9.8.10

KHÓC ANH NGUYỄN HỮU NGHỀ



Nhận  được tin anh vừa nằm xuống
Nghe lòng tê dại nhói cơn đau
Kỷ niệm xưa vụt về trí tưởng
Của một thời khốn khố cùng nhau

A.20 toàn quỉ khát máu
Chốn đọa đày còn nhớ rõ anh
Dù chúng có cố tình lấp dấu
Cũng không bịt miệng được dân lành

Thương anh năm tháng nào nhẫn nhục
Cùng bạn bè dãi nắng dầm sương
Đã chia nhau từng muỗng mắm đục
Đến lát khoai đói lả đoạn trường

Anh lặng lẽ bên tình chiến hữu
Không một lần phản bội quay lưng
Như lũ thú nô hèn ngọ sửu
Vì tham sống phải vẫy đuôi mừng

Nghĩa khí đó vô vàn trân quí
Để hôm nay bè bạn khóc anh
Chồng oán hận lên bầy ác quỉ
Đã cướp đi bao tuổi mộng xanh

Chừ anh đã nghìn thu an giấc
Trả áo bào lại nợ núi sông
Có nghe chăng đây ngàn tiếng nấc
Chúng tôi còn thương tiếc trong lòng

Anh Nguyễn Hữu Nghề ngủ yên nhé
Xin đừng quên phù hộ chúng tôi
Phải tìm ra ẩn số Đất Mẹ
Để Quê Hương mới được phục hồi

Ngàn năm ôi thôi đành vĩnh biệt
Thay súng chào bằng những vần thơ
Kính cẩn phân ưu cùng thân thiết
Để tiễn anh về cõi xa mờ

Ngủ yên nha anh – ngủ đi anh !
Ngủ đi anh ! Vâng, ngủ đi anh !


Trường Giang – Nguyễn Tú Cường
8/8/2010 


Bài viết của Võ Sư Lê Sáng


Võ sư Lê Sáng


ÐƯA VÕ ÐẠO VÀO HỌC ÐƯỜNG


Vấn đề đưa võ đạo vào học đường được coi như một vấn đề mới lạ, đối với sinh hoạt học đường.

Sự cảm nhận tiên khởi này, chính là do thói quen thành kiến lâu đời của chúng ta: Văn, Võ phải biệt lập, và được coi như là hai ngành sinh hoạt khác nhau. Tỉ dụ như thời Nguyễn, những khoa thi Võ Tiến Sĩ không có điều kiện ràng buộc nào cho các thí sinh vể điểm có biết chử hay không; cũng như những khoa thi trường (thi Hương, thi Hội, thi Ðình) đều không có ràng buộc nào cho các thí sinh về điểm có biết võ hay không. Ngoại trừ thời Trần và thời Lê. Thời Trần, sự cưỡng bách võ học được áp dụng chung cho cả công chúa, phi tần và văn quan, và thời Lê áp dụng chung cho các chức quan cai trị cả văn lẫn võ từ tứ phẩm trở xuống phải học thi Minh Kinh Khoa gồm cả kinh sử và võ thuật.
Như vậy, vấn đề đưa võ đạo vào học đường, nếu có mới lạ, chỉ là do thói quen và thành kiến từ thời hậu Nguyễn đến nay, chớ không phải là thói quen lâu đời suốt trong mọi thời của Việt Sử.
VIỆT VÕ ÐẠO VÀ TIỀN VIỆT VÕ ÐẠO


7.8.10

Nguyễn Tú Cường



Kính Chào Quí Anh Em Cựu Tù A.20 Xuân Phước,

Vừa mới nhận biết từ anh Nguyễn Đại Thuật bên Pháp cho hay là đã có 1 trang blog của Thung Lũng Tử Thần Xuân Phước - Nên, Trường Giang Nguyễn Tú Cường, vội xin mạn phép được vào để có lời kính chào đến tất cả quí niên trưởng, và tất cả quí chiến hữu đồng cảnh, đã có 1 thời mang đầy những dấu tích kỷ niệm sống và chết cho bản bi hùng ca mất nước ngày ấy của chúng ta - bằng 1 bài thơ mà Trường Giang Nguyễn Tú Cường đã vẫn còn  trăn trở thao thức hơn 19 năm qua, để kính tặng đến tất cả qúi anh em A.20 Xuân Phước, và coi như  là 1 thủ tục để ra mắt chào lại sân chơi kỷ niệm với quí anh em chiến hữu bằng tất cả tấm lòng trân quí nhất của Nguyễn Tú Cường hôm nay:

 
TA ĐI
 
Ta đi xách nặng hành trang quá!
Mang cả một đời nợ nước non.
Công cha nghiã mẹ chưa đền trả.
Ơn thầy, bạn cũ cũng không còn,
 
Ta đi ôm hết mảng hờn tủi
Của cả đất trời thuở rụng rơi,
Để mong khép lại ngàn tăm tối,
Dẫu biết tim mình chẳng hề vui.
 
Ta đi vuốt mặt thẹn thùng lắm,
Thanh kiếm gãy còn dấu đem theo,
Lửa thù còn cháy mầu đỏ thắm,
Miệng cố héo cười với sói beo !
 
Ta đi vội vã như chạy trốn
Một cuộc cờ chơi lắm lọc lừa
Biết bao xương máu vào hao tổn
Gồm đứa thắng cười lẫn kẻ thua.
 
Ta đi chẳng biết về đâu nữa.
Phó mặc theo dòng đời viễn du
Sót sa thương mẹ hiền tựa cửa
Đếm hết lá vàng rụng cuối thu.
 
Ta đi tựa cánh buồm gặp gió,
Căng phồng trái mộng thật tròn no,
Mà nghe kỷ niệm từng ngọn cỏ,
Ướt sũng sương rơi chẳng hẹn hò.
 
