giá trị sử học. Vì nó không khách quan. Vì những người phán đoán còn có liên hệ đến biến cố lịch sử 30 tháng 4, 1975. Khi không còn lớp người này nữa thì thế hệ về sau sẽ truy cứu một cách độc lập những sử liệu, dùng sự đối chiếu khoa học để đưa ra các nhận xét vô tư hơn để tìm hiểu xem vì đâu, nguyên nhân nào dẫn tới sự đầu hàng vô điều kiện của VNCH chứ không phải ai là người ra lệnh đầu hàng. Một vài người đạp một căn nhà mà cột kèo chưa bị mục, nó không thể đổ. Nhưng một căn nhà cột kèo đã mục nát hết nó cũng sẽ đổ mà không cần người đạp. (V.A.)



(Nguồn:  http://www.vietherald.com)



Hãy nói về những người ở lại



Vũ Ánh
(04/03/2010)

Trong cuộc chiến kết thúc cách đây 35 năm, trong số dân chúng hai miền Nam và Bắc Việt Nam, có rất nhiều người Việt Nam yêu nước. Nhưng cách yêu nước của họ khác nhau và sự lựa chọn việc biểu lộ lòng yêu nước cũng khác nhau. Chỉ tính dân số miền Nam Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở xuống tới mũi Cà Mau, chúng ta cũng không thể chối cãi được rằng sự chọn lựa và tư tưởng yêu nước cũng không thể thoát ra ngoài qui luật trên.

Nhưng chiến thắng của người Cộng Sản và họ thống nhất đất nước cho thông thương hai miền Nam Bắc đã giúp dân chúng của hai miền so sánh những thứ mà họ có trong tay, trong cuộc sống hàng ngày. Thực tế ở miền Nam đã giúp thay đổi khá nhiều cách nhìn của những người dân miền Bắc đối với cái mà họ gọi là “giải phóng miền Nam” và làm cho một số người miền Nam trong chiến tranh vẫn còn mơ mộng tới hình ảnh trong sáng của cuộc kháng chiến chống thực dân nay không còn mơ mộng nữa. Nhưng tất cả dân số đó khi nhận chân được sự thật thì đã quá muộn. Tất cả dân chúng từ Bắc chí Nam đều phải sống trong một nhà tù vĩ đại, tinh vi ở Việt Nam. Nó không có những bức tường bê tông cốt sắt, hàng rào kẽm gai, nhưng vẫn xiềng xích, quản thúc được con người.

Tuy thế, cũng có nhiều người may mắn thoát ra được khỏi cái nhà tù vĩ đại ấy: Ðó là chúng ta, những người di tản, vượt biển, vượt rừng, HO, đoàn tụ gia đình. Cái giá để đánh đổi lấy tự do rất lớn. Nhưng bù lại chúng ta có được một cộng đồng tại một nước dân chủ, làm việc cực nhọc nhưng không đói, bị khinh khi lúc chân ướt chân ráo đến đây, nhưng nay dần dần sự đóng góp và hội nhập của cộng đồng Việt Nam tại Mỹ cũng đã làm thức tỉnh rất nhiều người Mỹ dòng chính. Rõ ràng chúng ta là những người may mắn và được che chở bởi một phép lạ.

Nhưng mỗi lần nhìn đến những hình ảnh cũ của sự thất bại của chúng ta, nhớ lại những hình ảnh tan tác của một quân đội không thiếu lòng dũng cảm, không thiếu kinh nghiệm tác chiến, từng là một trong những thành trì vững mạnh ngăn chặn làn sóng đỏ, ai là người đã từng chứng kiến giờ phút đen tối ấy của một tiền đồn thế giới tự do mà không đau, không xót. Nghĩ cho cùng thì cái giá lớn lao mà quân, dân, cán, chính miền Nam Việt Nam phải trả là thiếu lãnh đạo thượng tầng sáng suốt và những đồng minh chung thủy.

Trong 35 năm qua, người Việt Nam ở hải ngoại đã nói nhiều tới cái giá mà mình phải trả để có được tự do. Nhưng chúng ta đã nói gì về cái giá mà những người còn ở lại không có hoàn cảnh như chúng ta chưa? Trước hết, nhiều người về thăm gia đình, khi quay lại Mỹ, được hỏi về một số những bạn cũ, thì phần nhiều đều nói: “Bọn họ bây giờ giầu lắm.

