24.3.14
Lễ an táng nhà báo Vũ Ánh
Buổi tiễn đưa nhà báo Vũ Ánh tại nhà quàn Peek Family Funeral, Westminster, CA.
Chiều Chủ Nhật 23-3-2014.
(Nguồn: www.nguoi-viet.com/)
21.3.14
20.3.14
Thư viết cho chồng
1975-1992
Anh, “Dựa lưng nỗi chết”*
Vẫn còn giữ nụ cười.
Em, trôi giòng đời bạc
Nước mắt lúc đầy vơi.
Hồn bạt ngàn gió núi,
Tình ngỡ tan mù sương...
Trong mộng ảo và thực,
Em nhìn Anh , rưng rưng.
Trên còn đường ta đi
Mùa xuân qua rất chậm
Thôi không còn chia ly
Dù muộn màng số phận.
1992-2014
Anh, tấm lòng bao dung
Em, cảm ơn hạnh phúc
Những niềm đau lắng xuống
Trong khu vườn tình yêu.
Từ quá khứ nghiệt ngã
Anh bước ra nhẹ nhàng
Viết và yêu chữ nghĩa
Đến hơi thở cuối cùng.
Đêm mùa xuân trăng sáng
Em nhớ nụ cười anh
Tha thứ và ấm áp
Ôm mãi hoài đời em.
Yến Tuyết
(A20 Vũ Văn Ánh phu nhân)
* Đề tài 1 cuốn sách của Phan Nhật Nam.
15.3.14
Vĩnh biệt Vũ Ánh
Anh từng hứa về thăm trại cũ
lên đồi vĩnh biệt đốt một nén nhang
sao đành đi lúc chiều chưa tàn
mà khăn gói vẫn đầy nguyên kiếp nạn
Nhớ xưa
dưới cái nóng hạ Lào cháy khô thung lũng
cùm chữ U máu mủ ứa cổ chân
anh hiên ngang gõ sắt mà ca
trên xiềng xích đọc vang bài Bắc Tiến
Sáu năm biệt giam
ba muỗng nước, ba muỗng cơm
chưa lần lung lay ý chí
một đời anh - một đời sĩ khí
bước thấp, bước cao cắn nhục mà đi
ngọn bút hiên ngang
thay làn tên mũi đạn
giữa trại thù nét mực chưa phai
bây giờ
tờ Hợp Đoàn để lại cho ai?
Vũ Ánh ơi!
trên sàn tù lạnh lẽo
áo lính sờn vai
hơi thuốc thổi bay qua đồi vĩnh biệt
anh khóc cho thằng nằm lại bơ vơ
đã lỡ không được chết dưới cờ
lủi thủi như anh - lên đường ra trận
mười ba năm - nằm gai nếm mật
bây giờ - thôi đã trắng tay thua
Tiễn anh đi
- mười ba năm tù
- sáu năm biệt giam
- ba lát khoai khô
- cõng mấy hạt cơm gạo mốc
một thời lẫm liệt
trước gông cùm kìm kẹp
còn ai ngồi nhắc, có ai thương ?
Vũ Ánh ơi!
con tằm già chết ở cuối đường tơ
Chí Hoà, T 20, Z30A, A20
những trại thù anh từng qua
lổn ngổn sau lưng
vẫn còn đây bầy xiềng xích
ôi! Trường Sơn có nghe chăng
giữa khuya đau lòng tiếng anh than
chí cả năm xưa - theo tới ngày tàn
trong thiên hạ ai chia bùi xẻ ngọt?
Và lớp lớp người đi - người đi trước
nợ nần gom đầy - chỉ một anh mang
lũ bọ dòi rút rỉa tan hoang
anh vẫn lồm cồm
một thân đứng dậy
mà thôi
hãy quên đi những gì không đáng nhớ
cầm trên tay thanh kiếm gãy năm nào
về lại đây - trở lại đèo cao
đồi vĩnh biệt bạn bè vẫn đợi
cứ múa bút
- cho ngày đang tới
- cho Trường Sơn rung lá như xưa
- cho Trà Bương lúc mưa là mưa
- cho bút pháp đi vào thiên cổ
nhớ mà chi
một lần qua sông Dịch
lưỡi gươm cùn bỏ lại dưới trăng tan
Vũ Ánh ơi!