Ta đi bỏ lại thời niên thiếu,
Vô vàn công đức biển thương yêu,
Nào đâu cả dám đành bất hiếu !
Dẫu bố mẹ chừ đã tịch liêu,
 
Ta đi có hứa cùng bè bạn,
Nhất định quay về một sớm mai,
Khó nguy đến mấy tầng ngao ngán
Cũng phải ra tay lật ván bài.
 
Ta đi viết lại giòng sử mới
Hát bản trường ca Tổ Quốc ơi !
Biên cương ngả bóng hoàng hôn đợi
Vó ngựa chập chùng nhớ trăng soi.
 
Ta đi lặng lẽ tìm hào kiệt.
Để biết  vàng thau, ở thị trường
Gian nan thử lửa đều rõ nét !
Thật, giả, đâu cần đến huy chương!
 
Ta đi gặp gỡ người với thú !
Lẫn lộn trắng đen giữa bạn, thù.
Nhờ đêm mới thấy ngàn tinh tú !
Thắp sáng niềm tin khỏi mộng du! 
 
Ta đi chất nghẹn bầu tâm sự
Chẳng có rượu đào lúc tiễn đưa
Vẫn  say khướt mướt đầy tình tự !
Khiến những vần thơ chan chứa mưa !
 
Ta đi mới đó mà thoáng chốc !
Râu bạc phong trần, kiếp lênh đênh !
Dọc ngang bương trải từng ngõ hốc.
Mười chín  năm thật quá vô tình !
 
Ta đi gánh nặng tình sông nước !
Nên chẳng khát thèm những lợi danh,
Hồn thiêng có thấu thì soi bước:
Dẫn lối cho mưu đại nghĩa thành.
 
Ta đi khập khễnh, sầu vô tận,
Nếm đủ vị mùi chốn phù vân,
Vẫn chưa đo hết cơn địa chấn
Mấy độ rung rinh thế cuộc vần?
 
Ta đi - đi mãi thành lạc lõng,
Chẳng thấy đồng hành ở cuối sông,
Vẫy tay chỉ dấu cùng chung bóng
Nối gót cha ông gõ trống đồng!
 
Ta đi giữa chợ đời nô lệ,
Tìm chuộc lại người em gái quê,
Chẳng hay ai bán tàn nhẫn thế ?
Thượng Đế giả vờ ngủ, chán ghê !
 
Ta đi rảo hết vào tứ hướng
Tận sức vá hàn vết đau thương.
Để xem nhân thế còn lý tưởng.
Ai muốn quay về cứu quê hương?
 
Ta đi gõ cửa từng chiến hữu,
Ước vọng một lần bước chung đôi
Khát khao cạn cốc bầu thi tửu
Bởi lẽ thương thay một kiếp người.
 
Ta đi hẹn nữa, ngày mai sáng,
Mai sáng chớ ngồi hứng hoa rơi !
Mặc cho cơn sốt đời mê sảng !
Tổ Quốc đâu rồi, Tổ Quốc ơi !??!
 
Trường Giang - Nguyễn Tú Cường



Bảy Tuấn Kiệt Oai Hùng


A20 Nguyễn Tú Cường

Kính Chào Quí Anh Em Cựu Tù A.20 Xuân Phước

Xin vô vàn đa tạ những tình cảm thân thương của quí niên trưởng và anh em A.20 XP đã vẫn còn ưu ái dành cho Nguyễn Tú Cường hôm nay khi vửa mới bước vào diễn đàn. Bấy nhiêu đó cũng đủ làm cho Tú Cường quên đi nhiều những nỗi thăng trầm cay đắng, để mà tiếp tục cuộc hành trình hướng về Quê Mẹ với vô vàn gian khó ….!!!
Ước gì ngay bay giờ Tú Cường được ôm cây đàn để tâm tình hết với tất cả quí anh em A.20 XP bằng một ca khúc mang đầy sĩ khí của 7 tay súng oai hùng rằng:


Bảy Tuấn Kiệt Oai Hùng

 Nhạc và lời Trường Giang
(Marietta, GA. Sáng Thứ Bảy 01-07-06)

* Để  tưởng nhớ những người bạn tù ở lại trên đồi Củng Sơn
 Huyện Đồng Xuân - Xã Xuân Phưóc - Tỉnh Phú Khánh VN!
Và cũng để riêng tặng người bạn Đại Úy Mũ Đỏ Lê Thái Chân còn sống trên bến bờ Tự Do !

(Techno 2/4 – A - )

Chập chùng (A) rừng Đồng Xuân (F#m) âm u (A)
Khét tiếng kiên giam (A) là những dấu vết (F#m) trại tù (A)
Vừa vào (F#m) một buổi sáng (A) mùa Thu (E7)
Có Bảy Tuấn Kiệt vượt ngục tù (E7) Cướp súng bắn lại bầy dã thú (A)
Khiến bọn cai tù (F#m) hãi hùng gào rống (E7) lên tru

Bàng hoàng (A) lòng thầm vui (F#m) bên nhau (A)
Khoé mắt lung linh (A) tựa những ánh thép (F#m) nhiệm mầu (A)
Ngày ngày (F#m) nhìn từng bóng (A) nhạn câu (E7)
Kính phục tuấn kiệt chẳng chịu hàng đầu (E7) Bất khuất đứng dậy diệt loài thảo khấu (A)
Bứt bẻ gông xiềng (F#m) lẫy lừng truyền thống (E7) mai sau! (A)

Nay (D) bến bờ Tự Do (A) - vẫn chưa quên lời đã hẹn hò: (F#m)
Dù kiếm gãy (E7) còn đó - Nhưng (D) chí cả (E7) vẫn chờ gió to! (A)
Núi Củng Sơn dễ gì mòn (F#m)  Ngàn năm tuấn mã (E7) mãi còn sắt son! (A)

Nguyễn Tú Cường 2007


*****oooooo*****

 Hiện giờ rừng Đồng Xuân hoang vu
Cố xóa tên xưa là những dấu vết ngục tù
Nào ngờ chuyện buổi sáng mùa Thu
Có Bảy Tuấn Kiệt vượt ngục tù Cướp súng bắn lại loài dã thú
Đã làm giặc thù sững sờ nhận thức ra  ngu!