Một cựu phóng viên đài phát thanh Sài Gòn, có thời làm việc dưới quyền tôi, trở lại Việt Nam vì có việc tang chế, cố tìm đến một cựu phóng viên khác khá thân thời còn làm việc chung không ra nước ngoài. Nhưng cả hai chỉ nói chuyện được với nhau đúng năm phút trong lạnh nhạt. Khi anh quay trở lại Mỹ, tôi hỏi thăm về chuyện này, người bạn đồng sự với tôi nói: “Anh ơi, em phải ngồi chờ nó 30 phút, qua 3 cửa an ninh, mới được gặp, nhưng nó lạnh nhạt nên em cũng không muốn nói chuyện lâu.”

Một người bạn tù của tôi trước đây, không đi HO mà “ở lại để chứng kiến sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản” nay sang du lịch vì con gái của anh ở Mỹ mua vé máy bay. Anh sang đây chơi nhưng phải để vợ ở lại. Tôi hỏi: “Mày sống ra sao?” “Cũng tàm tạm vì tao bán được cái nhà, rồi cho vợ đi buôn bán rỉ rả cũng sống được.” Tôi hỏi thăm về những người bạn mà chúng tôi cùng quen, anh nói: “Mẹ kiếp, chưa thằng nào chết, nhưng vất vả nhếch nhác lắm. Thằng L. phải đi bán nhang (hình thức đi xin), bây giờ thì khá hơn. Cu cậu lên chức ca sĩ hè phố rồi.

Dĩ nhiên, những tin tức trên chưa thể mang lại cho tôi một hình ảnh nào rõ rệt về cái xã hội hiện nay ở Việt Nam, trong khi trên các trang mạng, những tin tức được loan báo trái ngược nhau, lại không có độ xác tín cao. Thế còn những quân, dân, cán chính chen chúc nhau, dẫm đạp lên nhau chỉ cố lọt vào được hàng rào sứ quán Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất cách đây 35 năm, bây giờ họ sống ra sao? Những người lính tan hàng, cởi bỏ quân phục, súng ống ba lô, để thoát thân sau lệnh đầu hàng, những gia đình có người thân trong quân đội, cảnh sát, tự tử ngày 30 tháng 4, 1975, hoặc tử trận trước và sau giờ đầu hàng, những nghệ sĩ từng góp phần vào mặt trận văn hóa, những cán bộ xây dựng nông thôn của đoàn 59 người đã từng góp phần vào công tác bình định, những người lính địa phương quân, nghĩa quân, bây giờ đời sống của họ ra sao, số phận của con cái họ như thế nào?

Trong suốt 35 năm qua, có được bao nhiêu trang báo, có được bao nhiêu giờ trên các hệ thống truyền thông Việt ngữ, có bao nhiêu lễ tưởng niệm 30 tháng 4 được dùng để nói về họ, có bao nhiêu bài nghiên cứu đề cập đến số phận của những người này?

Ngày 30 tháng 4, 1975 có phải là ngày chỉ dành riêng cho cộng đồng tị nạn Việt Nam không? Thế còn những người quốc gia không có cái may mắn sang đây như chúng ta thì ngày 30 tháng 4 có phải là ngày của họ không?

Ðặt ra những vấn đề đó chỉ là một cái cớ để nói với các nhà làm chính trị, các nhà tranh đấu rằng họ cần phải canh tân đường lối đấu tranh. Ba mươi lăm năm qua, dù muốn dù không, có thể đã có một bức tường giữa người dân trong nước và cộng đồng hải ngoại chỉ do sự hà khắc của chế độ đương thời tại Việt Nam và lòng hoài nghi về sự hữu hiệu của những phương thức tranh đấu của một số tổ chức chống Cộng ở hải ngoại. Người chống Cộng ở hải ngoại cần phải tìm hiểu và phá bỏ nó, nếu không, công cuộc chống Cộng trở thành chống lẫn nhau. (V.A.)



