23.7.19
Lên đỉnh Charlie
Núi trùng trùng đường rừng gai góc
dốc lên dốc xuống - lạnh buốt da
đồi trở mình cao theo vạt nắng
nghe hồn tử sĩ khóc bên ta
ôi Charlie đỉnh cao ai nằm lại
đất đá tan hoang - chinh chiến tàn
gió thét gió gào - mây sà xuống
trên nắm xương vùi không khói
nhang
châm điếu thuốc cho người chết trẻ
cô đơn giữa đá núi ngổn ngang
lòng ta đau - đau gần nửa kỷ
chưa phai dù lấm bụi thời gian
Charlie ! Yankee ! Delta ! mù
trong núi đá
mỗi bước chân - ớn lạnh sống lưng
hố này, vực kia người chết trận
trên đó dưới đây - chết lưng chừng
anh hùng ngã xuống trong bão lửa
có sá gì một nấm mồ ma
hồn thiêng sông núi còn nghiêng ngửa
thương cho người và tội cho ta
nửa đời - ta mơ lên chóp núi
đứng hát ru người giữa cheo leo
bài ca vang dội vào vách đá
như thuở nào ngàn tiếng quân reo
rời Charlie ngước nhìn mây trắng
tụ trên đồi như tiễn như đưa
một lạy biệt người - hồn tử sĩ
ta xuống đồi - giọt nắng lưa thưa
A20 nguyễn thanh khiết
Đồi Charlie 14-03-2018
20.6.19
BỜ VAI MƯỜI SÁU
A20 Lê Phi Ô
Anh còn yêu em ngời trong giọt máu,
Anh còn yêu em bờ vai mười sáu.
Cánh môi thơm mềm, nồng nàng hương ấm,
…..Anh còn yêu em ! *
Chiều nay
tôi cho đơn vị dừng quân sớm, dặn dò Sĩ Quan phụ tá kế hoạch đóng quân đêm
xong, tôi chọn một tảng đá bằng phẳng cạnh con suối. Đặt ba-lô xuống, lấy giấy
báo trải trên tảng đá rồi lôi từ ba-lô ra vỏ chai bia tạm dùng làm bình hoa, 2
chiếc ly nhỏ, nhang đèn và một cái dĩa nhỏ cùng một phong bánh và vài trái cam,
quít… như vậy là tôi đã có một bàn thờ dã chiến để cúng, hôm nay là ngày giỗ của
Nhung.
12.5.19
ĐIẾU VĂN KHÓC NHÂN SĨ Ignatio PHẠM VĂN TƯỜNG
Thưa quý vị,
Trước anh linh của Nhân sĩ PHẠM VĂN TƯỜNG,
toàn thể thành viên của Đại Hội Diên Hồng Thời Đại Chúng tôi xin cúi đầu tưởng niệm và nguyện làm hết sức mình để
tiếp tục chí hướng cao cả của Bậc Trưởng Thượng, một đời ấp ủ lý tưởng yêu nước
thương dân, hoài bão Phục Hưng Hào Khí Diên Hồng để cùng với toàn thể đồng bào
Việt Nam góp phần trong công cuộc Cứu Dân Cứu Nước. Thưa tất cả quý vị,
Trong cõi trăm năm
Bể dâu định cuộc
Mây sầu ngun ngút trời cao,
Gió thẳm sóng xa biển lớn …
Trong cõi trăm năm
Bể dâu định cuộc
Mây sầu ngun ngút trời cao,
Gió thẳm sóng xa biển lớn …
NHỚ LINH XƯA:
11.5.19
Hoa…mùa chinh chiến
A20 Lê Phi Ô
Thương em nén tiếng thở dài
Nợ em một cuộc tình phai mất rồi ! *
Tôi chợt thức giấc, miệng khô đắng vì khát. Theo
thói quen tôi ngồi bật dậy để tìm nước uống, vừa xoay người chống tay ngồi lên,
cạnh sườn trái tôi đau nhói, tôi nằm vật xuống… cơn đau thật khủng khiếp làm
trán tôi vã mồ hôi !
Cái đau làm tôi tỉnh hẳn, những hình ảnh trước khi
bị thương hiện rõ mồn một trong trí. Thiếu úy Long Trung Đội trưởng TrĐ1 kiêm
Đại Đội Phó nhảy qua một mương trầu vừa khoát tay ra lịnh trung đội tấn công
thì trúng đạn khiến anh té sấp xuống không cựa quậy. Trung đội 2 của tôi ở bên
phải TrĐ1, tôi cho tràn lên đánh xuyên hông địch để cứu nguy TrĐ1. Cối 82 ly
của địch bắn cản tạo thành một vùng khói lửa mịt mù và bây giờ tới phiên tôi bị
thương, đang cùng binh sĩ xung phong thì một mảnh đạn cắm vào giữa 2 xương sườn
xô tôi té nghiêng và rớt xuống một mương nước. Khi chưa kịp hôn mê, lẫn trong
làn khói lửa mịt mù tiếng Trung Úy Đức đại đội trưởng đang điều động đại đội
xung phong chiếm mục tiêu… rồi tôi lịm đi.
17.2.19
VUI BUỒN TRẠI TỴ NẠN
A20 Bùi Đạt Trung
Sau
lần bị bắt thứ hai với tội danh “Có hành vi chống lại XHCN”, chúng đem xe
Falcon lại chở mình tôi (cứ như Bộ trưởng…) vào trại Phan Đăng Lưu ở Gia
định cùng một đêm với NT Nguyễn Ngọc Tiên K.23 (Tư Rè).
Sau
7 tháng không khai thác được gì chúng kêu ra đọc lệnh thả với nội dung như sau:
“Xét
hành vi không đáng bị bắt giữ, cho về”. Đọc xong chỉ muốn “mếu” mà thôi, ở
yên cũng không xong, thế là trong vòng một tháng tôi đã chuẩn bị “Tìm đường cứu nước”, đi đường bộ qua Campuchia rồi qua Thái Lan.
Đường
đi này cũng nhiều Hỉ Nộ Ái Ố lắm, người ta bị Hải tặc còn mình thì
bị Đạo tặc, nhưng chuyện hơi dài, để lúc khác vậy…
Kẹt
ở Miên 2 tháng, đến tháng 9 thì qua đến Thái Lan và vào trại Phanatnikom, một
trong 3 trại tỵ nạn của Thái, 2 trại kia là Sikiu thuộc biên giới Thái Miên, còn
trại cuối là SongKhla gần biên giới Thái Mã.
15.2.19
"CHỨC SẮC" trong TÙ
Vào thời điềm 1984; lúc đó tôi đang ở trại B của
A.20 Xuân Phước, những đặc tính thường xảy ra với các trại là:
chuyển trại, chuyển nhà hay
chuyển "Đội". Mục đích để hóa giải những âm mưu nổi loạn hay vượt ngục cùng những lý do khác....
Thời
gian lạnh lùng trôi đi, "Lịch" cứ mỗi ngày mỗi chồng chất không biết khi nào ngừng. Lúc đó một đội Tù gồm 3 Tổ, điều hành đội
gồm Đội Trưởng, Đội Phó,Thư ký và 3 Tổ
Trưởng.
14.2.19
Chiến tranh và Hòa bình.
Hồi Ký
Chiến Trường – A20 Lê Phi Ô
Trước ngày ký kết Hiệp Định Paris chừng 3 tháng (gần cuối năm 1972) lúc đó tôi
(người viết) đang là Tiểu Đoàn Phó TĐ344/ĐP nhận lệnh hành quân liên tục. Nhiệm
vụ chính là vừa lùng địch vừa tìm những tản đá lớn trong rừng, càng lớn càng
tốt có bề mặt bằng phẳng để vẻ cờ VNCH nền vàng 3 sọc đỏ để việt cộng không bảo
với Ủy Ban Quốc Tế kiểm soát đình chiến rằng đó là vùng đất của chúng theo mưu
đồ giành Dân, lấn Đất kiểu ngưng bắn “Da Beo”.