Chập chùng rừng Đồng Xuân âm u
Khét tiếng kiên giam là những dấu vết trại tù
Vừa vào một buổi sáng mùa Thu
Có Bảy Tuấn Kiệt vượt ngục tù Cướp súng bắn lại bầy dã thú
Khiến bọn cai tù hãi hùng gào rống lên tru

Bàng hoàng lòng thầm vui bên nhau
Khoé mắt lung linh tựa những ánh thép nhiệm mầu
Ngày ngày nhìn từng bóng nhạn câu
Kính phục tuấn kiệt chẳng chịu hàng đầu Bất khuất đứng dậy diệt loài thảo khấu
Bứt bẻ gông xiềng lẫy lừng truyền thống mai sau!

Nay bến bờ Tự Do - vẫn chưa quên lời đã hẹn hò:
Dù kiếm gãy còn đó - Nhưng chí cả vẫn chờ gió to!
Núi Củng Sơn dễ gì mòn. Ngàn năm tuấn mã mãi còn sắt son!

 Hiện giờ rừng Đồng Xuân hoang vu
Cố xóa tên xưa là những dấu vết ngục tù
Nào ngờ chuyện buổi sáng mùa Thu
Có Bảy Tuấn Kiệt vượt ngục tù Cướp súng bắn lại loài dã thú
Đã làm giặc thù sững sờ nhận thức ra  ngu!

A20 Nguyễn Tú Cường




6.8.10

Huế trong tranh Dương Phước Luyến



Bình phong Long Mã*
màu hoàng thổ
trường cũ bóng chiều nhịp thở trong tranh
thu phai sắc Huế vàng Ấn tượng
vàng một Vương Triều
nhạc ngựa phiêu diêu
màu nước kiêu sa nắng vàng thuở ấy
góc Khiêm Lăng nét cọ phôi pha
màu nắng chiều xưa
tảng màu tương phản
mắt Huế diệu kỳ**
ẩn một trời giông
những trái ngô đồng một thời trẻ dại
những tượng đài nâu màu lịch sử u sầu
ngược giòng cố thổ đêm trăng núi
Em với trăng đầy một bến sông
trong tranh chuyển một thời luân lạc
Em ngắm đời trôi Phượng Hoàng thành
Hạc vàng đổi sắc
trăng Công Chúa
nàng về trong tranh
người Họa Sĩ lưu vong
hôm kia khoát nước lên cầu cũ
ướt vạt áo dài lạnh nhũ hoa
thức trắng tìm Em mờ biển phố
gió Kỳ Đài áo lụa ai bay
gió bay làm nón che nghiêng mắt
Trời vào Thu Phượng ngủ trong tranh
tiêu điều sông lạnh xanh bờ vắng
giọt lệ vàng khô lem hạt màu
những ai giày mỏi chưa về kịp
vọng tiếng đàn
Nhị-Nguyệt hương trầm
khúc Trường Lưu Thuỷ
khúc Trăng Oán
rớt xuống gam màu hạt Luyến sương

Cái Trọng Ty


*** tên một bức họa của DPL



25.7.10

Hợp Ðoàn: tờ báo chui trong tại tù Xuân Phước




An Pha

(Kỳ I)
Friday, May 12, 2006

Trong tác phẩm Trại Kiên Giam, tác giả Nguyễn Chí Thiệp có viết đến việc hình thành và thực hiện tờ báo “chui” đầu tiên trại Kiên Giam Xuân Phước A-20 là tờ Hợp Ðoàn vào năm 1981. Tuy nhiên, vì khi tác giả viết tác phẩm này thì còn nhiều anh em cộng tác vẫn còn kẹt ở Việt Nam nên ông không thể nói ra được nhiều chi tiết. Nay đã đến lúc cần công bố những chi tiết liên quan đến tờ Hợp Ðoàn. Thật ra, tôi cũng không có ý định nhắc lại những kỷ niệm này, những kỷ niệm mà thời gian đó nếu bị phát giác, chúng tôi sẽ phải trả giá bằng cái đầu của mình. Nhưng gần đây khi xem Phòng Triển Lãm Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa, nhìn thấy trưng bày những bộ quần áo tù mà có một thời gian khá dài chúng tôi từng phải mặc, nên chợt nhớ lại và muốn viết lại kỷ niệm này.


Nguyễn Hưng Ðạo: cựu tù, nhà tranh đấu và chủ tiệm fish chip


Tuesday, November 07, 2006

An Pha


Tôi đến thủ đô Ba Lan để tường thuật Hội Nghị Warszawa 2006 về Quyền Công Nhân và yểm trợ Công Ðoàn Ðộc Lập mới thành lập trong nước sớm hơn nhiều người khác. Do đó, tôi có dịp theo Ðinh Trung Nghệ, một thổ công của đất Ba Lan và là thành viên trong ban tổ chức, ra phi trường vào buổi tối Thứ Ba để đón các anh em đến từ Úc. Họ phải vượt qua 25 giờ bay để đến “điểm hẹn”. Nhìn vào danh sách tôi thấy phái đoàn Úc có ba người: Bùi Trọng Cường, Nguyễn Hưng Ðạo Nguyễn Ðình Hùng. Tôi ngờ ngợ đối với người có tên Nguyễn Hưng Ðạo trong danh sách, vì trong nhóm anh em chúng tôi hoạt động bí mật cho việc hình thành tờ Hợp Ðoàn trong trại giam A-20, có một Nguyễn Hưng Ðạo, cựu Hải Quân Trung Úy. Ðạo bị đưa về trại trừng giới A-20 vì anh cũng bị liệt vào danh sách những người “không thể cải tạo” được cùng với rất nhiều anh em cựu sĩ quan thuộc nhiều binh chủng khác nhau.