(Nguồn:  http://www.vietherald.com)

“35 Năm Nhìn Lại” cuộc chiến bị ngộ nhận



Vũ Ánh
(04/15/2010)
 

Cuộc chiến tại Việt Nam đã kết thúc cách nay 35 năm, nhưng nó chưa kết thúc trên báo chí, truyền thông, chưa kết thúc trong các thư viện, chưa kết thúc trong các cuộc hội thảo. Lý do cũng khá dễ hiểu: Cuộc chiến chấm dứt với khá nhiều u uẩn cả bên thua trận lẫn bên thắng trận. Chúng tôi không ở bên thắng trận nên chỉ đề cập đến những u uẩn của những người mặc áo lính VNCH. Ðiều này có nghĩa là vẫn còn nhu cầu, nếu không muốn nói là rất cần thiết, để bàn cãi, để làm sáng tỏ thêm những điều còn bị che lấp bởi bóng tối, bởi ngộ nhận. Và đó là lý do tại sao, có một cuộc hội thảo chủ đề “35 năm nhìn lại” được tổ chức tại “US Army & Navy Club” ở thủ đô Washington, DC, vào cuối tuần rồi, qui tụ 50 nhân vật gồm những cựu tướng lãnh, những nhà nghiên cứu quân sự, nghiên cứu sử học của Mỹ, các cựu viên chức cao cấp của VNCH trong thành phần diễn giả và người tham dự lên tới 200 người.

Vào dịp những người Việt tị nạn chuẩn bị tưởng niệm thảm kịch 30 tháng 4, một cuộc hội thảo với tầm cỡ này được tổ chức như vậy là một việc làm có ý nghĩa lớn lao, một nỗ lực đáng kể của ban tổ chức trong cố gắng đưa những khúc mắc trong cuộc chiến Việt Nam ra trước ánh sáng để xóa tan đi những ngộ nhận nằm chất đống và bị bỏ quên trong những kho dữ liệu, bỏ mặc những sai lạc cứ chồng chất mãi lên.

Phải đợi đến 35 năm sau, mới có một cuộc hội thảo tầm cỡ như cuộc hội thảo “35 năm nhìn lại” là đã muộn màng rồi, nhưng vẫn còn kịp thời trước khi những nhân chứng trong cuộc chiến theo nhau trở thành người thiên cổ. Khi bước vào những thư viện lớn của Mỹ hay các nhà sách nổi tiếng tại Mỹ, chúng ta sẽ thấy những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam của các tác giả Mỹ chiếm một phần danh sách khá dài so với những cuốn sách viết về các cuộc chiến tranh khác. Nhưng họ viết gì? Phải nói rằng, các tác giả Mỹ với thói quen làm việc mà họ được huấn luyện từ các trường đại học ở Mỹ, nên những dữ kiện họ đưa ra đều là những việc có căn cơ biên niên sử khá vững vàng. Nhưng không thể chối cãi được là phần đông họ sử dụng các dữ kiện ấy với nhãn quan của người Mỹ. Họ ít khi đề cập đến vài trò của phía VNCH hay có đề cập thì cũng chỉ một vài dòng, coi QLVNCH chỉ là lực lượng phụ, không đáng kể, kém hoạt động, kém năng lực.

Không phải bây giờ mà ngay từ thời chiến tranh, dư luận Mỹ đã ngộ nhận là cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến giữa Mỹ và Cộng Sản. Ngay trong một số những quân nhân thuộc các đơn vị Mỹ đổ bộ đầu tiên lên bãi biển Non Nước, Ðà Nẵng, tháng 5, 1965, khi được báo chí phỏng vấn, phần đông vẫn cho rằng họ đến đây để thực hiện nhiệm vụ được giao phó là “bảo vệ” QLVNCH chứ không phải là “chiến đấu bên cạnh” QLVNCH.

Phía Cộng Sản thì quỷ quyệt hơn. Họ luôn luôn nhấn mạnh đến vai trò của quân đội Hoa Kỳ và ám chỉ đến sự phụ thuộc và kém cỏi của quân đội VNCH. Tuy nhiên, chính người Cộng Sản cũng đã phải nhìn nhận họ bị những tổn thất do chính quân lực này gây ra.

Chẳng hạn như vụ tổng tấn công Tết Mậu Thân ở ngoài Huế, phần lớn báo chí và các hãng thông tấn Hoa Kỳ cho rằng đây là thất bại của VNCH.