Khi hành quân, chúng tôi mang theo cờ vải cỡ lớn để treo trên ngọn cây cao và
sơn để vẽ cờ VNCH trên những tản đá lớn để khi Trực Thăng chở Ủy Ban Kiểm Soát
Đình Chiến bao gồm nhân viên của 4 nước tham dự Hội Nghị Paris mà 2 nước thuộc
phe cộng sản và 2 nước thuộc khối tự do, họ sẽ căn cứ vào vùng đất có treo cờ
VNCH để xác nhận vùng đất đó của ta (kế hoạch nầy từ trung ương đưa xuống đã
phá hỏng được âm mưu giành dân lấn đất của bọn “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
VN” trước Hội Nghị Paris).
26.11.18
LỐI THU XƯA
A20 Lê Phi Ô
Sáng nay vừa nhận được bài
thơ của chị Uyên Thúy Lâm từ Boston, Massachusett:
TÌM NHAU
(tặng Huynh Lê Phi Ô)Thời hoa niên yêu em không ngỏ,
Để bây giờ năm tháng tìm nhau.
Vẫn mơ ước vẫn hoài nhung nhớ,
Thu sang mùa vàng lá rơi mau.
4.8.18
Phượng !
A20 Lê Phi Ô
Có tiếng động nơi bực thềm, tôi xoay người nhìn ra cửa và… bỗng
nhiên tim đập mạnh làm tôi choáng váng giây lát, miệng khẽ gọi:
- Phượng.... Phượng
!
Cô gái dạ nhỏ một tiếng và hỏi lại:
- Chú… à anh… anh gọi
em hả ?
Tôi ngơ ngác:
- Không…ờ…không...
Cô gái hơi tròn mắt rồi xoay người để tránh cặp mắt tôi đang
ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tôi nhìn sửng em như bị thôi miên, những hình ảnh của
một thời quá khứ xa xăm hiện về trước mặt thật rỏ và cũng thật gần.
Tôi ước chừng tuổi em chưa tới 30, Phượng của tôi bây cũng
đã hơn 60 nên không thể nào là em được. Nhưng sao giống quá, khuôn mặt, vóc
dáng bên ngoài và cả miệng cười tôi không thể nào biết đích thực ai là em và ai
là… Phượng của tôi.
*****
Những ngày tháng cũ của tuổi học trò như một khúc phim hiện
ra thật rỏ ràng trong đầu tôi như vừa mới xảy ra hôm qua, hôm kia...
Thành phố Vũng Tàu về đêm, con đường chạy dài theo bãi trước
vắng vẽ. Tôi với Phượng cùng vài bạn chung trường đi men theo bãi cát dẫn tới
Dinh Thượng vào một đêm Noel. Gió biển làm các cô kêu lạnh, tôi cùng mấy đứa
kia nhặt lá Bàng khô...nổi lửa sưỡi ấm cho người mình yêu. Chúng tôi ngồi bên
nhau đến 2 giờ sáng, lặng thinh trong tiếng rì rào của sóng biển hòa lẫn tiếng
Thùy Dương vọng về từ bãi trước...
Tình yêu thuở học
trò tuyệt đẹp, gặp nhau rồi đến với nhau tự nhiên như đã hẹn hò từ kiếp trước,
chưa một lần tỏ tình nhưng tôi biết Phượng cũng...!. Con đường Trương Công Định
với hai hàng cây Sao rợp bóng chạy dài xuống tận bãi trước đưa hai đứa đến gần
với gió, cát và sóng nước để nghe Trùng Dương vọng tiếng thì thào lời yêu
thương, để được hít thở hương thơm từ mái tóc người yêu mỗi lần gió thoảng. Đôi
khi những cơn mưa rào bất chợt cầm chưn hai đứa dưới mái hiên lạ...để được nghe
hơi ấm từ em khi dựa vào tôi, để được nghe tim mình thổn thức theo tiếng mưa
rơi...Rồi tay trong tay tôi dìu Phượng bước đi trên lối về nhà em loáng nước
mưa đêm, trong cái se se lạnh của mù sương phủ đầy phố vắng
Rồi, thời gian qua
mau...một đêm có nhiều tiếng gió rít vọng về từ đỉnh núi, phố biển quạnh hiu
bao phủ và ướt sủng bởi cơn mưa nặng hạt. Một mình nép dưới mái hiên nơi tôi và
Phượng đã từng trú mưa, để nghe cô đơn gặm nhấm từng vùng thịt da nhói buốt ! Cả
hai chúng tôi đã âm thầm chia tay !
Cuối năm học 1960,
tôi rời xa phố biển mang theo bao nhiêu kỷ niệm đẹp pha lẫn ngậm ngùi, xót xa
cho cuộc tình vừa đến... rồi đi. Mình xa nhau thật rồi...
sao em !
Đưa tay cố níu mặt trời
Tìm một chút nắng soi
đời quạnh hiu
Dang tay ôm lấy buổi
chiều
Để nghe trong gió tiêu
điều hoàng hôn
May mà còn chút linh hồn
Để cho ta thấy đời còn
xót xa
Giờ đây chỉ một mình
ta
Cô đơn với bóng chiều
tà... quạnh hiu ! (LêPhiÔ)
*****
Trở lại với thực tại…
Nãy giờ mãi miên
man suy nghĩ tôi quên hẳn cô bé, sực nhớ thì không biết cô ấy đang ở đâu. Vừa
lúc đó thì cánh cửa phòng chợt mở, cô bé hiện ra như một nàng tiên, mái tóc dài
xõa xuống đôi vai ôm trọn khuôn mặt sáng trưng bởi cặp mắt đen như hai hạt nhãn.
Cái miệng cười cười,
cặp môi hơi mím lại nghịch ngợm, vài sợi tóc xõa xuống trước mặt, nàng đưa tay
vén lên…tôi như hoãng hốt một điều gì đó định kêu lên nhưng kịp chận lại trong
cổ họng. Phượng của tôi đây mà, không Phượng thì còn ai nữa, mà sao em trẻ thế,
mà sao em đẹp thế hở Phượng ! Miệng lắp bắp tôi gọi tên em nhưng tiếng gọi nghe
ú ớ trong cổ. Phượng bước đến… à không, cô gái bước đến nhỏ nhẹ:
- Anh có sao không, có cần em giúp gì không ?
Tôi lắp bắp:
- Không sao, …tôi
không sao !
Bước đến tủ lạnh
tôi rót đầy một ly nước và uống cạn, hơi lạnh và nước mát làm tôi tỉnh hẳn. Bây
giờ tôi mới có dịp kín đáo quan sát cô gái, tôi cố tìm ở em một nét gì đó để đừng
giống Phượng của tôi ngày xưa.
Nhưng không, Phượng của
tôi một trăm lẽ một phần trăm đây mà, cố thu hết bình tỉnh, tôi dò xét:
- Cô…ở đây hả ?
- Dạ, em ở đây.
- Nhà nầy của anh chị
Ngọc, cô là gì ?
- Dạ, em là em gái của
chị Ngọc.
Thấy tôi ấp úng, cô gái giải thích:
- Em và ba má ở bên tiểu
bang Maryland, chị của em trước kia cũng ở bên đó, từ ngày lấy anh Ngọc nên 2 vợ
chồng rủ nhau về đây. Chị tên Hoa, thương em lắm, muốn em về ở chung để có chị,
có em.
- Vậy cô mới về đây
thôi phải không vì cả năm nay tôi đến nhà anh Ngọc không thấy có…cô, tôi và Ngọc
là bạn lính và cũng là bạn tù với nhau.