24.7.10

RFA phỏng vấn Vũ Ánh: Giờ phút cuối cùng ngày 30-4

 
  

Giờ phút cuối cùng ngày 30-4, sự thật quan trọng hơn sự kiện

 

2006-04-30


Nam Nguyên, phóng viên đài RFA

30 Tháng Tư 1975, cách đây 31 năm tổng thống Dương Văn Minh, nhà lãnh đạo cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã đầu hàng quân cộng sản Bắc Việt. Quyết định vừa nói được mô tả là để Saigon khỏi trở thành một biển máu.
Tổng thống Dương Văn Minh và chính phủ của ông trên thực tế chỉ tồn tại 36 giờ, nhưng là những thời khắc đầy cam go trăn trở. Giờ phút sau cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã diễn ra như thế nào, các sử gia cho rằng sự thật quan trọng hơn sự kiện, và muốn tìm hiểu sự thật thì hãy ghi nhận từ các nhân chứng.

Trong tinh thần mỗi chế độ mỗi chính phủ gắn liền với tiếng nói chính thức của mình, Nam Nguyên phỏng vấn ông Vũ Ánh, người chứng kiến cảnh ông Dương Văn Minh bị áp giải tới Đài Phát Thanh Saigon để đọc văn kiện đầu hàng. Từ California ông Vũ Ánh phát biểu.

Vũ Ánh: Quan trọng nhất là sự thật, bởi vì tôi tin tưởng là lịch sử có tiếng nói riêng của nó. Và không ai có thể bóp méo tiếng nói của lịch sử.

Nam Nguyên: Thưa ông Vũ Ánh vào thời điểm 30/4/75 ông là cấp chỉ huy cao nhất tại Đài Phát Thanh Saigon, năm ấy ông bao nhiêu tuổi?

Vũ Ánh: Năm 1975 tôi 34 tuổi, lúc đó tôi đang giữ cương vị là chánh sự vụ một sở tương đối có tầm vóc khá quan trọng vào lúc miền Nam VN có những biến chuyển. Đó là Sở Thời Sự Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia.

Những diễn tiến cuối cùng


Nam Nguyên: Thưa ông Vũ Ánh, trên ông còn có các cấp chỉ huy cao hơn, họ không có mặt trong những ngày đó hay sao?

Vũ Ánh: Tôi cần nhấn mạnh là từ ngày 1 tháng Tư cho tới lúc 11g ngày 30/4/75, tôi không về nhà mà ở luôn trong Đài Phát Thanh Saigon. Thực sự là từ ngày 15/4 các cấp chỉ huy trên tôi không đến Đài nữa, họ chỉ gọi điện thoại vào hỏi thăm tình hình thôi.
Đứng trước trách nhiệm như thế, tôi trở thành người phải giải quyết mọi chuyện ở trong Đài. Thật ra không có ai chỉ thị là tôi phải đảm nhận công việc đó, nhưng tôi thấy đây là trách nhiệm của một người làm truyền thông. Nhất là truyền thông của quốc gia.

Nam Nguyên: Thưa ông trong những ngày 29 và 30/4 có bao nhiêu bản thông điệp, hiệu triệu, và nhật lệnh được Đài Saigon phát đi?

Vũ Ánh: Trong giai đoạn đó ít nhất có hai nhật lệnh của Tổng Tham Mưu Trưởng, 1 lời hiệu triệu của ông Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền, một số bản thông cáo của Phủ Thủ Tướng cũng như Bộ Nội Vụ.
Sau khi ông Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28, thủ tướng mới là ông Vũ Văn Mẫu đã đọc tuyên bố yêu cầu người Mỹ quân đội Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Nên nhớ rằng người ta không thể chế ra lịch sử được, lịch sử có giá trị của nó bởi vì nhân chứng sống còn rất là nhiều trong đó có tôi vẫn còn sống, mặc dù đã trải qua một thời gian rất dài trong trại cải tạo.
Tình hình bên ngoài lúc đó rất là lộn xộn, Đài Sài Gòn phát đi nhiều thông cáo có tính trấn an người dân, lúc đó người ta dầy xéo lên nhau trước Toà Đại Sứ Mỹ để tìm một chỗ di tản.

Lịch xử bị xuyên tạc


Nam Nguyên: Thưa ông như vậy làn sóng phát thanh quốc gia của chính phủ cuối cùng vẫn được duy trì, và duy trì cho đến lúc nào?