bài thơ xưa gởi anh ngày bóng xế
còn trên tay dù đã ố vàng
cứ cầm như - như một nén nhang
tiễn anh đi - dù xa ngàn dặm
A20 nguyễn thanh khiết
15-03-2014
Trả lời thư Vũ Ánh
đọc thư anh thằng em buồn thúi ruột
cũng muốn xẻ chia như thuở tù đày
biết anh một thời lừng lẫy, đắng cay
bị cùm mút chỉ, sống còn vì bạn
đại ca – anh là thằng ưa gánh nạn
nên suốt đời bị trù dập thẳng tay
tưởng ra đi đã vứt nợ trần ai
cái nghiệp dĩ trói anh thêm lần nữa
đọc thư anh – trả lời như đã hứa
tội cho anh làm kỷ niệm tháng tư
chỉ với khoai mì, muối ớt, khư khư
thì chắc chắn chẳng ma nào tới dự
lần đầu tiên mười lăm thằng – quá dữ
lần thứ hai chỉ vỏn vẹn còn ba
lần tới nầy sẽ không một bóng ma
kéo ghế ngồi với anh cùng mặc niệm
đại ca ơi! phải chi anh ra quán
café Bolsa – mấy em phục vụ ở truồng
hoặc ở nhà hàng, cờ quạt bốn phương
may ra bạn bè ngày xưa xúm lại
cái thói xứ người mồm loa mép giải
ngày tan hàng đã vất mẹ nước non
mấy mươi năm cứ chửi rủa, om sòm
rủ về nước mặt xanh như tàu lá
súng đạn quăng bừa đạp nhau chạy trốn
miệng la làng vì chống cộng mà đi
đại ca – anh nhắc chi, làm mẹ gì ?
cái đám đó bây giờ đông như kiến
cám ơn anh đã một lời thành thực
biết thẹn mình, vì đã lỡ buông tay
còn tưởng nhớ mười năm hơn ăn khoai
trong lúc nhiều thằng cố tình quên nó
nhục theo anh gần bốn mươi năm dài
mà có kẻ cứ vinh danh hoài mới chết
thôi đại ca, anh tuổi già mỏi mệt
đã một đời, hãy để đám đàn em
nguyễn thanh khiết
03-2011
14.3.14
Thung lũng tử thần - Phần 1
A20 Vũ Ánh
LTG - Hồi đầu năm cháu nội
tôi, Catherine Vũ 11 tuổi hỏi bố nó: “Tại sao ông nội bị tù, có phải ông nội
phạm tội hình sự không?” Con trai tôi cũng chỉ trả lời đại khái là sau khi miền
Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản, nhà cầm quyền mới đã bắt tất cả các cựu sĩ
quan quân đội và cựu công chức từ cấp chỉ huy thấp nhất đến cao cấp nhất đẩy
vào các trại cải tạo để trả thù. Năm nay con trai tôi đã ngoài 40, nhưng không
thể nào giải thích chi tiết với con gái nó về những gì đã xảy ra cho ông nội và
những người bạn tù khác của ông nội đằng sau những cánh cổng nhà tù ấy. Thực
ra, lúc tôi vào tù cải tạo, con trai tôi mới 6 tuổi và khi tôi trở về từ nhà tù
thì nó đã là một thanh niên 19 tuổi và nằm trong danh sách những thanh niên
không được đặt chân vào ngưỡng cửa của trường đại học vì cái lý lịch của tôi.
Ðó là lý do tại sao tôi viết loạt bài này. Tôi hy vọng đây là một lời giải
thích, một nhắc nhở với thế hệ thứ hai và thứ ba của không những người Việt Nam
tị nạn ở hải ngoại mà còn ở trong nước để họ đối chiếu và so sánh khi cần. Ngày
nay, chế độ lao tù ở Việt Nam có thể đã có nhiều thay đổi, nhưng tôi tin rằng mục
tiêu của chế độ này cũng vẫn dựa trên nền tảng cũ: đàn áp và tiêu diệt khả năng
đối kháng của con người trong chế độ toàn trị ở đất nước ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn
nhấn mạnh rằng loạt bài này chỉ phản ảnh cách nhìn của riêng tôi về một giai đoạn
lao tù đặc biệt sau ngày miền Nam Việt Nam thất trận. Tôi viết là viết cho thế
hệ con cháu tôi và chia sẻ với thế hệ con cháu của những bạn đồng tù khác, chứ
không phải là bản lên tiếng, lên án hay cáo trạng gì cả và tôi không phản đối
những cách nhìn khác.