Cô bé cười nhẹ nhưng tim tôi hình như loạn nhịp…
“Giống Phượng quá Phượng ơi, ước gì cô bé nầy là em ! Trong
chiến tranh, em lấy chồng… rồi mình thất lạc nhau, ngày ra tù anh với chiếc
ba-lô lặn lội tìm em chân trời góc biển trong vô vọng. Bất ngờ được gặp lại em,
đúng ra là gặp một người giống em như 2 giọt nước".
- Vợ chồng Ngọc đi chợ
sao lâu vậy ?
Nghe tôi nói cô bé lên tiếng:
- Đi chợ xong, chị Hoa
ghé tiệm gội đầu, anh chị bảo em về trước vì nhà có khách, té ra anh là… khách
!
Cô bé nói xong cười một cách tự nhiên nhưng làm người tôi
như tê dại, tay cầm ly nước hơi run một chút:
"Vì khi em cười, hơi thở của con gái pha lẫn một chút bạc
hà của mùi kẹo chewing gum tỏa ra thơm
ngát. Chính em đây mà Phượng ơi ! Mùi tóc em, mùi hương bạc hà từ hơi thở toả
ra khi anh hôn em nụ hôn đầu tiên của một chiều hè nơi biển vắng".
Có lẽ trạng thái bất thường của tôi làm cô bé chú ý, cô muốn
nói gì đó nhưng thôi. Tôi hớp một ngụm nước và hỏi như để những dồn nén trong
tôi thoát bớt ra ngoài:
- Xin lỗi, em tên gì ?
- Dạ em tên Phượng !
- “Ối Trời !” Tôi suýt la lớn, người tôi chao nghiêng chiếc
ly cầm trên tay xém chút nữa rơi xuống đất may mà tay kia vịn kịp vào mép bàn nếu
không, người tôi có thể khụy xuống.
Tôi sửng sờ nhìn em không chớp mắt, tim tôi thắt lại như
đang bị ai bóp nghẹt. Trán bắt đầu rịn mồ hôi, tôi lẩm bẩm "Phượng…Phượng
nào ?”.
Hình ảnh Phượng ngày xưa của tôi như biến mất trước sự hiện
hữu bằng xương bằng thịt của Phượng hôm nay.
Đêm đó tôi đi ngủ sớm, vợ chồng Ngọc tưởng tôi đi đường mệt
nên cũng bảo tôi đi ngủ… mai “uống” tiếp, thật tình tôi cũng muốn nán lại để được nhìn thấy Phượng dù chỉ
là phút giây. Một mình với không gian yên tỉnh, với hình ảnh Phượng hôm nay
tràn ngập trong tim...trong trí tôi, trong bóng đêm Phượng như sáng lòa rực rỡ.
Sau ngày gặp cô gái, đúng ra là gặp Phượng, mỗi khi tôi nghĩ
đến Phượng ngày xưa của tôi thì bị hình ảnh Phượng hôm nay che khuất...nhạt
nhòa !
Và, tôi bắt đầu tập làm thơ, sau mỗi lần làm xong tôi đọc lại..
với lời lẽ ngô nghê, lạc quẻ không giống thơ gì hết, tôi nhăn mặt và xé bỏ. Cứ thế mỗi tuần một lần tôi xuống
chơi nhà vợ chồng Ngọc để mong được gặp Phượng để mỗi khi ra về lại ray rức nhớ
thương !
Phượng xem tôi như
một người anh, đôi khi ân cần, chăm sóc nhưng tôi không thể xem Phượng như người
em gái được.
"Lúc nhọc nhằn nắng cháy, khi đêm vắng quạnh hiu hoặc
đôi khi chỉ nhìn một mái tóc dài thoáng xa... cũng đủ làm cho tâm hồn tôi bâng
khuâng thương nhớ !"
Tuổi của Phượng cộng thêm 38 năm nữa mới bằng tuổi của tôi.
Không thể để cho mình đi xa hơn nữa. Giữa năm 2011 tôi quyết định dọn về
California.
A20 Lê Phi Ô
tháng 6 năm 2018
Phượng...
buồn !
A20 Lê Phi Ô
(về một người mang tên loài hoa)
Từ giả thư sinh đi làm
lính trận
Ngăn bước quân thù bảo
vệ quê hương
Nhớ về trường xưa với
hàng hoa Phượng
Sắc đỏ rụng rơi phủ
kín sân trường.
Từ dạo quê hương ngập
tràn khói lửa
Súng đạn quân thù xé
nát làng quê
Thầy cũ, bạn xưa lên
đường lánh nạn
Chinh chiến bao năm
tôi vẫn chưa về.
Rồi một hôm quân hành
qua phố thị
Một màu tang phủ lấp
mái trường xưa
Phượng xác xơ tường
vôi loang vết đạn
Áo trắng bây giờ...khuất
nẻo trong mưa.
Tiếng ve hát không còn
vang trong gió
Phượng cũng buồn...tan
tác cánh hoa rơi
Biết tìm đâu tà áo dài
năm cũ
Ngửa mặt nhìn trời, thầm
gọi... Phượng ơi..!
A20 Lê Phi Ô
10.6.18
6.2.18
Những ngày cuối cùng tại Bình Thuận
Tác giả A20 Phạm Ngọc Cửu
Ngày 4-4-1975 : Bỏ Ngỏ Bình Thuận.
Sáng mồng một tháng 4-1975, một cuộc họp được coi là lịch
sử, đã được tổ chức tại Phòng khách danh dự trong Tòa Hành Chánh tỉnh, gồm BCH.
Hành chánh, Tiểu khu và bảy Quận trưởng. Ðây là một buổi họp đặc biệt, mục đích
để tìm cách đối phó hữu hiệu với đoàn di tản chiến thuật, từ Cao nguyên và Miền
Trung, sắp tới Phan Thiết vì kể từ đêm qua tới nay, Bình Thuận vẫn không hề nhận
được một chỉ thị hay câu trả lời ‘Ðã ghi nhận’ , chừng ấy thôi, từ BTL SĐ23BB,
QĐ2,Trung tâm hành quân của Bộ TTM/QLVNCH và Phủ Thủ tướng. Thời gian này, tại
địa phương, VC chỉ quấy rối lẻ tẻ nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể. Xa
hơn, tình hình chiến sự Lâm Ðồng, vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng
Phong cho biết rất sôi động, nhất là tại mặt trận giáp ranh với Quận Ðịnh Quán
(Long Khánh). Phía Nam, QL 1 đã bị VC bít cứng ở Rừng Lá (Bình Tuy), quân số tập
trung cả Quân đoàn, với ý đồ chuẩn bị một trận tấn công khủng khiếp vào SÐ18BB
tại Xuân Lộc. Ở Bình Tuy cũng đã lập một nút chặn rất hùng hậu, từ Căn cứ 10, ở
Ngã ba cây số 46 chạy tới Thị xã La Gi, với mục đích giải giới Ðoàn quân trên.
Như vậy Ðoàn di tản chắc chằn sẽ bị khựng lại và dội
ngược về Bình Thuận, chừng đó Phan Thiết sẽ hứng chịu toàn bộ sức nặng này. Ðể
giải quyết một biến động tàn khóc, mà không một thẩm quyền nào, từ Trung Ương
cho tới Quân Khu và các Tỉnh Thị đã bó tay, nên các cấp chỉ huy tại Bình Thuận,
trong cuộc họp trên, đã đề nghị thật nhiều giải pháp như nhờ BTL.Không và Hải
Quân, yểm trợ phương tiện, chuyển vận đoàn di tản từ Bình Thuận về Nam bằng máy
bay và chiến hạm. Laị có những đề nghị có tính cách quân sự như dùng mìn, đánh
sập vài chiếc cầu lớn trên QL1, hay xử dụng pháo binh làm thành hàng rào hỏa lực
và cuối cùng là thiết lập một nút chặn tại Cà Ná, ranh giới giữa Quân Tuy Phong
và tỉnh Ninh Thuận.