Nhưng trên thực tế, đó là một thắng lợi cho dù VNCH phải chấp nhận những thiệt hại nhất định. Trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế 1968, lực lượng Hoa Kỳ án binh bất động và việc chiếm lại Huế là hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm kể cả phi pháo. Ðó là về mặt quân sự. Còn về mặt chính trị, phải nói rằng trước khi rút khỏi Huế, Cộng Sản đã tàn sát khoảng 6,000 người đủ mọi thành phần quân, dân, cán, chính và các tu sĩ công giáo bị họ bắt được. Chính vì hành động này mà những đơn vị Cộng Sản dưới quyền của Thân Trọng Một đã lộ nguyên hình là bọn tội phạm chiến tranh. Báo chí Hoa Kỳ thường rất nhạy cảm với những tội ác chiến tranh, nhưng lúc đó họ im lặng. Rồi đến trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Ðây là một cuộc phản công tiêu biểu chứng tỏ rằng viên đạn cuối cùng chưa ra khỏi nòng súng, chưa chắc đã là sự thất bại. Chúng ta mất một phần của tỉnh Quảng Trị, nhưng việc cắm được lá cờ VNCH tại cổ thành đã vực lại được tinh thần chiến đấu của toàn thể QLVNCH và khiến cho dư luận quốc tế phải thay đổi cách nhìn cuộc chiến Việt Nam.

Năm 1972, trận tái chiếm An Lộc, một trận máu thịt của quân đội VNCH, các hãng thông tấn đều tường thuật với cách mô tả kiểu “cầm bằng là An Lộc sẽ lọt vào tay Cộng quân chỉ trong ngày một ngày hai,” nhưng từng bước một, quân đội của chúng ta đã tái chiếm và người hùng Lê Văn Hưng đã như một ngôi sao chói rạng và là đề tài cho nhiều tờ báo Mỹ khai thác.

Chúng tôi nêu lên những trận đánh tiêu biểu này bởi vì đây là những trận đánh cho thấy một điểm rất rõ rệt: Không có sự trợ lực của quân đội Mỹ, QLVNCH thừa khả năng để tự vệ và tấn công nếu như họ được yểm trợ đầy đủ đạn dược.

Ngay cả trong trận Mậu Thân, quân đội đã cho các quân nhân đi phép hết một phần ba, thì bất ngờ Việt Cộng vi phạm lệnh hưu chiến. Tuy bất ngờ và không được Hoa Kỳ yểm trợ, VNCH vẫn đứng vững và Hà Nội đã nướng tất cả lực lượng của vệ tinh của họ là MTGPMN nhất là cơ sở hoạt động bí mật của họ lộ diện và bị lực lượng an ninh VNCH phá tan. Ðây là dữ kiện có thật không phải là đồn đoán.

Gần đây, dư luận Mỹ đã nhìn lại đôi phần cuộc chiến Việt Nam, đã phục hồi lại danh dự của rất nhiều cựu binh trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng còn sót lại vẫn là một kiểu mẫu: Ðổ lỗi cho việc thua trận ở Việt Nam là do quân đội VNCH thiếu chiến đấu. Khuynh hướng đổ lỗi và coi thường quân đội VNCH là một khuynh hướng vẫn còn khá thịnh hành. Cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã nói lên một phần lý do tại sao khuynh hướng này vẫn còn tồn tại. Nhưng cá nhân, tôi không thấy rằng chúng ta cần duy trì mãi việc đổ lỗi cho kết cục của cuộc chiến Việt Nam cho Hoa Kỳ. Trước khi trách người thì hãy trách mình trước.

Vấn đề còn lại cần thiết cho chúng ta vào lúc này không phải là biện minh. Chúng ta không cần biện minh mà cần chứng minh rằng trong chiến tranh chúng ta đã chiến đấu như thế nào. Chúng ta thua trận, điều đó là rõ ràng rồi, không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, những thế hệ người Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại sau này cần biết chúng ta ngăn làn sóng đỏ như thế nào, chúng ta có hèn nhát vô trách nhiệm trong chiến tranh không. Muốn như thế, những người yêu nước, yêu quân đội–mà nhiều người vẫn còn sống đến ngày nay–sống chung quanh ta còn khá nhiều. Hãy liên lạc với họ, nói chuyện với họ, nghe họ kể lại chuyện đời lính của họ, tập trung lại những tài liệu này, san định, hiệu đính, in ấn thành từng tập xuất bản hàng năm. Viết được bằng tiếng Anh thì càng tốt, còn không viết tiếng bằng tiếng Việt, thì sẽ có người dịch thuật. Khi viết, không cần văn chương, chỉ cần đúng sự thật, khách quan, với những kinh nghiệm cụ thể mà mình trải qua.