Ðặt tên cho một
lòng chảo
Cái tên này được các tù cải tạo vốn là những sĩ quan
quân đội và các cấp chỉ huy trong công chức VNCH từ trưởng phòng trở lên và tù
chính trị án nặng kể cả tử hình đặt cho một cái lòng chảo đặc biệt ở xã Xuân
Phước thuộc quận Ðồng Xuân thuộc tỉnh Phú Khánh (tên gọi mới của tỉnh Phú Yên),
nơi có trại cải tạo A-20. Từ ga xe lửa La Hai trên Quốc Lộ 1 muốn vào đến lòng
chảo này phải vượt qua 60 cây số đường rừng, tức là phải vượt qua trạm cuối
cùng nơi có một trại Lực Lượng Ðặc Biệt cũ thời chiến tranh cách A-20 khoảng 10
cây số, vượt qua một vòng đai gồm khu kinh tế mới và một vòng đai gồm gia đình
công an và dân làng do Việt Cộng kiểm soát thời chiến tranh. Từ ga xe lửa La
Hai vào đến trại, thân nhân các tù cải tạo phải lội qua rất nhiều con suối vào
mùa mưa, trong đó nguy hiểm nhất là suối Lạnh, nước lên mấp mé bờ và chảy xiết.
Về vị trí thì theo nhiều tù cải tạo rành về địa thế cho biết trại A-20 nằm
trong một khu rừng già bên cạnh con đường mòn mới mà người Cộng sản gọi là Trường
Sơn Tây bên này dãy Trường Sơn.
Thung lũng tử thần - Phần 2
A20 Vũ Ánh
Tờ Hợp Ðoàn ra đời trong bí mật ở A-20 Xuân Phước
trong hoàn cảnh nào?
Chọn lựa ở xã hội bên ngoài sau khi người tù cải tạo được
thả ra từ sau những cánh cổng nhà tù đã là một khó khăn huống hồ là những chọn
lựa trong tù, nghĩa là trong một môi trường không thể có chọn lựa. Nhưng nếu bảo
ở sau cánh cổng nhà tù, người tù không còn lựa chọn nào khác hơn là chấp nhận
thì không đúng. Tuy nhiên, sự lựa chọn ấy chắc chắn sẽ là một quyết định khó
khăn giữa hai thái độ: hoặc là thà chết để đứng thẳng lưng, hai là cứ cong lưng
để sống. Tôi có thể nêu ra một điển hình mà chắc bạn nào từng sống ở cái địa ngục
A-20 Xuân Phước trong thời kỳ từ 1979 cho đến 1984 chưa quên. Ðó là khi trưởng
trại giam Thân Yên, người mà hôm “đón tiếp” chúng tôi khi chúng tôi bị giải
giao đến trại đã ngồi vỗ tay rất hăng hái khi PÐN cựu sĩ quan Chính Huấn quân lực VNCH điều khiển anh em
hát ca khúc “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” của Nguyễn Ðức Quang, đã ra lệnh
thành lập đội Văn Thể, tức Văn Nghệ và Thể Thao tại Phân trại E.
Thung lũng tử thần - Phần 3
A20 Vũ Ánh
Cái
giá của những ngộ nhận!
Khi đã bị đẩy vào sau cánh cổng nhà tù cộng sản, chỉ có một
số rất nhỏ ở một trại từ đầu cho đến cuối mùa, còn phần đông đều bị chuyển trại
cứ khoảng một đến hai năm một lần đi các trại khác, ngoại trừ tù cải tạo bị
“tuyển lựa” lên các trại A-20, A-30 và A-10. Khi phải đi qua nhiều trại cải tạo
như vậy, các bạn tù khi gặp lại nhau ở trại mới thường hay hỏi thăm nhau tình
hình sinh sống ở các trại khác. Có người nói trại này sống “thoải mái” hay “dễ
thở” hơn, trại nọ “khắt khe, thù hận” nặng hơn vì các cán bộ quản trại đều là từ
quê hương Nghệ An, Hà Tĩnh hay Ðồng Hới. Nhưng theo tôi, khi đã bị buộc phải sống
trong các trại cải tạo thì chẳng có trại nào dễ thở hơn trại nào. Dễ thở, thoải
mái hay không là tự mình. Anh sợ sệt đủ thứ kỷ luật khắt khe mà cai tù đặt ra
thì ở trại cải tạo nào cũng nghẹt thở cả. Còn nếu anh tự cho anh là người tự do
thì trại nào cũng dễ thở cả!
Thung lũng tử thần - Phần 4
A20 Vũ Ánh
Tết Nguyên Ðán 1984 đánh dấu sự thay đổi chế độ lao tù tại Việt Nam?