Nhưng dù có gọi cuộc di tản trên bằng một cái tên nào
chăng nửa, thì đối với những người có trách nhiệm tại Bình Thuận, nó cũng được
đánh giá như một cuộc tấn công vĩ đại nhất từ trước tới nay, trong lịch sử chiến
tranh của Ba Trăm Hai Chục Năm Miền Biển Mặn. Trong khi đó, không một ai có đủ
thẩm quyền bắt nó dừng lại, mà chỉ hy vọng giới hạn phần nào sự tàn phá của nó,
để tiết kiệm bớt máu xương của đồng bào, giảm thiểu thiệt hại vật chất, giữ được
tinh thần chiến đấu của quân, cán, chính trong tình huống xôi động này.
Hơn nữa các đối tượng trước mắt, tuyệt đại đa số không
phải là địch, mà là một lực lượng vì hoàn cảnh phải di tản chiến thuật. Nên dù
không một cấp chỉ huy nào nói ra hay chỉ thị, thì ai cũng phải hiểu rằng nó phải
được che chắn an toàn, để tái phối trí, chứ không phải là đoàn quân phản loạn,
thật sự chống lại quân Chính Phủ như tại Vùng I Chiến Thuật, vào những năm xáo
trộn 1965-1967. Do đó, không một ai dám, kể cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm, Ðại Tướng Cao Văn Viên vào lúc đó, công khai ra lệnh
tàn sát Họ. Cuối cùng cho dù có ra mặt đối phó, liệu ngăn cản đuợc hay không,
trước một lực lượng đông đảo, tuy là ô hợp nhưng cũng đủ xe tăng, đại pháo,
quân số và súng đạn để trả thù, tàn sát, tàn phá và cảnh nồi da xáo thịt giữa
những người lính cùng chung một màu cờ sắc áo lại tái diễn, chẳng những có lợi
cho giặc, mà còn trúng kế bọn Việt gian phản tặc, đám khoa bảng trí thức thân Cộng,
đang thấp thỏm theo dõi tình hình từng giây phút, để mà viết bài đăng báo, làm
vui đảng và ‘bác Hồ tặc Nguyễn Tất Thành’. Ðó là một bài toán nát óc, một sự
khó khăn nhất trong cuộc đời quân ngũ, mà Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa Tỉnh/Tiểu Khu
Trưởng phải quyết định trong phiên họp lịch sử hôm đó “Bỏ Ngỏ Thành Phố Phan
Thiết” suốt thời gian Ðoàn Di Tản đi ngang qua.
Rồi điều không ai muốn cũng phải làm trong khi đợi chờ.
Tất cả đặt trong tình trạng báo động cao nhất. Ðối với các Ðơn Vị đóng dọc QL1,
được lệnh lùi sâu vào phía trong, để tránh tình trạng ngộ nhận, khiêu khích giữa
hai phía, và phải trở lại vị trí cũ ngay, để bảo vệ cầu đường thông suốt và
ngăn chận mọi sự tấn công, đóng chốt của địch.
Tại Phan Thiết,bắt đầu ngày 2-4-1975, đã có một số đồng
bào và các gia đình cán bộ, công chức, quân đội., hưởng ứng theo lời kêu gọi của
Chính quyền địa phương, đã tạm thời thu xếp lánh ra ngoại ô nhất là Phú Hài, Rạng,
Mũi Né để tạm lánh nạn. Ty Dân Vận Chiêu Hồi, Ðại Ðội Chiến Tranh Chính Trị, Tỉnh
Ðoàn CB/XDNT cùng với Xã Châu Thành Phan Thiết, cũng đã sử dụng tất cả phương
tiện truyền thanh, để trấn an và kêu gọi đồng bào bình tỉnh, trước mọi tình huống
xấu, để tránh nguy hiểm, thiệt hại tài sản và sinh mệnh. có thể sẽ xảy ra.
Quận trưởng Hải Long được giao trách nhiệm, bảo vệ an
ninh tỉnh lộ từ Phan Thiết tới Mũi Né, thông suốt 24/24, đồng thời bằng phương
tiện sẳn có cùng phối hợp với Ty Giáo Dục và Thanh Niên, Tỉnh Ðoàn CB/XDNT..
thành lập các Khu Tạm Trú tại Trường Học, Chùa, Nhà Thờ, Nhà Lều Nước Mắm.. để chuẩn
bị tiếp nhận đồng bào các nơi tới tạm trú. Quận Hàm Thuận giữ an ninh tuyệt đối
trên QL1, từ Phan Thiết tới cây số 25 giáp ranh với Bình Tuy. Quận Thiện Giáo
hành quân, mở rộng vòng đai, hạn chế VC pháo kích về thành phố, gây thêm chết
chóc và hổn loạn khi có mặt đoàn di tản. Tiểu đoàn 229ĐP của Thiếu Tá Nguyễn Hữu
Tiến được điều động về bảo vệ TK và Tòa Hành Chánh Tỉnh.
Con đường huyết mạch, nối liền Phan Thiết với Phi trường
và nhất là Quân Y Viện Ðoàn Mạnh Hoạch, đã được BCH. Tiểu Khu bảo vệ chặt chẻ
và cẩn mật, để sẳn sàng chuyển vận các nạn nhân đến chữa trị. Ty Y Tế và Bệnh
Viện Phan Thiết trên đường Hải Thượng Lãn Ông hoạt động 24/24, đồng thời cũng lập
thêm Hai Toán Y Tế cứu cấp lưu động, thường trực tại Trường Tiểu Học Ðức Thắng
và Nam Phan Thiết, trên Ðại lộ Trần Hưng Ðạo, để kịp thời cứu cấp bệnh nhân,
khi không thể chuyển vận họ tới được Bệnh viện hay QYV.
Riêng Ty An Ninh QÐ , Ty Cảnh Sát QG và Phòng 2 TK sẳn
sàng đối phó với Ðặc Công CS, bọn này đang trà trộn trong Ðoàn Di Tản, để kích
động, khiêu khích, tạo hổn loạn kể cả đốt phá các cơ sở chính quyền , cây xăng,
chợ búa. Riêng Xã Phan Thiết , phải theo dõi bọn trộm cướp, du đảng có tiến án,
để ngăn chận kịp thời, bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào. Ngoài ta Tiểu Khu
phải thiết lập ngay Một BCH nhẹ, đóng trên Lầu Ông Hoàng vớí hệ thống truyền
tin 24/24.
Cuối cùng Tỉnh cũng đã dự trù kế hoạch dành cho giờ thứ
25, mở lại đường bay Dân sự Phan Thiết-Sài Gòn, ký hợp đồng thuê mướn các ghe
tàu đánh cá tư nhân, để sẵn sàng chuyên chở cán bộ và gia đình, kể cả đồng bào
khi cần thiết. Tiền thanh toán được rút từ Ngân khoản Khai Hoang Lập Ấp, hiện
đang tạm đình chỉ, vì tình hình chiến sự. Ngoài ra Phái Viên Hành Chánh Phú QÚy
cũng đã chuẩn bị sẳn sàng một đoàn ghe, khi cần thiết sẽ vào Phan Thiết công
tác.
Ngày 2-4-1975, Bộ Tư Lệnh/ Quân Ðoàn II lần lượt tan
hàng tại Pleiku và Nha Trang., và cuối cùng bị xóa tên, vào lúc 1giờ 45 trưa
cùng ngày, qua quyết định của Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH, sáp nhập phần lãnh thổ
còn lại vào QÐIII. Một đêm trôi qua và cuối cùng Ðoàn Di Tản cũng đã vào lãnh
thổ Bình Thuận. Các Quận Tuy Phong, Hải Ninh nhờ không nằm trên QL1 nên ít bị
thiệt hại vật chất. Ngược lại Quận Hòa Ða bị tàn phá nặng nề, từ Phan Rí Cửa,
Phan Rí Thành,Chợ Lầu vào tới Lương Sơn nằm dưới chân núi Tà Dôn. Tiệm ăn, quán
giải khát, cửa hàng tạp hóa đều bị cướp sạch.