Một người không thể làm được chuyện này, phải nhiều người nhiều nhóm góp sức với nhau mới có thể làm được. Theo ý nghĩ riêng của tôi, những người đã đứng ra tổ chức hội thảo “35 năm nhìn lại” là những người có đủ tầm nhìn để điều hợp những công việc vừa kể. Nhiệm vụ thật ra rất khó khăn, chúng ta lại không còn nhiều thời gian, cho nên cần vận động gấp rút sự đóng góp của toàn bộ những cựu quân nhân, công chức, cựu cán bộ và những người liên hệ trực tiếp đến cuộc chiến tranh Việt Nam ở phía chúng ta (VNCH). Những nhân chứng sống này rất quý, nhưng phần lớn tuổi đã cao. Nếu chúng ta thực hiện việc này quá chậm, tôi sợ cơ hội sẽ qua đi. Lúc đó công việc sẽ khó khăn hơn khi chúng ta phải đối chiếu lại để biết mức độ khả tín của từng nhân chứng đã khuất.

Từ lâu, chính giới Mỹ, truyền thông hay những nhà nghiên cứu Mỹ, hoặc thế hệ thứ hai của người Mỹ gốc Việt lại không đọc được tài liệu tiếng Việt mà tài liệu viết bằng Anh ngữ thì quá ít. Cho nên, để cho công tác hiệu đính lại những sự thật chiến tranh còn bị che giấu là công tác hết sức quan trọng nếu như chúng ta muốn làm sáng tỏ cuộc chiến đấu và vai trò của QLVNCH trong cuộc chiến Việt Nam để tẩy rửa những ngộ nhận và bất công.

Từ trước đến nay, người Mỹ gốc Việt Nam chỉ quen làm lớn nhiều chuyện, nhưng tác dụng chỉ lại quanh quẩn trong cộng đồng người Việt, còn những nhà nghiên cứu không đọc được tiếng Việt thì đành chịu thua trong khi những cựu quân nhân VNCH, những nhân chứng giá trị nhất thì không lại gần được vì ngôn ngữ bất đồng. Vả lại một điều thật quan trọng: Những thế hệ người Việt Nam ở hải ngoại sau này không đọc được tiếng Việt. Dịch thuật vì thế cũng rất cần thiết để chuyển những phúc trình, những ký sự, những cuộc phỏng vấn sang tiếng Anh.

Những người này có thể giúp tay tình nguyện gồng gánh những công việc vừa kể cũng không thiếu, nhất là thế hệ thứ nhất của người Việt tị nạn hiện nay có con cái đã lớn và đã về hưu, tương đối nhẹ gánh gia đình và còn sức khỏe để làm việc vài năm nữa.

Việc gây quỹ để in ấn các tài liệu chắc cũng không có gì khó khăn lắm. Chỉ cần những tấm lòng. (V.A.)



(Nguồn:  http://www.vietherald.com)

Ngày 30 tháng 4, 1989 tại Bình Thạnh




Vũ Ánh
(03/26/2010)

Ngày 30 tháng 4 đầu tiên ở ngoài xã hội của tôi tại Sài Gòn chính là ngày 30 tháng 4, 1989. Từ trại cải tạo được thả về cuối 1988, tôi được ăn cái Tết đầu tiên không phải ở trong trại tù năm 1989, và vài tháng sau trải qua ngày 30 tháng 4 không phải bị cùm trong nhà kỷ luật. Từ năm 1978 cho đến mãi 1985, không ngày 30 tháng 4 nào là tôi không cùng một số bạn tù khác có tên trong sổ đen của trại giam và bị “mời” vô nhà kỷ luật từ ngày 28 tháng 4 vì họ sợ chúng tôi làm mất trật tự trong trại giam. Chúng tôi có khi bị giam đến hết tháng 5 mới được thả về trại giam chung. Nhưng từ 1980 cho đến hết 1985, họ giữ tôi luôn ở trong biệt giam cá nhân cho “tiện bề sổ sách.”