Tết Nguyên Ðán năm 1984, chúng tôi lại trải qua một cuộc “xóa bài làm lại” trong khu biệt giam của Phân trại E thuộc A-20 Xuân Phước, nghĩa là phải thay đổi chỗ ở sau một màn tất cả lần lượt “bị” lùa ra giếng nước ngay bên cạnh ao thả cá rô phi sau khu biệt giam. Trời Tháng Giêng ở thung lũng tử thần lạnh như có ai cầm dao cắt vào da, nhất là khi trời vào tiết Xuân, gió hiu hiu làm lay động hàng dừa trong sân trại. Cái lạnh thiên nhiên cộng với việc thiếu đường và chất béo từ 9 năm qua khiến cho buổi sáng ngày 30 Tết Nguyên Ðán năm 1984 trở thành buổi sáng không thể nào quên được trong đời. Chân tay anh em chúng tôi gần như tê liệt. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng đứng như trời trồng trước cửa biệt giam số 5 khi ngài được trật tự mở còng cho đi tắm và làm tổng vệ sinh buồng giam. Một tu sĩ Công Giáo nhỏ con, lanh lẹ như một con sóc, nổi tiếng hùng biện và can trường như ngài mà chỉ mới hơn 3 năm bị cùm trong xà lim, thân xác không khác gì người tù Do Thái trong các trại tập trung của Ðức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ Hai.
21.12.13
Trả lại sự thật cho chiến sử VNCH
Một Chiến Công Bị
Quên Lãng
A20 Đỗ Văn Phúc
Trận
tử thủ An Lộc được xem là một trong ba trận đánh lừng danh nhất trong quân sử
Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè năm 1972, mà sau này được nhà văn Dù Phan Nhật Nam
đặt tên là “Mùa Hè Đỏ Lửa”.
Bốn
mươi mốt năm về trước, đúng vào 7 tháng 4, 1972, Cộng quân đã tung ba sư đoàn bộ
binh (5, 7, và 9) cùng thiết giáp ồ ạt tấn công vào thị trấn bé nhỏ An Lộc, nơi
đang là tỉnh lị của tỉnh Bình Long, chỉ cách thủ đô Sài Gòn khoảng một trăm cây
số. Mục tiêu tối hậu của Cộng Sản Hà Nội là chiếm bằng được An Lộc để làm thủ
đô cho cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam”, nhằm hỗ trợ
cho mục tiêu chính trị của Hà Nội là tạo một uy thế cho đám bù nhìn Mặt Trận Giải
Phóng để có tiếng nói tại Hội Nghị Paris.
Nhưng
sau ba tháng bao vây tấn công một thị trấn nhỏ bé có diện tích chỉ khoảng 4 cây
số vuông, sử dụng đến hàng chục ngàn binh sĩ, hàng trăm xe tăng tối tân, bắn
hàng trăm ngàn viên đại pháo, hoả tiễn, Cộng Quân đã chuốc lấy thảm bại và rút
lui sau khi để lại trên 10000 xác chết cộng với khoảng 25 ngàn khác bị thương.
Trận
tử thủ được xem là chấm dứt vào ngày 7 tháng 7, 1972 khi các đơn vị tăng viện của
Quân Lực VNCH tiến vào An Lộc, bắt tay với các đơn vị phòng thủ và tiếng súng địch
đã ngưng hẳn.
Đã
có nhiều bài viết về trận An Lộc với nhiều chi tiết và nêu danh các quân nhân
anh hùng đã tham gia trận đánh. Gần đây, Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh cho ra mắt cuốn
sách Chiến Thắng An Lộc 1972 dày 418 trang vớí nhiều sử liệu đáng giá.
Nhưng
không rõ lý do gì, trong hơn 400 trang giấy, một trong những người anh hùng có
công đầu trong trận đánh đã bị bỏ quên, hoặc chỉ được nhắc qua một cách mờ nhạt
trong vài câu như chỉ là một trong những chiến binh có mặt, tham gia trận chiến.
Trong các trang 181-183, Phần 1, Chương 11 ghi công trận các vị chỉ huy từ các
Tướng Nguyễn Văn Minh, Lê Văn Hưng, đến các Đại Tá Lê Quang Lưỡng (Nhảy Dù), Trần
Văn Nhật (TQLC), Mạch Văn Trường (Trung Đoàn 8 BB), Lý Đức Quân (Trung Đoàn 9
BB), Nguyễn Văn Biếc (BĐQ), Phan Văn Huấn (Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù), tuyệt đối
không có một câu nào cho Đại Tá Lê Nguyên Vỹ. Chỉ đến gần cuối, ở trang 188, mới
thấy ghi qua loa như sau:
28.11.13
18.11.13
NÉN NHANG CHO MỘT ANH HÙNG
A20 Phạm Đức Nhì
(Luật sư Trần Danh San, người đọc Tuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Những
Người Việt Nam Khốn Cùng tại Vương Cung Thánh Đường năm 1977, đã ra đi.)