Vũ Ánh: Điều chắc chắn, ở đây còn rất nhiều nhân chứng. Tôi thấy quyển Đại Thắng Mùa Xuân của ông Văn Tiến Dũng viết sau khi chiếm được miền Nam có những chi tiết sai.
Chẳng hạn ông ta viết rằng là quân cộng sản tiến vào Đài Phát Thanh Sài Gòn, lúc đó Đài bỏ hoang không còn ai. Điều này hoàn toàn sai, nên nhớ rằng người ta không thể chế ra lịch sử được, lịch sử có giá trị của nó bởi vì nhân chứng sống còn rất là nhiều trong đó có tôi vẫn còn sống, mặc dù đã trải qua một thời gian rất dài trong trại cải tạo.
Khi ra hải ngoại tôi vẫn còn đủ minh mẫn để nói lên điều này, cho tới 11 giờ ngày 30/4/75 tiếng nói quốc gia VNCH vẫn còn. Sau đó khi phát lệnh đầu hàng văn bản lần thứ hai của tổng thống Dương Văn Minh thu tại đài phát thanh Saigon, thì lúc đó mới chấm dứt tiếng nói của quốc gia VNCH.
Trước khi xảy ra biến cố ngày 30/4 không lúc nào làn sóng của đài phát thanh Saigon bị gián đoạn hết, ngay cả ngày 28, 29 và sáng ngày 30, mỗi khi bắt đầu phát thanh vào lúc 5 giờ sáng chúng tôi đều cử quốc thiều và lời giới thiệu ‘Đây là tiếng nói nước Việt Nam Cộng Hoà phát thanh từ thủ đô Sài Gòn.
Thứ hai nữa có một sự kiện đặc biệt là ngày 28/4/75 vào lúc 5 giờ chiều chúng tôi vẫn thực hiện buổi trực tiếp truyền thanh lễ nhậm chức của tổng thống Dương Văn Minh. Phóng viên tường thuật trực tiếp truyền thanh hôm đó là anh Nguyễn Mạnh Tiến, hai phóng viên nữa cũng có mặt.
Xin thêm rằng, trực tiếp truyền thanh ngày trứơc không phải như bây giờ, đó là một hoạt động công phu và cồng kềnh. Chúng tôi phải đem một xe lưu động tới ráp đặt hệ thống máy móc tại phủ tổng thống, ở đài trung ương đã lên sóng buổi trực tiếp truyền thanh rất đàng hoàng. Cho tới trưa ngày 30/4 hệ thống kỹ thuật nhân viên đầy đủ không trở ngại. Buổi sáng ngày 30/4 Phòng Tin Tức và Phòng Phóng Viên vẫn làm việc như thường, ngay vào thời điểm ông Dương Văn Minh tới Đài đọc văn kiện đầu hàng, người phụ tá cho tôi là anh Vũ Thành An cũng có mặt.
Bên phòng phóng viên chúng tôi vẫn còn Phạm Mạnh Đức, Lê Phú Bổn, Nguyễn Vĩnh Lộc, người sau này là bạn đời của tôi cô phóng viên Yến-Tuyết cũng có mặt tới giờ cuối cùng, có cả anh Hải quản đốc đài ban Mê Thuột.
Bên Tin Tức thì có chủ bút Hồ Cầu, Phí Ích Bành và 4 biên tập viên nữa. Tôi còn nhớ có cô Triều Lương Anh Phương còn làm việc đến giờ phút chót, trưa 30/4 khi tôi rời đài thì cô này cũng ra cùng.
Đó là những phần hành liên quan tới phát thanh. Còn phòng sản xuất thì gồm 4 người, cô Bạch Kim Hồng, bà Ngọc Sương vợ ông Nghiêm Phú Phi, tôi thấy bà Minh Diệu, Minh Tần đều có mặt trong phòng sản xuất trong buổi sáng 30/4.

Thông điệp của TT Dương Văn Minh


Nam Nguyên: Khoảng hơn 10 giờ đài có phát một thông điệp của ông Dương Văn minh, cái đó đi thu bên Dinh hay sao?

Vũ Ánh: Tôi cần nói rõ một điều, ngừơi ta vẫn lầm vì có tới hai bản hiệu triệu khác nhau mà ông Dương Văn minh đọc. Bản thứ nhất phát đi lúc 10g15 sáng, trước đó lúc 10g kém 15 ông Dương Văn Minh yêu cầu tôi cử người sang số 7 Thống Nhất để thu thanh lời hiệu triệu rất quan trọng. Tôi cử phóng viên Lê Phú Bổn và kỹ thuật viên Hồ Ổn đi làm công tác này.
Bản thông điệp đó là bản viết tay do Tổng thống Dương Văn Minh tự thảo, ông đọc vấp rất nhiều lần và chúng tôi phải thu đi thu lại. Nội dung thông điệp này ông Minh kêu gọi binh sĩ, cảnh sát, quân đội giữ nguyên vị trí cũ để chờ chính phủ bàn giao trong vòng trật tự cho người anh em phía bên kia tức là cộng sản Bắc Việt.
Đó là bản thứ nhất, tôi nhận được lệnh tổng trưởng thông tin lúc đó là ông Lý Quí Chung nói rằng phải phát đúng 10g15 nếu không phát thì Saigon sẽ là một biển máu. Tôi không bao giờ quên sự kiện này, và tôi đã thi hành đúng như vậy…

Nam Nguyên: Bài hiệu triệu đó được phát mấy lần?

Vũ Ánh: Được phát một lần duy nhất vào lúc 10g 15 phút. Sau đó thì tổng thống Dương Văn Minh rời số 7 Thống Nhất (Phủ Thủ Tướng VNCH) để về Dinh Độc Lập cùng nội các mới thành lập của ông, chuẩn bị đón Cộng Sản Bắc Việt vô để bàn giao.
Tuy nhiên, khi quân cộng sản phá đổ cửa Dinh Độc Lập, những người đầu tiên đi vào đã bắt giữ tất cả, kể cả tổng thống, phó tổng thống, thủ tứơng và một số thành viên nội các, và giam vào phòng khánh tiết. Sau đó họ giải giao ông Dương Văn Minh sang Đài Phát Thanh Saigon.
Khi quân cộng sản phá đổ cửa Dinh Độc Lập, những người đầu tiên đi vào đã bắt giữ tất cả, kể cả tổng thống, phó tổng thống, thủ tứơng và một số thành viên nội các, và giam vào phòng khánh tiết. Sau đó họ giải giao ông Dương Văn Minh sang Đài Phát Thanh Saigon.

Nam Nguyên: Thưa lúc đó là mấy giờ?