Trước tình hình như vậy, BCH/ Tiểu Khu Bình Thuận điều
động Tiểu Đoàn 229/ĐP do Th/tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu Đoàn Trưởng, lúc đó
đang làm nhiệm vụ giữ an ninh cho Khu định cư Nghĩa Thuận nằm bên kia Đập Đồng
Mới, thuộc xã Lương Sơn .Tiểu Đoàn rút về tăng cường cho Nam Bình Thuận. Vào
ngày 1-4-75, Đại đội 4/248/ĐP do Tr/úy Nguyễn Tấn Hợi làm Đại Đội Trưởng thay
thế T Đ /229/ĐP . Trong ngày này Tiểu Đoàn được tăng phái cho Chi Khu Hàm Thuận,
riêng Đại Đội 4/229/ĐP do Tr/úy Cao Hoài Sơn làm Đại Đội Trưởng, phụ trách bảo
vệ Nông Trường Sao Đỏ và đồng bào hồi hương từ Campuchia tại Bình Tú, thế cho
đơn vị của Đại úy Huỳnh Văn QÚy đã di chuyển tăng cường cho mặt trận Ba Hòn
(Kim Bình, Hàm Thuận ).
Ngày 3-4-1975, toàn bộ Tiểu Đoàn 229 Địa Phương Quân
được lệnh di chuyển về phòng thủ bảo vệ Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Tỉnh. Đại đội
2/229 do Đại Úy Lê Viết Duyên làm đại đội trưởng, phòng thủ chu vi Tòa Hành
Chánh. Đại Đội 3/229 do Trung Úy Nguyễn Dương Quang làm đại đội trưởng trú đóng
tại Vườn Hoa, Lầu Nước. Đại Đội 1/229 do Trung Úy Nguyễn Văn Thứ làm đại đội
Trưởng, đóng từ Bưu Điện qua Ngân Khố dọc theo đường Hải Thượng Lãn Ông. Đại Đội
4/229 của Trung Úy Cao Hoài Sơn đóng dọc theo đường Nguyễn Hoàng, bảo vệ mặt
sau Tiểu Khu.
Một ngày đêm trôi qua trong hồi hộp lo sợ, cuối cùng
đoàn di tản cũng tới Phan Thiết theo ngã Quốc Lộ 1 từ Bắc Bình Thuận, sau khi
đã tàn phá tất cả trên đường đi, gồm các thị trấn Long Hương, Phan Rí Thành,
Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, Lương Sơn.
…..Tại Phan Thiết sáng ngày 4-4-1975, trên các con đường
phố tràn ngập những quân xa, có cả Thiết giáp M113 và Tank M41, M48. Xe Honda
và người tràn ngập trên vỉa hè, tất cả các chợ, quán ăn, tiệm tạp hóa, cây xăng
đều đóng cửa.
Một số côn đồ trà trộn theo đoàn di tản, đã lợi dụng
tình thế cướp giật. Đồng thời không ít Cộng quân đã đột nhập vào thị xã Phan
Thiết, gây tình trạng rối ren hầu tìm cách đánh úp ta. Thành phố bị đập phá tan
hoang, các cửa tiệm, cây xăng bị cướp phá kể cả các kho chứa gạo dự trữ cũng bị
cướp đi. Ai nhìn cảnh này lòng cũng đều đau như cắt, nhưng vì lệnh không được nổ
súng để tránh gây thêm hỗn loạn, dân lành sẽ chết và đặc công địch sẽ lợi dụng
cơ hội giết thêm dân, rồi vu vạ cho ta. Đó là lý do Đại Tá Nghĩa để Phan Thiết
bỏ ngỏ, tránh cảnh huynh đệ tương tàn!
Sáng ngày 4-4-75 tại Cầu Bằng Lăng ở đoạn đường vắng gần
núi Tà Dôn, đoàn di tản đã bị Việt Cộng phục kích. Có hai binh sĩ của Đại Đội
4/229 đang công tác may mắn thoát chết. Theo lời tường thuật của hai nhân chứng
thì đoàn di tản bị thương vong rất nhiều vì VC bắn bừa bãi vào đoàn xe, trên đó
đa số là dân chạy nạn từ vùng hỏa tuyến về. May nhờ có chiến xa tiến lên tiêu
diệt địch quân, yểm trợ cho đoàn di tản tiếp tục tiến vê Phan Thiết.
Cơn lốc tàn phá cuối cùng cũng đã tới, khi một số lượng
lớn người và xe cộ di tản vào Phan Thiết, một số khác đi thẳng về Bình Tuy. Hỗn
loạn khắp nơi, đến 10 giờ đêm thì bọn cướp đốt cháy ngôi Chợ Lồng trên đường
Gia Long. ĐĐ4/229 của Trung Úy Cao Hoài Sơn đã được lệnh đến hiện trường, tìm
cách giúp đỡ dân chúng chữa lửa cùng trấn áp bọn tội phạm thừa lúc hỗn loạn cướp
phá. Tới hừng sáng mới dập tắt được đám cháy trong chợ thì Việt Cộng bắt đầu
pháo kích vào BCH / Tiểu Khu . Nhưng đạn lạc ra ngoài quanh Vườn Hoa, dọc bờ
sông đường Trưng Trắc, và Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín. Có hai trái rớt vào
khu dân cư ở Khu II Bình Hưng làm nhiều thường dân vô tội thương vong. Nhờ ta
pháo trả kịp thời nên đã bịt kín họng súng của đích lúc đó đang đặt tại Xuân
Phong, Đại Nẫm.
10 giờ, địch lại pháo vào Phan Thiết nhưng rớt vào nhà
dân, làm tử thương thêm vài người . Một bọn du đảng ở Lò Heo nhặt đâu được một
chiếc xe Jeep quân đội bỏ lại, cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm
súng AK 47, mang băng đỏ, lái xe băng qua cầu Quan chạy khắp phố như chỗ không
người. Nhưng khi tới trước rạp Chiếu bóng Bình Thuận và Khách sạn Anh Đào thì đụng
ngay với Đại đội 1/229/ĐP của Tr/úy Nguyễn Văn Thứ . Những tràng đạn M16 của ta
đã diệt gọn không sót một tên, xác chết nằm vắt trên xe, bọn này có lẽ bị VC nằm
vùng giật dây, cho rằng chính quyền đã bỏ chạy hết, nên tìm cách cướp chính quyền
lập công dâng đảng .
Buổi trưa có hai hỏa tiễn 122 ly từ hướng Xuân Phong,
Trinh Tường pháo vào trung tâm Phan Thiết làm thương vong thêm một số người .
Chừng ấy đoàn di tản mới chịu rời thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của
Việt Cộng tại cây số 37 trên Quốc Lộ 1. Số còn lại chạy thoát vào căn cứ 10 thì
bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới hết. Tuy vậy Tiểu Đoàn 229/ĐP vẫn được lệnh tiếp
tục bảo vệ Thị Xã Phan Thiết thêm hai ngày mới rút.