Giữa Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, do vị trí chỗ nằm ở nhà 3 lúc mới đến phân trại E, A20
Xuân Phước, tôi gần và thân Vũ Văn Ánh hơn. Với Vũ Văn Ánh, tôi có thể đặt câu
hỏi trực tiếp về những điều mình muốn biết và được anh trả lời đầy đủ, cặn kẽ.
Với Trần Danh San, tôi phải rình
những lúc anh trò chuyện với mọi người để len lén đến ngồi nghe ké. Nguyễn Hữu Hồng, một sĩ quan trẻ và
cũng hay ngồi nghe ké như tôi, có lần phát biểu: “Tay này đúng là trên thông
thiên văn, dưới thông địa lý, cái con mẹ gì hắn cũng biết. Đáng nể thật.” Nhờ
những lần nghe ké như vậy sự hiểu biết của tôi được mở mang rất nhiều.
“THÁC LÀ THỂ PHÁCH, CÒN LÀ TINH ANH”
Luật sư Trần Danh San đã ra đi, nhưng
thanh danh luật sư Trần Danh San đời đời lưu lại trong lịch sử.
*Luật sư Trần Danh San, người đầu tiên viết
nên bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền” của những người Việt Nam khốn cùng.” (The
Declaration of Human Rights of Disgraceful Vietnameses).
*Luật sư Trần Danh San, cá nhân bảo vệ nhân
quyền, chống lại bạo quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1977, nguy
hiểm không khác chi trường hợp “David nhỏ bé có mưu lược đánh chết anh khổng lồ
Goliath.”
15.11.13
Long Rồng
A20 tháng 9, 1993
Bên bờ giếng hai người đàn ông mặc quần
xa lỏn chụm đầu vào nhau. Bốn cái đầu gối lồi lên hai bên bả vai. Con mèo
nằm nhe răng, mặc cho bốn bàn tay vò vọc, nhổ từng nắm lông. Nó đã chết từ đêm
hôm qua, ngay dưới vuông cửa trực của người tù gác đêm Đào Đăng Nhẫn.
Gã tù Việt kiều tay cầm đóa hoa vạn thọ,
ngô nghê bước sát lại gần hai người tù đang nhổ lông con mèo. Con mèo bé tí, vừa
bằng cổ tay người tù khổ sai ! Cả ba rơi vào những giây thời gian
im lặng khó diễn tả ! Một tay chỉ huy giang hồ khét tiếng. Một tay thơ
phú dạt dào và một tên lưu vong quay về từ bên kia quả đất sau mười năm
lang bạt. Ba người đàn ông trọng án cùng nhìn vào một con mèo trắng ởn đã
chết đang bị vặt lông. Con mèo bé bỏng, gầy guộc, cái đầu chỉ nhỉnh
hơn quả chanh.
13.11.13
Bài điếu văn cho Trần Danh San một A-20 vừa ra đi vĩnh viễn!