Năm tôi được tạm tha, theo giải thích của Vinh “thùng rác,” công an khu vực, với thời gian quản chế (quản thúc tại gia) là 5 năm vào cuối năm 1988, năm mà Sài Gòn mới ở những bước đầu hồi sinh, việc có được một việc làm tay chân để mưu sinh không còn khó khăn nữa. Mấy tháng đầu khi trở về, lệnh quản chế còn khắt khe, Vinh “thùng rác” hay ghé qua nhà nhắc nhở tôi: “Này đừng có mà tìm cách trốn ra nước ngoài đấy nhé. Lần này chúng nó mà tóm được ông là án gấp đôi đấy.”

Nói thì nói vậy, nhưng Vinh “thùng rác,” vợ và 6 đứa con không thể sống bằng lương thượng úy, nên anh ta cũng cần “vun quen cá nhân” qua việc thu hụi chết các gia đình sản xuất hàng hóa lậu trong khu vực. Dần dà, tôi không còn phải trình diện công an khu vực hàng tuần nữa. Ngược lại, Vinh “thùng rác” phát cho tôi một cuốn sổ ghi số trang và dặn tôi đi đâu thì phải ghi ngày giờ và nơi đến, gặp những ai, sau đó cứ 3 tháng nộp một lần để anh ta xem, ký tên và đóng dấu. Tôi biết đây là “mưu sâu” của đám công an nên tốt nhất là giới hạn gặp bạn bè hay bà con vì nghĩ mình có thể gây phiền hà những người muốn gặp. Cho đến khi tôi đã ngồi lên yên chiếc xích lô để kiếm ăn hàng ngày thì Vinh “thùng rác” đã bắt đầu chán không muốn đọc sổ trình diện nên ra lệnh cho tôi trình diện nộp sổ một năm một lần.

Ngoài tình trạng quản chế do công an khu vực giám sát, một số thành phần tù cải tạo còn bị các cán bộ chính trị trong Mặt Trận Tổ Quốc “săn sóc” về mặt tinh thần. Ðiều này có nghĩa là hàng năm Mặt Trận Tổ Quốc quận Bình Thạnh cho người đến nhà tôi, năm nào cũng vào sáng 28 tháng 4 nói là mời tôi đi “tập huấn chính trị” tại phường từ ngày 29 tháng 4 cho đến hết ngày 2 tháng 5.

Tháng 4, 1989, tôi vẫn còn đang làm công việc cưa ván sàn cho một xưởng cưa ở Ngã Tư Bẩy Hiền để kiếm sống. Sáu giờ chiều về đến nhà, mẹ tôi đã đón ở cửa, đưa tôi một giấy mời và nói: “Trên phường họ lại mời tập huấn chính trị. Giấy nó đưa từ hồi sáng.” Tôi hơi giật mình tự hỏi không biết chuyện gì hay đây lại là trò mời đi học tập chính trị 10 ngày. Cơm nước xong, tôi chạy đến Vinh “thùng rác” và đưa giấy ra cho anh ta xem. Vinh cười cười rồi nói: “Chúng nó tập trung các ông lên phường để chẻ củi chứ chẳng có mẹ gì đâu. Năm nào chả vậy. Yên trí đi. Ðổi mới tư duy rồi.”

Cả đêm hôm đó tôi không ngủ được, chỉ mong sáng đến mau hơn. Mẹ tôi lo xa. Bà xếp sẵn cho tôi một túi xách gồm vài bộ quần áo, áo lạnh, khăn, kem và bàn chải đánh răng và một số thuốc âu dược cần thiết cảm cúm, tiêu chảy, kiết lỵ, sốt rét... Bà sợ tôi bị “mời” đi luôn. Buổi sáng 29 tháng 4, đúng 8 giờ sáng, tôi đã có mặt tại trụ sở phường, cách nhà tôi không xa lắm, nằm trên đường Chi Lăng. Có mặt cùng với tôi gồm 9 người khác, phần lớn cũng coi như mới được thả về dù trước tôi khoảng từ 4 đến 6 tháng.