Ngay khi Phan Thiết được giải tỏa, Tỉnh Ðoàn
CB/XDNT/BT chỉ thị cho Ðoàn CB/XDNT từ Nông trường Sao Ðỏ về Trường Nam Tiểu Học
để tiếp nhận hơn 10.000 đồng bào chiến nạn, từ các tỉnh Cao nguyên và Duyên Hải
Miền Trung chạy về. Sau đó, số đồng bào trên, đuợc chuyển tiếp bằng GMC, tới
các Trại Tạm Cư, vừa được tỉnh thiết lập, dưới rặng dừa xanh, chạy dài từ Ðá
Ông Ðịa, tới Trường Tiểu Học Rạng, thuộc Xã Thiện Khánh, Quận Hải Long. Ðoàn được
tăng cường thêm 10 cán bộ địa phương của Phùng Bửu Hưng, phối hợp với Ty Giáo Dục
và Ty Xã Hội dựng lều trại, lập danh sách cấp phát gạo, cá thịt hộp, chăn mền,
quần áo cũ, thuốc men và các phương tiện, cho những gia đình muốn về Nam.
2-Những Ngày Cuối Cùng Của Tỉnh/Tiểu Khu Bình Thuận.
Ngày 7-4-1975, sau khi Lâm Ðồng bỏ ngỏ, quân Bắc Việt
từ Di Linh về tấn công Chi Khu Thiện Giáo và Trung Ðội Nghĩa Quân,bảo vệ Cầu Ngựa
tại Xóm Gọ,đồng thời pháo kích vào TĐ230 ĐPQ, để chận đường tiếp viện. Trận chiến
thật ác liệt., VC mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ,bởi
mìn Claymore, lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham
dự của hai Ðại Ðội thuộc TĐ230, do Ðại Úy Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm
vào yểm trợ của Pháo Binh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975, VC chém vè,
bỏ lại chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ thương
nặng.
(Dương Vận Hạm 503 vớt quân cán chính Phan Rang và Tuy
Phong ngày 16/4/1975)
Ngày 12-4-1975, VC lại pháo 130 ly vào quận Thiện
Giáo, đồng thời chiếm Xóm Ðộng Giá, Phú Long, làm gián đọan lưu thông trên Quốc
Lộ L1. Ðại Úy Huỳnh Văn Quý được chỉ định thay thế Thiếu Tá Phan Sang, làm tiểu
đoàn trưởng Tiểu Đoàn 249 Địa Phương Quân. Đại Úy Nguyễn Văn Hạnh, một sĩ quan
kỳ cựu thuộc Liên Đoàn 4BĐQ thuyên chuyển về Phan Thiết, được chỉ định làm Tiểu
Đoàn Phó. Tiểu Đoàn được tăng cường thêm ÐÐ283/ĐPQ biệt lập của Ðại Úy Nguyễn
Văn Ba (Một sĩ quan thuộc binh chũng LLĐB), đã tái chiếm lại được Cầu Phú Long
và thị trấn, sau những trận đụng độ ác liệt kinh hồn. Ngày 15-4-1975, VC từ khắp
nơi, pháo kích dồn dập vào Chi khu Thiện Giáo. kể cả các xã trên QL1 như Long
Phú, Hòa Vinh, Tuỳ Hòa đang do Tiểu Đoàn 275ĐP trách nhiệm.Do trên Tiểu Khu cho
lệnh Chi Khu di tản khỏi Ma Lâm và điều động TĐ230 về phòng thủ Phan Thiết.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vỡ trước sự tấn
công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn
Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Ðại Tá Nguyễn Thu Lương… cũng như hầu hết các sĩ
quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của Quân Đoàn 3 đều sa vào tay giặc tại chiến
trường, ngoại trừ tư lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là tướng Trần Văn Nhựt đuợc HQ đậu
ngoài Vịnh Ninh Chữ cứu thoát. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo Quốc Lộ
1 qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận. Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán
chính Tuy Phong được Tàu Hải Quân vớt tại vịnh Cà Ná.
Tại Bắc Bình Thuận, Đại Đội 4/ TĐ 248/ĐP là đơn vị tiền
phương xa nhất của TK Bình Thuận. Đơn vị đóng bên này Cầu Đá Chẹt (Cà Ná) là
ranh giới của Tiểu khu Bình Thuận và Ninh Thuận trên Quốc Lộ 1. Vì tình hình
chuyển biến quá nhanh, nên sau khi liên lạc về BCH/TĐ248 ĐP, Đại Đội 4 nhận được
lệnh bỏ Cà Ná và rút toàn bộ đại đội đến đóng quân ở một ngọn đồi thấp, đối diện
với sở Nước Suối Vĩnh Hảo. Đây là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng,
hơn nữa nếu nguy cấp đại đội có thể rút ra phía sau núi là bờ biển…
Lúc 10 giờ sáng ngày 16-4-75, từ trên núi Trung Úy
Nguyễn Tấn Hợi, ĐĐT/ĐĐ4/248ĐP, qua ống dòm phát giác đoàn xe địch di chuyển từ
Cà Ná vào và dừng lại tại xóm Vĩnh Hảo. Lúc này mặt trận Phan Rang còn đang tiếp
diễn ác liệt thì làm sao có thể phá hủy cầu Đá Chẹt là đường duy nhất để đoàn
quân tại Phan Rang lui quân được? Đại đội liên lạc về BCH/TĐ xin phi vụ để oanh
kích đoàn xe địch đang dồn cục tại Vĩnh Hảo và phá hủy cầu Đá Chẹt. Lúc đó đoàn
xe của CSBV chỉ cách ĐĐ4/248ĐP chừng 4-5 cây số và BCH/TĐ 10 cây số. Cuối cùng
đơn vị trên đã liên lạc được với Không Quân khoảng giữa trưa, chỉ rõ mục tiêu cần
oanh kích cho viên phi công là đoàn xe địch tại xóm Vĩnh Hảo, nhưng không hiểu
vì lý do gì hai chiếc F5 lại thả hai trái bom xuống vị trí đóng quân của
ĐĐ4/248, cũng may bom lạc ra phía sau hướng về cầu Đại Hòa nên không ai bị
thương vong.
Theo Trung Úy Hợi qua máy vẫn nghe họ gọi danh hiệu
mình là “Bản Thế” nhưng đã không lên tiếng. Ông sợ nếu họ biết được đơn vị còn
thì dám có thể ăn tiếp hai trái nữa lắm. Vì không nghe trả lời nên phi công bay
về hướng “Lê Lai-Sơn Tây” tức Lương Sơn, để thanh toán 2 trái còn lại xuống một
đơn vị nào đó mà họ biết! Sau này có gặp Thiếu Úy Đỗ Văn Khuyến ĐĐP/ĐĐ4/TĐ/212/ĐP
đóng tại Đồn Cây Táo (hiện ở Seattle), nhờ có theo dõi tình hình trên máy, nên
kịp thời rút ra khỏi đồn Cây Táo và cuối cùng quả nhiên đồn này nhận 2 quả bom
còn sót lại. Đoàn xe địch khi vào đến gần Lương Sơn thì bị chặn lại tại dốc Bà
Chá với bãi mìn chống chiến xa làm 7 chiếc bị phá hủy. Dấu tích còn lại sau
1975 là xác 3 chiếc Tank địch còn nằm tại bờ Sông Lũy gần dốc Bà Chá xóm Ruộng
Lương Sơn . Công lao này do Đại Úy Vĩnh ĐĐT/ĐĐ1/TĐ212/ĐP .
Cuối cùng toàn bộ ĐĐ4/248ĐP cũng ra được tàu nhờ sự cứu
vớt tận tình của Duyên Đoàn 27, nhưng thật vất vả. Gần sáng ngày 17-4-1975, đơn
vị trên được chuyển tới chiếc Dương Vận Hạm 503 đang lênh đênh ngoài vịnh Cà Ná
– Cửa Xuất. Tàu đang thi hành công tác cứu vớt các đơn vị còn kẹt trên bờ. Lúc
này các vị Sĩ quan Hải quân trên tàu ra dấu hiệu cho những chiếc ghe đánh cá lại
gần, cho họ dầu nhờ họ đi vào bờ bốc lính ra.