A20 Vũ Ánh
San thân,
Dù đã đoán trước được ngày giờ này đến với bạn sẽ không xa cái ngày ở tôi và Vũ Hùng Cương đến thăm và ở lại tán gẫu với bạn cả buổi sáng tại bệnh viện. Buổi sáng hôm đó, tôi đã nghe bạn nói với người bác sĩ điều trị: “Dù muốn dù không tôi cũng sẽ ra đi, đừng lo lắng thái quá cho tôi”. Trần Danh San là như thế ! Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng không phải chỉ ở vào thời điểm bạn đã nằm trên giường bệnh vì ung thư phổi mà ngay từ thời gian luôn luôn chúng ta phải đối mặt trực diện với kẻ thù từ những năm đầu của biến cố 30-4-1975. Tôi nhớ cái ngày chúng tháo cùm mở cửa xà lim để chuyển chúng ta vào khu chuồng cọp “sang trọng” hơn ở trại B, đôi cổ chân của bạn sưng lên như chân voi, cái dấu cùm 16 lún xuống thành hai cái vòng. Chúng ta đã kiệt sức và phải bám vào nhau để lết ra gốc hàng dừa phía sau khu biệt giam chờ lên xe để chuyển trại. (Khu biệt giam hay khu chuồng cọp phân trại B của A-20 Xuân Phước sang trọng hơn chỉ là mới hơn rộng hơn về bệ nằm nhưng chế độ ăn uống thì tệ hại hơn, nước uống được cấp phát dồi dào hơn nhưng nước muối mặn hơn nên dễ bị phù hơn. Tôi và Trần Danh San bị phù rất nặng đến mức cứ ngủ thiếp đi khi đang nói chuyện. Nếu ở ngoài các bạn bè tâm phục không liều chết tổ chức cho một người liều chết leo qua bức tường cao 4 thước có kẽm gai trước họng thượng liên của vọng gác tiếp tế thuốc vitamin B-1 cho chúng ta, chắc chúng ta cũng không thể sống nổi)
Gởi người cố cựu
như cơn lốc từ trong quá khứ
hốt bụi - tung mù cõi trần ai
rồi bay đi biết mấy năm dài
giờ rớt xuống buồn hiu một cõi
rong chơi một dạo thôi đã đủ
bàn tay nắm lại - bàn tay không
chốn xưa, chuyện cũ giờ như mộng
người đi, rửa sạch nợ tang bồng
hồn về thung lũng thăm trại cũ
đừng đau lòng qua đỉnh núi cao
bạn bè nằm đó thời rách áo
chốn ấy ngày xưa một chiến hào
người đi ! ừ cứ đi như thể
đã cạn một vò rượu tiễn đưa
từ phương Nam theo gió theo mưa
lời vĩnh biệt gởi người cố cựu
nguyễn thanh khiết
12-11-2013
để vĩnh biệt A20 Trần Danh San
12.11.13
Độc Thoại...
Tim bị nghẽn khiến cho mầy gục xuống,
Trong cơn mê bỗng thấy bóng thiên đường.
Ngàn tiên nữ phất phơ màu xiêm áo,
Khúc nghê thường dìu dặt múa đêm sương.
Chợt một thoáng khi đầu còn tỉnh táo,
Mầy đưa tay sờ soạn vịn sô-fa.
Gượng đứng lên thân xác lão lính già,
Do sức mạnh của hồn thiên sông núi.
Bao nhiêu năm sống nhọc nhằn quá đỗi,
Đói khát, tù đày, lao động “vinh quang”.
Nhiều năm trường ăn độn bắp, khoai lang,
Mầy vẫn sống vẫn mơ về sông núi.
Rồi một đêm trong mịt mùng bão nổi,
Lặng lẽ xuống thuyền rời bỏ quê hương.
Mầy ra đi bỏ lại chốn thiên đường,
Nơi thống trị của một bầy quái thú.
Nơi đất lạ vẫn hướng về quê cũ,
Nhớ súng gươm, bạn hữu, chiến trường xưa.
Nhớ những lần đuổi giặc suốt chiều mưa,
Và đêm đến vang pháo gầm xung kích.
Trúng đạn A.K, B.40 mầy không chết,
Thì sá gì chuyện bị nghẹt cơ tim.
Mầy tin đi ! Thượng Đế rất công bình,
Chỉ bách hại phường buôn dân bán nước.
Nếu như mầy Trời ban cho điều ước,
Thì ước gì trong cuộc sống nổi trôi ?
Tao đoán mầy mong muốn đơn giản thôi,
Nguyện: sẽ chết để quê hương được sống !
A20
Lê phi Ô
viết
sau ngày từ bệnh viện Bascom. SJ trở về (04/11/13).
Được
giải phẩu để chửa “nghẽn mạch máu cơ tim”.
LPO
Trần Danh San, tiếng hò khoan đã tắt…
Phan Nhật Nam
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, ngày lực lượng Nhảy Dù thực hiện cuộc binh biến báo hiệu cơn sóng gió của chiến cuộc và chính cuộc Miền Nam. Cũng là ngày gã thiếu niên 17 tuổi hiểu rõ nỗi đau và sự chết có thật dâng lên ngập ngập trong thân, trong lòng…
Cảm giác, phản ứng nôn nao sinh tâm lý làm
nghẹn đường thở, rì rầm âm động nơi trái tim với câu hỏi… Mẹ bây giờ ở đâu? Mẹ
sống, chết ra làm sao? Em đang nơi nào? Làm sao để sống? Ngày 11 tháng 11 năm
nay, 2013, Lễ Cựu Chiến Binh ở Mỹ, người lính của chiến tranh xa nặng lòng, mệt
nhọc, buông xuôi.. Chứng kiến Người Bạn ra đi sau những ngày, giờ chạm dần vào
cánh cửa vô hình hiển hiện của sự chết. Trần Danh San ra đi thanh thản sau khi
đã sống đủ một đời kiệt liệt.