Vũ Ánh: Mọi việc diễn biến rất nhanh, lúc đó khoảng 11 giờ kém 15 phút, bởi vì trứơc đó ông Nguyễn Hữu Hạnh Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH do ông Minh bổ nhiệm, đã sang Đài gặp tôi và cho biết ông sang để nhận Đài Phát Thanh và giao cho phía bên kia.
Tôi đứng nói chuyện với ông Hạnh độ khoảng dăm ba phút gì đó, thì thấy ông Dương Văn Minh từ Dinh Độc Lập bị giải giao qua Đài Phát Thanh. Khi cửa xe mở ra, thấy có hai người tay cầm súng K54 áp giải ông Minh, họ mặc quần áo tác chiến quân đội có đeo cấp hàm
.
Những chứng nhân của lịch sử


Nam Nguyên: Ngoài xe chở ông Dương Văn Minh, còn có những xe nào khác?

Vũ Ánh: Sau xe đó có nhiều xe khác chở những người mặc thường phục, những người này rất trẻ, tay trái họ đeo băng đỏ. Tôi nhận ra Nguyễn Hữu Thái, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm…
Nhiều người nữa ở phía, trong đó có một người mà anh em báo chí thường hay gặp, một người luôn xuất hiện với cái ‘búi tó củ hành’, không biết anh ta làm ở báo nào nhưng tôi biết anh ta tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm. Đó là Hà Huy Đỉnh, lúc ấy anh ta cầm một máy quay phim. Tôi và Hà Huy Đỉnh có biết mặt nhau, tôi chào và anh ta chào lại.
Ngoài ra còn có vài phóng viên nứơc ngoài, trong số đó tôi nhận ra George Asper trưởng văn phòng AP tại Saigon.
Khi hai ngừơi áp giải ông Dương Văn Minh lên phòng vi âm lớn ở trên lầu, ngừơi coi máy vẫn còn ngồi đó, thế nhưng thái độ của bà ta hết sức sợ hãi, tay lóng cóng không thể nào ghi âm được.
Lúc đó tôi thấy một người phóng viên Mỹ đưa vào một máy cassette vào để mà thu thanh riêng cho mình thôi.
Bạn hoặc người thân trong gia đình có chứng kiến giờ phút cuối cùng ngày 30-4-1975? Xin gửi email về Vietweb@rfa.org
Bên ngoài phòng máy, sau khi trấn tĩnh lại được thì họ vẫn thu bằng băng lớn như thường, tôi biết chắc khi phát thanh là băng lớn, chứ băng cassette thì sau đó người phóng viên kia mang đi.
Lúc đó khoảng hơn 11giờ, tôi thấy không còn chuyện gì liên quan đến mình nên tôi đi xúông dưới và nói với ông Nguyễn Hữu Hạnh là tôi ra khỏi Đài. Tôi còn nhớ anh Vũ Thành An còn ở lại tới giờ phút chót, tôi nói với Vũ Thành An rằng, có lẽ đây là ‘Bài không Tên Cuối Cùng’ của chúng ta rồi. Đó là lời tôi nói với Vũ Thành An, và đó là tất cả câu chuyện của ngày 30/4 ở Đài Phát Thanh Saigon, coi như là lúc chấm dứt cuộc đời công vụ của tôi đối với chế độ VNCH.

Nam Nguyên: Cảm ơn ông Vũ Ánh về thời giờ ông dành cho RFA.


23.7.10

Đêm uống rượu nghe Biên cương hành



(gửi Phạm Ngọc Lư)

Biên cương hành
chí ngươi hồ thỉ
ngôn ngữ trong Thơ di lụy một đời
ngươi về một cõi nhà tan nát
tâm tư ưu uất tháng năm trôi
ngồi đây mời bạn chung rượu đắng
kẻ sĩ Biên cương giày cỏ qua sông
đã bao năm một ngày thoáng gặp
gió phi trường Bình Định cát bay bay
vội vàng tay vẫy không hẹn lại
thuở ấy bụi đường lấm tai ương
tôi theo trận mạc về An Phú
thời Xuân Thu
sớm biển chiều rừng
bước đi lửa tình như muốn cạn
nhìn lại bóng mình rách rưới tang thương
Bạn tôi chí lớn như gươm bén
chảy máu đời Thơ buổi chợ tàn
ai hiểu cho ngươi đời thất chí
chén rượu này đối ẩm cùng ai
đêm xưa gác trọ vài ba đứa
vui một phùa sảng khoái tan hàng
nay hong bếp cũ lò than lạnh
nhìn đăm đăm vách lá chơ vơ
chỉ thấy tháng ngày trôi lớp lớp
thấy đời mình quạnh quẽ vào ra
thấy bóng mình đen
đêm không sao mọc
nhớ bạn đêm về đau như cắt
vết thương xưa dao nhọn cứa vào tim
ta qua cầu nhìn lại sông khập khiểng
máu theo sông chảy nhịp luân hồi
đêm nay ngâm lại giòng Biên trấn
ngôn ngữ trong Thơ mọc ở Phương Đông
Thơ tràn trên những đồng hoang hóa
hoa Quỳ cô đơn nở giữa núi ngàn
mây thành kìn kịt từ đất khổ
vó ngựa Biên cương bốc bụi mù
cung đàn xưa ai người tri kỷ
trên chiếu bạc đời
nỗi đắng cay
buồn bã đêm xuân đành rơi bút bạc
giông bão đời xoay
tâm muốn sụm
trang Thơ khép vội
khúc oan tình
hình như gió thổi qua liếp cửa
vi vu nghe tiếng gọi trùng khơi
gọi ai nơi tận cùng sơn thủy
ai người khách lạ gió muôn phương
ta về bạn hỏi từ đâu lại
thấy khói tàn tro phủ tượng đài
thấy rơi giọt lệ sôi trên bếp
dấu giày thô đời ở trọ quê nhà