Giữa lúc công tác cứu vớt các đơn vị bạn còn đang tiếp
diễn thì pháo 130 ly của CSBV từ trong bờ bắn ra, vì chiếc DVH 503 rất gần vịnh
Cà Ná. Nhiều quả đạn trúng pháo tháp chỉ huy và boong tàu. Trên tàu lúc này có
rất ít người nên thương vong không đáng kể. Chiếc tàu lắc lư dữ dội vì đã bị
thương. Trong lúc đó, hải pháo từ các chiến hạm khác bắn tới tấp vào chỗ đặt
súng của địch để giải cứu cho DVH 503. Nhờ vậy tiếng súng từ bờ biển bắn ra mới
im bặt. Sau đó một chiến hạm khác cặp vào bên hông, giúp Dương Vận Hạm 503 lấy
lại thăng bằng khi được bơm nước ra và kè đi trong đêm tối. Tàu cập bến Vũng
Tàu vào lúc 10 giờ sáng ngày 18-4-75. ĐĐ4/248ĐP được đưa lên những chiếc xe GMC
do quân cảnh hướng dẫn, về TTHL /Vạn Kiếp khu tiếp tân.
(Hai chiếc trực thăng hư, bị bỏ lại trước Đài Chiến Sĩ
Trận Vong Bình Thuận đêm 18-4-1975, hình của Ngô Đình Cường)
3 giờ đêm 16 rạng ngày 17 tháng 4, đoàn xe tăng trên
đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa tại Dốc Bà Chá (Xóm Nùng) trên Quốc Lộ 1 gần
Lương Sơn, do Ðại Ðội 1 Tiểu Ðoàn 212/Liên Ðoàn 925 ÐP/Bình Thuận của Ðại Úy
Vĩnh chỉ huy. Theo tất cả các nhân chứng hiện còn sống sót tại Hoa Kỳ, có 7 chiến
xa gồm T54 và PT76 bị cháy hay hư hại nặng. Sau đó VC kéo đi 4 chiếc, 3 xe cháy
còn lại hiện nằm tại Lương Sơn (Bắc Bình, Bình Thuận).
Bắt đầu đêm 17-4-1975, lửa khói đã mịt mù khắp thành
phố Phan Thiết. Hải Quân 07 và Hải Vận Hạm Ninh Giang HQ 403 được lệnh tới bờ
biển Phan Thiết yểm trợ hỏa lực và chờ chuyển vận binh sĩ về Nam khi nguy ngập.
Chiều ngày 18-4-1975, tăng pháo và đại quân Bắc Việt vào Phú Long, TĐ249 và Đ
Đ283 ĐPQ kể cả Trung Ðoàn 6/SĐ2BB (từ Long Phú rút về đóng tại Phước Thiện
Xuân) đều lui quân ra hướng biển. Ác chiến đã xảy ra trên Liên Tỉnh Lộ 8 từ Tân
Điền, Tân An, Trinh Tường giữa VC và các Tiểu Đoàn 202, 229, Đại Đội Trinh Sát
206 Tỉnh… mãi tới 8 giờ 30 tối cùng ngày, xe tăng VC mới chỉ vào tới Cầu Trần
Hưng Ðạo sau khi vượt qua các chốt chận của TĐ275 ở Phước Thiện Xuân (Đi đường
vòng) lúc này trên QL1, TĐ229 còn đang giữ vững tại Cầu Sở Muối. Do đó chúng đã
cố thủ tại các vị trị vừa chiếm được, mà không dám di chuyển tới các nơi khác,
vì khắp Phan Thiết vẫn còn nhiều đơn vị cố thủ chờ lệnh.
Sáu giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Nghĩa và BCH Hành Quân
Nhẹ tại Lầu Ông Hoàng rời vị trí di chuyển về gần cửa Thương Chánh chờ Tàu Hải
Quân vớt. Trong đoàn có một chiếc Thiết Vận Xa M-113 bên trong chở nhiều thùng
bạc do Bộ Tài Chánh vừa mới cấp cho Tỉnh vào trung tuần tháng 4/1975 nên chưa kịp
phát cho một số Ðơn Vị ĐPQ+NQ, CB/XDNT.(lương tháng 4-1975). Chiếc xe bọc sắt
này đã chìm không xa Bãi Thương Chánh, khi lội ra Chiến Hạm và phần lớn tiền bạc
đều bị VC tịch thu, kể cả số tiền còm của các ngư dân quanh vùng mò tìm được.
Riêng chủ ghe đưa Đại Tá Nghĩa ra chiến hạm, bị tù và chết trong trại giam, hiện
còn người em ruột vượt biên đang ở Bắc CA, là một nhân chứng, xác nhận. Nhờ Đại
Tá Nghĩa thoát chết khi bị té xuống biển nên Ông đã liên lạc được với Phó Đề Đốc
Hoàng Cơ Minh lúc đó là tư lệnh Vùng 2 Duyên Hải, mới có cuộc lui quân tại bến
tàu Kim Hải.
(Tank T54 do Nga viện trợ cho CS Bắc Việt vào thị xã
Phan Thiết đêm 18-4-1975, hình do Ngô Đình Cường chụp)
Tại Phú Long, lúc 3 giờ chiều ngày 18-4-75, sau khi bị
trận địa mìn ở Dốc Bà Chá Lương Sơn làm cháy mất 3 chiếc và hư hại nhiều chiếc
khác. Đoàn Tank địch sau hơn một ngày tán loạn nên chờ bộ binh tăng viện mới tiến
vào Phú Long trước cả binh đoàn của địch có tăng pháo yểm trợ, các đơn vị phòng
thủ lúc đó gồm Tiểu Đoàn 249/ĐP + ĐĐ283 ĐP, Tiểu Đoàn 275/ĐP, ĐĐ290/ĐP của Đại
Úy Nguyễn Duy Sâm, ĐĐ của Đại Úy Úy, cùng các đơn vị tăng phái của Sư Đoàn 2BB
+ Chi Đoàn Thiết Giáp… lần lượt rút bỏ Phú Long di tản chiến thuật theo kế hoạch
“Lui Binh”, hoặc ra Hải Long hay về Bình Tú, chờ các Chiến hạm Hải Quân của
BTL/V2DH đến chở về Vũng Tàu.
Dù vậy, xe tăng địch chưa dám vượt qua cầu Phú Long vì
sợ lại lọt vào trận địa mìn bẫy . Đại Đội 1/275 được lệnh giữ vững phía bên này
cầu (thuộc xã Kim Ngọc) và tiêu diệt Tank địch . Lúc này đơn vị kiểm điểm lại
chỉ còn 7 quả M72 vì đã bắn nhiều trong nửa tháng không được cung cấp thêm . Xe
Tank địch thì rất nhiều như những con thiêu thân chờ đêm tối mới tràn qua cầu.
Trung Úy Nguyễn Minh Luân liên lạc với Phòng 3/TK thì
được biết đã có lệnh rút lui về Bình Tú, nhưng tiểu đoàn rút đi mà không thông
báo cho đơn vị biết. Dầu vậy anh đã ra lệnh chờ xe tăng địch tới gần 30m mới
cho bắn, để chắc chắn. Nhưng xe tăng địch không dám qua cầu mà rẽ đường vào Phước
Thiện Xuân tấn công đồn Nghĩa Quân do anh Néo làm trung đội trưởng. Tại đây một
chiếc tăng T54 đã bị Nghĩa Quân bắn hạ. Trung Úy Luân gọi Hải pháo bắn chận địch
để đơn vị rút quân. Đơn vị anh từ đó đã về Thanh Hải và tan hàng tại đây, tự
tìm đường đi về Vũng Tàu. Riêng anh nhờ một chiếc ghe vớt anh trên thúng khi
đang lênh đênh ở ngoài biển đưa vào Vũng Tàu, gặp lại tiểu đoàn tại đây.