Chúng tôi được dẫn vào một căn phòng phía sau trụ sở phường, trên sàn trải 10 chiếc chiếu y chang một phòng giam. Phân phối chỗ ngủ xong, một cán bộ phường dẫn chúng tôi ra ngoài sân xếp hàng. Lát sau, một người ăn mặc thường phục đến tự xưng tên Phinh, cán bộ khoa giáo của Mặt Trận Tổ Quốc. Ông ta nói: “Tôi được lệnh tập trung các anh ở đây để giữ an ninh cho các anh. Ðến nay đã 14 năm rồi, nhưng nhân dân còn giận các anh, họ có thể hành hung các anh trong những ngày này. Tốt nhất là các anh nên ở tạm đây vài ngày rồi về...” Sau đó ông ta nói tràng giang đại hải về chính sách hòa hợp hòa giải rồi dẫn chúng tôi sang lán củi phía bên kia đường thuộc công ty đời sống của quận Bình Thạnh.

Mỗi chúng tôi được phân một thước khối củi để “để lao động xã hội chủ nghĩa.” Anh chàng coi lán củi còn rất trẻ khoảng 20 tuổi phát cho chúng tôi mỗi người một cái rìu rồi nói: “Mấy anh để em chỉ rồi mới làm được. Bổ củi không thể chỉ dùng sức mà còn dùng trí.” Nói xong anh ta để một khúc gỗ lên cái đe cũng bằng gỗ. Anh giơ rìu lên và bổ từ ngoài vào trong khá nhanh và đều. Chỉ thoáng một cái, khúc gỗ đã biến mất, chẳng có điều gì phải sử dụng đến trí cả. Ðây là công việc cần người có sức không cần người có đầu óc.

Tôi được phân phối một thước khối các khúc củi đã chẻ đôi rồi. Chỉ cần chẻ đôi một lần nữa là xong. Có lẽ anh chàng chủ lán củi này thấy tôi cao nhòng, gầy và xanh nên giao cho tôi công việc nhẹ hơn chăng. Chẻ củi đến 12 giờ trưa thì nghỉ ăn trưa. Lau xong mồ hôi và thay được cái áo ướt đẫm, tôi đã thấy mẹ tôi tất tả xách gà men cơm đến. Bà muốn biết chắc xem là tôi còn ở phường không hay là bị đưa đi rồi.

Sau khi nghe kể, bà mới yên tâm. Rồi bà quay sang nói với Tiên, chủ lán củi, rằng: “Con giúp bác, đừng bắt anh làm việc nặng quá, mới về chưa lại sức đâu.” Tiên nhỏ nhẹ, nhưng mau mắn: “Bác yên tâm, con biết mà.” Sau đó tôi thấy lần lượt các người vợ và mẹ của mấy bạn tù với tôi cũng đến đưa cơm trưa. Trong bữa cơm, vợ của một người tù, tóc đã bạc hai bên thái dương, nói lớn để mọi người đều nghe: “Anh ráng cải tạo đi đừng chống lại nhà nước, chỉ khổ vào thân, nghe em đi...” Tôi không thấy Chín nói gì. Anh chỉ lặng lẽ ngồi ăn. Sau khi ăn xong, hớp một hớp nước trà do vợ mang cho, Chín nói: “Anh biết mà, khỏi cần dặn, ra ngoài này vẫn tù mà.” Cơm trưa xong, chúng tôi còn nửa tiếng đồng hồ để nghỉ trưa. Tôi và Chín ngồi trong một góc lán củi, hút thuốc lào bằng chiếc điếu bát do Tiên cho mượn.

Chín mời tôi một bi thuốc Cái Sắn và nói: “Ông hút thử. Thứ này buông điếu mới phê.”

Trong câu chuyện suốt thời gian bị cầm chân ở phường, tôi mới được biết Chín không phải là sĩ quan mà chỉ đi theo mặt trận Vinh Sơn, rồi theo Phục Quốc. Anh bị bắt và bị một “tòa án nhân dân” kết án 12 năm tù. Ở đúng 12 năm mới được thả. Chín hỏi: “Bao giờ đi?” “Ði đâu?” “Thì đi Mỹ chứ đi đâu, ngoài họ đồn dữ lắm.” “Tôi cũng chẳng hiểu, ăn nay biết nay, ăn mai biết mai thôi.” Chín nói: “Tôi làm công chức ở Bộ Tài Chánh. Tháng 8, 1975, theo Phục Quốc. Bị tóm ở Trảng Bom. Chúng lôi ra xử ở huyện Thống Nhất và bóc 12 cuốn. Cũng ngon lành, nhưng hết mẹ nó cả đời rồi.”