11.11.13
Thăm đời ngày xuống tối
Người
vẫn nói vẫn cười môi méo mó
người
vẫn thở dài, nhắc thuở cùm gông
đầu
đội vai mang năm tháng mòn trông
giờ
tàn như rẫy nương mùa thiếu nước
ta
ghé thăm người, nhìn người khó nhọc
một
nụ cười bạt mạng của ngày xưa
tội
tụi mình - vừa hết nắng đến mưa
tới
tới, lui lui tuổi già rượt đuổi
thôi
yên cương, vó ngựa còn chi nữa
người
cứ về vườn đón gió hái trăng
cầm
lại cây đàn bụi bám nhện giăng
phổ
được chăng ? khúc cho đời bóng xế.
mai
mốt ta trở về thăm Dak Lak
tới
Dak Song - chiều ngồi xuống bên hồ
nghe
tiếng đàn dưới dãy núi nhấp nhô
ngọn
gió đầu đông lùa về bụi đỏ
ta
ghé người, thăm một đời tù ngục
đã
nhốt mình trên núi mấy mươi năm
giờ
chỉ còn một nửa của tối tăm
đang
còng lưng gánh những ngày bệnh hoạn
ta
ghé thăm người trời vừa xuống tối
băng
qua hành lang bệnh viện trắng phau
một
lời chào - ngày mai có còn nhau ?
trong
cái tuổi của già nua, ly biệt
ta
ghé thăm người - thăm đời nghiệt ngã !
nguyễn
thanh khiết
10-11-2013
đêm ghé anh Trung (lai) ở BV 115
Luật Sư Trần Danh San, người đọc Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1977 tại Sài Gòn, qua đời
LS Trần Danh San – Người đọc “Tuyên ngôn Nhân
quyền của những người Việt Nam khốn cùng” trước nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn ngày
23-4-1977 đã qua đời
Sau sự
kiện giới trí thức Tiệp Khắc ban hành Hiến chương 77 chống lại nhà cầm quyền
Cộng sản Tiệp Khắc, LS Trần Danh San đã cùng với LS Luật Sư Triệu Bá Thiệp viết
và công khai đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng”
trước nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn ngày 23-4-1977.
Ngay sau
đó, cả 2 LS đã bị bắt cùng một số người khác như: LS Vũ Đăng Dung, Nguyễn Hữu
Giao, Nguyễn Quý Anh, Vũ Hùng Cương, Trần Nhật Tân, Phạm Biểu Tâm, Huỳnh Thành
Vị, Nguyễn Hữu Doãn và KTS Nguyễn Văn Điệp và GS Hà Quốc Trung… Họ bị giam giữ
nhiều năm trong tù, KTS Nguyễn Văn Điệp và GS Hà Quốc Trung đã tự tử trong tù,
LS Trần Danh San bị giam 10 năm.
“Trong
một lần trả lời phỏng vấn của Người Việt năm 2011, Luật Sư Trần Danh San kể lại
thời điểm đọc bản Tuyên Ngôn: ‘Chúng tôi gồm hơn 10 luật sư trước 1975 đang
hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngả tiến theo hai đường
tập trung trước nhà thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 Tháng Tư. Chúng tôi đã dùng
một cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ để đọc lên bản Tuyên Ngôn. Ngay
lúc đó công an ập đến bắt chúng tôi về Tổng Nha Cảnh Sát cũ rồi sau đó giải về
Phan Ðăng Lưu’.”
“Chúng tôi những người Việt Nam khốn cùng, với tàn lực còn lại với
tinh thần tàn phế, quyết đấu tranh bằng con đường bất bạo động để kêu gọi lương
tâm nhân loại, các lực lượng của thế giới văn minh, hãy lắng nghe những lời cầu
cứu thảm thiết của những kẻ hấp hối.
- Tàn lực vì chúng tôi ăn đói và sẽ chết đói.
- Tinh thần tàn phế vì chúng tôi không được sống và suy tưởng như
con người.
Chúng tôi buộc phải cúi đầu khom lưng tung hô vạn tuế chủ nghĩa –
một chủ nghĩa đã lỗi thời và chống lại con người. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn
tiếp tục dùng ngôn ngữ con người để thức tỉnh bọn đao phủ mù quáng và tham tàn.
Vì chỉ có con đường bất bạo động mới tránh khỏi các cuộc thảm sát huynh đệ
tương tàn và khỏi làm nhơ bẩn tấm lòng trong trắng của những người Việt Nam
khốn cùng.