A20 Phạm Ngọc Cửu(Nguồn Internet)
20.7.17
Những viên gạch cũ
(Viết cho Trại Trừng Giới A20)
Những viên gạch cũ còn trên
đất
đất nhuộm máu ai đỏ một màu
những viên gạch vỡ từ quá khứ
chồng lên nhau thành đống thương đau
đất nhuộm máu ai đỏ một màu
những viên gạch vỡ từ quá khứ
chồng lên nhau thành đống thương đau
viên lớn bể đôi
rêu đã bám
viên nhỏ thời gian sớm phai màu
trên lối này chân thấp chân cao
đá sỏi dọc ngang làm chảy máu
viên nhỏ thời gian sớm phai màu
trên lối này chân thấp chân cao
đá sỏi dọc ngang làm chảy máu
Đám gạch
lót đường trăm năm ấy
đón đưa chi triệu bước chân qua
kẻ thất phu dẫm lúc chiều tà
người cao quí đạp ngày nắng ngả
đón đưa chi triệu bước chân qua
kẻ thất phu dẫm lúc chiều tà
người cao quí đạp ngày nắng ngả
ta lăn lóc
trong bầy gạch đá
mấy mươi năm tên tuổi không còn
phút cuối đời ngó núi cùng non
thành quách dở dang - vô phương chọn
mấy mươi năm tên tuổi không còn
phút cuối đời ngó núi cùng non
thành quách dở dang - vô phương chọn
Nhìn kẻ
cùng đường vung tay hét
múa giáo gươm diệu võ dương oai
chỉ mua danh bán đức vô tài
dẫm đám gạch lót đường qua ải
múa giáo gươm diệu võ dương oai
chỉ mua danh bán đức vô tài
dẫm đám gạch lót đường qua ải
Ôi đám
gạch giờ nằm vương vãi
bốn hướng tha hương chẳng một lời
thuở xa xưa lót dặm đường đời
tan thành bụi, trên đường chưa tới
bốn hướng tha hương chẳng một lời
thuở xa xưa lót dặm đường đời
tan thành bụi, trên đường chưa tới
A20 nguyễn thanh khiết
(nhớ ngày Quốc Hận)
20-07-2017
(nhớ ngày Quốc Hận)
20-07-2017
17.7.17
CÀ PHÊ LÍNH
San Jose có cà
phê lính
Có tách trà thơm ngát yêu thương
Có những chàng trai đầu đã bạc
Xa lìa cố xứ nhớ quê hương
Có tách trà thơm ngát yêu thương
Có những chàng trai đầu đã bạc
Xa lìa cố xứ nhớ quê hương
Có cô em nhỏ còn thương lính
Tóc xõa vai mềm dáng thướt tha
Ghé lại đôi lần thơ với nhạc
Ấm lòng chiến sĩ ở phương xa
Tóc xõa vai mềm dáng thướt tha
Ghé lại đôi lần thơ với nhạc
Ấm lòng chiến sĩ ở phương xa
Giọng hát của
em thoáng chút buồn
Nghe như rả rích giọt sầu tuông
Nghe như vẳng tiếng hờn trong gió
Thương xót đời hoa khóc chiến trường !
Nghe như rả rích giọt sầu tuông
Nghe như vẳng tiếng hờn trong gió
Thương xót đời hoa khóc chiến trường !
Ta biết em buồn
ta chẳng vui
Tuy vui ngoài mặt dạ ngậm ngùi
Đất nước vẫn còn in bóng giặc
Nung lòng phục quốc dạ không nguôi
Tuy vui ngoài mặt dạ ngậm ngùi
Đất nước vẫn còn in bóng giặc
Nung lòng phục quốc dạ không nguôi
Người lính Liên
Trường* sống lưu vong
Giòng máu trong tim giống Lạc Hồng
Hẹn một ngày về nơi cố xứ
Không còn cộng phỉ kẻ thù chung
Giòng máu trong tim giống Lạc Hồng
Hẹn một ngày về nơi cố xứ
Không còn cộng phỉ kẻ thù chung
Ta đi tìm lại
từng mảng vỡ
Một mảnh dư đồ đã rách bươm
Vá lại từng vùng sông núi lở
Dựng xây bờ cõi, trấn biên cương
Một mảnh dư đồ đã rách bươm
Vá lại từng vùng sông núi lở
Dựng xây bờ cõi, trấn biên cương
Ngày ấy Sài Gòn
ta gặp em
Vẫn bờ vai phủ mái tóc mềm
Nụ cười xinh quá vương màu nắng
Ngập ngừng khẽ nói - Ta nhớ...Em !
Vẫn bờ vai phủ mái tóc mềm
Nụ cười xinh quá vương màu nắng
Ngập ngừng khẽ nói - Ta nhớ...Em !
A20 Lê Phi Ô
*Liên Trường SQTB: Nam Định, Thủ Đức, Đồng Đế, Long Thành.
*Liên Trường SQTB: Nam Định, Thủ Đức, Đồng Đế, Long Thành.
CÀ PHÊ LÍNH - thơ Lê Phi Ô / nhạc & trình bày Dzuy Lynh.
--- Xin mở Link để nghe nhạc --- (album "Hương Cà Phê Mùa Cũ").
7.5.17
Vĩnh biệt "Cô Ba"
Bỏ hết mày đi ! mày đã đi !
chưa nói câu nào đã biệt ly
Cà phê hẹn hò ! mình tao uống !
tiếc thương mày tao biết nói chi ?
Lứa tụi mình đâu còn mấy mạng
mày tha hương vẫn muốn về đây
gánh sơn hà- cái nợ gió sương
trả hết, trong một lần đứng dậy
Hôm tao xuống đường - từ xa xôi
mày gọi về dặn dò trăm thứ
lâm trận-đã có mày nung chí
tao hiên ngang giữa đám giặc thù
Mày mong một lần cùng tuổi trẻ
chống gậy với tao đi biểu tình
hát vang bài ca ngợi quê hương
bằng trái tim thằng từng ở lính
Mày mong đi thăm lom bằng hữu
một lần để trút hết tình xưa
mày về chi tháng tư - trời nắng?
sao lai đi tháng năm - ngày mưa?
Trình ơi! làm sao quên tù ngục
Phú Khánh nóng ran giữa xà lim
Đồng Xuân lũ về đêm ướt mưa
cây đàn vỡ - còn ai so phím?
Chỗ này, mày ngồi đọc thơ tao
bàn tay gõ cố tìm cung bậc
Trình ơi! nhắc chi làm thêm nhớ
âm điệu đau mang theo vào đất?
Vĩnh biệt "cô ba" ! thôi vĩnh biệt !
ngủ yên đi chí cả bằng không
nhục vinh, thân thế mày đâu cần
cứ coi như vừa qua giấc mộng
Trình hởi ! Trình ơi! thôi vĩnh biệt
đường trần, thui thủi một mình tao
hận nước, thù nhà đợi kiếp sau
tao, mày lại cùng nhau một dạo
"Cô Ba" ơi ! lệ lăn trên má
tiễn mày đi ! tao tiễn mày đi!
A20 nguyễn thanh khiết
06-05-2017
20.2.17
Đọc hồi ký “Đời Tôi” của Nguyễn Liệu
Trịnh Bình An
Nguyễn Liệu từng bị kết án lưu đày Côn Đảo bởi Tòa án Quân sự
Đặc biệt của chế độ Đệ nhất Cộng hòa, từng bất chấp khuôn phép hành xử thông
thường khi đối đầu với Cộng sản và tệ trạng tham nhũng dưới chế độ Đệ nhị Cộng
hòa. Nhưng cũng chính Nguyễn Liệu với hai bàn tay trắng đã tạo dựng Quảng Ngãi
Nghĩa Thục, một cơ sở giáo dục miễn phí cho học sinh nghèo. Ngôi trường này
từng thu hút sự hưởng ứng khắp miền Nam và nhiều tổ chức quốc tế.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)