Cái Trọng Ty
tháng Bảy, 2010



20.7.10

Những ngày cuối cùng của Vùng I và miền Nam




 Duy Lam

Lời giới thiệu:
Duy Lam, cháu của nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, trong nhóm bút Tự Lực Văn Đoàn, một nhân chứng lịch sử viết rất trung thực về những ngày cuối cùng của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 29-4-1975, tôi gặp anh mới từ Đà Nẳng di chuyển vào Sài Gòn. Chúng tôi, Bảy Bốp Phạm Thái và kỹ sư Đỗ Hữu Cảnh, có mặt đứa con gái lớn của Duy Lam, ngồi quán Cà phê đối diện Trụ sở Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến trên đường Phan đình Phùng, bàn thế bối thủy, và ai đi ai ở, rốt cuộc cả bốn đều ở lại. Tôi qua Mỹ trước, Duy Lam qua sau 14 năm tù đày, có lúc bị cùm chân đến thúi thịt . Phạm Thái bị tù đến gần chết mới được thả. Đỗ Hữu Cảnh bị bắt đi bắt lại mấy lần. Ngày gặp lại Duy Lam tại Virginia, tôi có dẩn anh đến bàn thờ cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy vừa mất cách đó 3 tháng, anh đã làm tất cả anh em hiện diện hôm đó cảm động khi anh khóc sướt mướt và độc thoại những lời tâm huyết với di ảnh Giáo Sư Huy. Bài viết của anh làm tôi liên tưởng đến anh chàng Pierre, triết gia cô đơn trong tác phẫm War and Peace của Léon Tolstoy ...
(Thái Thuỵ Vy)

Phải nói là những ngày cuối cùng của Vùng I và Miền Nam, mỗi khi tôi ôn lại trong những năm tháng tù đầy, hoặc viết lại trong cuốn hồi ký nầy, luôn luôn lại làm tôi xúc động một cách mạnh mẽ và có phần khó hiểu.Trở lại những tháng đầu năm 1975, tôi nhớ lại cái không khí lo âu, mơ hồ cứ lẩn quẩn thấm vào tâm trí mọi người, những lo âu sợ hải hình như không có nguyên cớ rõ rệt.


19.7.10

Trời Hương Phấn Cũ


Khi giông tố loạn cuồng thung lũng nhỏ,
Giữa đêm sâu.bừng nở đoá hoa thần.
Ta bàng hoàng rung động cả châu thân
Như cánh bướm phân vân muà hợp tấu.

Từng đêm vắng, ta gọi người yêu dấu
Lời dịu êm như gió nhẹ thì thầm,
Cả ngàn lần, ta gọi khẽ, bâng khuâng
Nghe dĩ vãng lâng lâng niềm thương nhớ:
Ơi Ly Cơ! ơi Tình Yêu Lầm Lỡ!
Đêm mê cuồng bỡ ngỡ gọi tên em
Mây bay cao, ngờ xiêm áo vương thềm,
Nhìn sao nhớ mắt em ngời lóng lánh.
ƠI Ly Cơ! ơi Thiên Thần Gẫy Cánh!
Khát vọng ngàn xưa sống dậy chập chờn
Sâu vô cùng trong tiềm thức cô đơn.
Son phấn cũ ngát thơm hương ngự uyển.
Thưở em về, cả núi đồi rung chuyển
Sao trời đêm ngời sáng ngọc lưu ly
Dạ lai hương ngào ngạt lối ta đi
Dìu em bước dưới khung trời sương khói
Vào Mê Cung .. ..Nhạc tiêu thiều nhẹ trổi,
Đêm huyền hồ ảo giác lạnh xương da.
Đón em. về, sông nước gợn âm ba,
Ôi giây phút trao nhau tình bỡ ngỡ,
Dung quang em, sao cực kỳ rang rỡ,
Ta nghiêng mình cúi xuống nụ hôn thơm
Ngan ngát hương lan, rời rụng linh hồn
Trôi lãng đãng ngàn trùng khơi viễn xứ.
Ta đưa em vào thiên thu tình sử,
Rồi nghẹn ngào thương nhớ bóng giai nhân.
Hờn chia phôi chất ngất đến lạc thần,
Đau choáng váng đáy mộ phần tâm thức
Hương phấn cũ khơi sâu niềm ray rứt,
Ta gục đầu lệ ướt đẫm xiêm y.
Ảnh hình xưa đài các đến kiêu kỳ
Chợt thoáng hiện rỡ ràng trong tiếc nuối:

Khoé hạnh đong đưa, mây trời chết đuối,
(Mây soi mình trong dòng suối long lanh).
Ngón tay thon mềm, tháp bút mong manh,
Từng mơn trớn dỗ dành ta hờn giận.
Tóc buông lơi, cho liễu dài ngơ ngẩn
Gót chân son tha thướt gấm hài thêu
Trong Mê Cung bừng rực dáng tiên kiều
Làm lịm tắt cả nắng chiều chang chói.
Ta si dại ngước nhìn em, bối rối,
Tự đáy hồn buốt nhói dậy chiêm bao.
Linh hồn ta vụt chắp cánh bay cao
Bay lên cõi trăng sao, miền quên lãng..
Nhớ thương rồi, ta mơ về dĩ vãng:
Lối cỏ mòn vương ánh nắng hoàng hôn,
Vườn đào nghiêng nghiêng lũng thấp cô thôn
Nghe ríu rít tiếng chim non rộn rã.

Trời vần vũ, tình gọi tình vật vã,
Ta bàng hoàng từ giã mộng Liêu Trai
Mà khôn nguôi thương nhớ gái Dao đài.
Rèm chao động, mái hiên ngoài thoáng hiện.
Thắp nén hương lòng rưng rưng ước nguyện
Đợi em về, xao xuyến gót kiêu sa.
Phấn trầm vương lưu luyến bước ngọc ngà.
Toàn thân ta vỡ oà như tê dại.
Thoảng trong gió, mùi hoắc hương thần thoại,
Gió lay màn, mê mải ngắm dung nhan.
Phải em từ Quần Ngọc xuống trần gian?
Rồi vào hư vô, biến tan bằn bặt?