Do không muốn phải chui vào phòng “giam” phía sau trụ sở phường sớm, tôi và các bạn tù nhẩn nha bổ củi đến 6 giờ chiều thì xong chỉ tiêu. Ông Phinh lại xuất hiện dẫn chúng tôi về phường giao cho vệ binh: “Tôi giao lại đủ 10 người đấy nhé. Nói cho họ biết chỉ được di chuyển khu vực phía sau này, không được ra trước.” Sau khi tắm rửa xong, chúng tôi cắt cử người theo một vệ binh đi lãnh cơm ở bếp tập thể của phường đội gồm cơm, canh và cá kho. Mang về tới phòng thay vì chia như ở trong trại giam, chúng tôi ngồi ăn chung, nói chuyện và tìm hiểu về nhau. Có điều lạ là 10 người chúng tôi đều ở khác trại giam và cũng nhờ có buổi gặp gỡ này, tôi mới biết rằng, trên khắp đất nước, ngoài những trại nghe tên quen thuộc như Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Nam Hà, Sơn Tây, Thanh Cẩm, Thanh Chương, Nghệ Tĩnh, Z-30A, Z-30D... còn có những cái tên nghe lạ hoắc nào là Bố Lá, Nhà Ðỏ, Kinh 5, Bình Ðiền, Bù Gia Mập, Kà Tum, Trảng Lớn. Có lẽ là từ Bắc vào Nam không có thành phố nào là không vài ba trại tù.

Ðến 8 giờ tối, chúng tôi lại phải ngồi đồng nghe ông Phinh “giảng” chính trị. Ông lại nói về hòa hợp hòa giải. Hết hòa hợp hòa giải ông quay lại bản Hiệp Ðịnh Paris 1973. Hết hiệp định Paris, ông tương thêm Hiệp Ðịnh Geneva 1954. Trong lúc ông Phinh say sưa, Chín ghé tai tôi: “Mẹ kiếp, điệu này nó dám tiến tới cuộc cách mạng 1789 lắm à nhen. Dám 2 giờ khuya mới cho đi ngủ.” Nhưng hú vía, ông Phinh chấm dứt bài nói chuyện lúc 12 giờ 30 khuya, nghĩa là ông nói suốt 4 giờ 30 phút.

Câu chuyện thường ngày ở phường của chúng tôi tiếp tục ngày sang ngày 1 tháng 5 và cho đến chiều ngày 2 tháng 5, chúng tôi được thả cho về trước khi tổng kết thành quả của nghĩa vụ “lao động xã hội chủ nghĩa:“ Chẻ 30 thước khối củi, mỗi người ăn 3 bữa cơm trưa do mẹ hay vợ cung cấp, 10 người ăn 2 bữa tối của bếp tập thể phường đội, được nghe ông Phinh nói 9 tiếng đồng hồ toàn là đề tài hòa hợp hòa giải và cách mạng, nhưng chúng tôi chỉ nhớ được có mấy câu cuối cùng: “Ðề nghị các anh ngủ sớm để có sức ngày mai tiếp tục lao động xã hội chủ nghĩa.

Về tới nhà, mẹ tôi hỏi ngay: “Tập huấn chính trị, con có nói gì không con?” Tôi nói “Không mẹ, chỉ có họ nói thôi.” Mẹ tôi cười: “Tốt, như thế là con có thể sống được ở cái xã hội khốn kiếp này rồi. Tao lo lắm. Muốn yên thân ở đây thì phải biết tự làm cho mình điếc, mù và câm.”

Anh cả tôi còn lo xa hơn mẹ tôi nhiều. Anh nói với mẹ: “Thôi để con chở nó đi ăn cơm ở Bà Cả Ðọi, rồi xuống nhà thằng Hảo ngủ đêm nay và mai. Ðể xem chúng có đến nhà bắt nguội không. Nhỡ thằng này lại bướng nói gì đó chúng để ý lại đâm phiền ra.”

Hai tối sau đó, tôi không ngủ ở nhà dù ngày 30 tháng 4, 1989 đã qua đi. Anh cả tôi đến đón tôi vào trưa ngày 4 tháng 4, 1989 sau khi anh được Vinh “thùng rác” cho biết không ai trong số 10 người chúng tôi bị ghi hồ sơ gì cả. Vinh “thùng rác” bán tin này cho anh cả tôi với giá một bao thuốc lá 3 số. (V.A.)


(Nguồn:  http://www.vietherald.com)