Như dòng thác bạc thủy ngân trong vắt
Đổ xuống tràn vào Vô Thức lãng quên.
Ta say sưa, ôm ghì chặt Ưu Phiền,
Ròi kiêu hãnh phá lên cười ngạo nghễ.
Ném cả bình sinh vào lòng Hưng Phế,
Ngẩng mặt nhìn đời, thách đố Thương Đau .
Xa em rồi, tình ta biết về đâu?
Thương em nghẹn lời, nước mắt chìm sâu!

Vũ Đức Nghiêm
Trại Tù Long Giao, Tháng 11-75




18.7.10

Gặp Phóng Viên Nguyễn Tú: Người Về Từ Ðịa Ngục


 

Một khuôn nặt lớn của làng báo Việt Nam. Chứng nhân của cuộc tháo chạy kinh hoàng trên Liên Tỉnh Lộ 7 đã nhanh chóng đi vào lòng người với bài phóng sự bất hủ.
"Cuộc bỏ phiểu bằng đôi chân"

Thật là một điều kỳ thú! Trong bữa cơm gia đình tổ chức tại nhà chị Khúc Minh Thơ tối ngày 30/7/1990 tôi đã gặp phóng viên Nguyễn Tú. Nhưng trước khi đề cập đến con người đã nằm sâu trong ký ức thương mến của tôi dù cách đây 15 năm tôi chỉ một lần nhìn thấy hình của ông xuất hiện trên tờ Chính Luận với vóc dáng của một đạo sĩ hơn là một phóng viên tôi xin nói về bữa cơm thân mật trước.


17.7.10

Để nhớ ngày cựu A20 Nguyễn Tú vừa nằm xuống




Ký giả Nguyễn Tú



Bài viết tưởng niệm cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát nhân ngày giỗ thứ 28

Nguyễn Tú
Thursday, April 24, 2008


LTS: Nhân ngày giỗ thứ 28 (27 Tháng Tư, 2008) của Bác Sĩ Phan Huy Quát (1908-1979), cựu thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa (1965), nhật báo Người Việt xin đăng tải bài viết của Nguyễn Tú, trích từ nguyệt san Khởi Hành số 138, Tháng Tư 2008, để tưởng niệm vị cựu thủ tướng miền Nam tự do đã bỏ mình trong lao tù Cộng Sản sau ngày 30 Tháng Tư 1975.

Cố thủ tướng Phan Huy Quát.
(Hình chụp khoảng năm 1954)



16.7.10

Về nhà báo Nguyễn Tú vừa qua đời




Vũ Ánh / VietHerald
(07/14/2010)


Dường như mỗi khi nghe tin một nhà báo ở vào thế hệ tôi ra đi, tôi vẫn cảm thấy mất đi một điều gì đó trong đời. Và khi đã ở vào tuổi 70 như tôi, mất mát ấy càng lớn lao hơn. Phải chăng những nhà báo ấy, có khi suốt trong cuộc chiến cũ chưa bao giờ tôi nói chuyện hay uống với nhau một ly cà phê, đều là những mắt xích từng một thời tiếp tay nhau tạo nên một đời sống báo chí đầy mầu sắc tại miền Nam Việt Nam, dù rằng nhà cầm quyền, trong rất nhiều trường hợp, không thích chúng tôi như thế. Nhưng chính đời sống ấy đã tạo cho lớp người viết báo trẻ chúng tôi, vào giai đoạn đó, cũng như sau này, niềm say mê báo chí, rất khó bỏ, rất khó về hưu cho dù đã luống tuổi như bây giờ.

Vì thế, khi nghe tin nhà báo Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận trước 30 tháng 4, 1975 qua đời ngày 11 tháng 7, 2010 ở tuổi 86, tôi không ngạc nhiên lắm. Chỉ đến khi về tới nhà báo tin cho nhà tôi, người đã đọc và ngưỡng mộ thiên phóng sự “Ngày Chủ Nhật buồn” của ông tường thuật cuộc triệt thoái gây tổn thất nặng nề cho quân và dân Cao Nguyên Trung Phần mà nay vẫn còn gây tranh luận, tôi mới nhận ra khoảng trống trong lòng mình mênh mông quá. Nhà tôi nói: “Tội nghiệp bác Tú.” Yến Tuyết là lớp phóng viên ra trường vào những năm cuối của cuộc chiến, chưa một lần gặp nhà báo Nguyễn Tú nhưng lại là độc giả những ký sự của ông về cuộc chiến.

15.7.10

Chân dung những chúa ngục


-->
-->
Vũ Mạnh Dũng chết rồi. Nó chết khi ra khỏi trại Trừng Giới A 20 và còn rất trẻ. Nó bị đè gãy đôi cột sống, khi đang làm đội trưởng một đội xây dựng. Trong một buổi lao động phá sập một căn nhà, nó đã vấp ngã vì cố gắng chạy vào khu nguy hiểm để thét gọi anh em thoát thân khi căn nhà đang ập xuống. Nó bị nằm liệt vào lúc các đàn anh và bè bạn nó tan hàng tại trại A 20, từng đợt, từng đợt cho tới khi trại như trống trơn, danh sách những người tù chính trị với cái án tập trung vô thời hạn chỉ nằm đâu đó trên bàn mặc cả xóa trại tập trung mà người ta đang thực hiện ráo riết

1987, cái mốc của cảnh tan hàng. Nhưng những hình ảnh bi tráng vẫn còn và không bao giờ phai trong lòng những con người vẫn từng ngày vươn dậy dù trong nghiệt ngã, dưới cái đau buốt của cùm chữ U . Dưới cái dã man vô tiền khoáng hậu của những tên cai tù được liệt vào hàng hung tợn nhất trong lịch sử loài người. Cho đến bây giờ chân dung những con người một lòng chung thủy dưới màu cờ mà họ từng chiến đấu vẫn còn đó.