Hỡi các nông dân trên thế giới hãy hướng về Việt Nam – nơi mà
người nông dân phải cực nhọc suốt ngày với bụng đói. Hoa màu của họ bị tịch
thâu nhân danh quy luật duy vật sử quan. Con trâu sau khi cày còn được nghỉ chứ
người nông dân Việt Nam buộc phải theo dõi các buổi học tập nhồi sọ vô tận.
Hỡi các công nhân trên thế giới, các bạn có thấu hiểu thân phận
của người công nhân Việt Nam không? Người công nhân Việt Nam phải theo chế độ
“làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ.” Ngày nghỉ họ buộc
phải làm gấp đôi để dâng lên đảng, lên lãnh tụ mồ hôi, máu, và nước mắt của họ.
Quyền thiêng liêng nhất của công nhân là quyền đình công, quyền này đã bị tước
đoạt. Mọi ý kiến và hành động không theo khuôn mẫu sát của đảng đều đương nhiên
bị coi như hành động phá hoại, gián điệp.
Hỡi các nhà truyền giáo, các khoa học gia, các triết gia, các văn
nghệ sĩ, các trí thức, những ai đang tụng kinh hãy ngừng lại, những ai đang say
mê nghiên cứu trong tháp ngà, hãy tung cửa ra, những ai đang sáng tác với ngòi
bút, hãy bẻ gãy nó đi, tất cả hướng về Việt Nam – nơi mà chùa và nhà thờ đã bị
biến thành hội trường để tuyên truyền chính trị – nơi mà các định luật khoa học
bị móp méo để thỏa mãn chủ nghĩa – nơi mà các văn nghệ sĩ chỉ còn một việc duy
nhất là tung hô Nhà nước theo lệnh của đảng.
Các vị và các vị hơn ai hết đã hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình
cho Lòng tin, Sự thật, Công lý, Hòa bình và Tiến bộ, các vị không có thể làm
ngơ quay lưng lại thảm họa Việt Nam trong đó có con người Việt Nam khốn cùng
đang bị đày đọa trong xác thịt và câu thúc trong tinh thần. Thảm trạng này là
do một thiểu số – bọn đảng viên và tay sai của chúng – muốn áp lên dân tộc khốn
cùng này là những ảo mộng điên khùng nhất, quỉ quái nhất mà nhân loại chưa từng
thấy. Các lực lượng văn minh trên thế giới hãy đứng dậy.
Không còn chờ đợi gì nữa!
Liên Hiệp Quốc phải can thiệp cấp thời để áp dụng và áp dụng triệt
để Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền đối với những người Việt Nam khốn cùng
chiếu theo sự quy định của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Luật Sư Trần Danh San
(ký tên)
Luật Sư Triệu Bá Thiệp
(ký tên)
23 tháng 4, 1977″.
14.8.13
NÓ....!
Chuyện kể về một người Lính VNCH trước và sau 30 tháng 04 năm 1975.
A20 Lê Phi Ô
----------------------------
Tôi biết Nó từ khi hai đứa
còn cắp sách đến trường ở bậc Tiểu Học, rồi cả hai chúng tôi cùng vào năm Đệ Thất
trường Trung Học công lập Phan-Bội-Châu, Phan-Thiết.
Quê Nó tận ngoài xứ Huế xa
xôi, Mẹ nó... một cụ bà khoảng tuổi 50, sở dĩ tôi gọi là cụ bà vì với tuổi tác
của một đứa trẻ hơn 10 tuổi như tôi, thì người lớn cỡ tuổi 50 đối với chúng tôi
phải gọi là Bà. Bà cụ dáng vóc nhỏ nhắn, khi ra đường lúc nào cũng mặc chiếc áo
dài, đôi khi người ta thấy Bà đeo một chiếc vòng nơi cổ theo như cách phục sức
của hầu hết đàn bà xứ Huế. Bà có tài về gia chánh, Bà nấu những món ăn xứ Huế
ngon tuyệt, nghe nói Ông Ngoại nó khi xưa làm Quan ở Triều Đình nên con cháu,
nhất là con gái phải đi học về nữ công gia chánh. Ba nó lớn hơn Mẹ nó một con
giáp, Ông cụ là một nhà Nho và là bạn rất thân với Cụ Tản-Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu.
Năm 1945, Ông Hồ-chí-Minh mời Ba nó làm cố vấn cho Việt Minh ở Liên-khu 5 (Quảng-Nam,
Quảng Ngãi, Bình-Định và Phú-Yên), Ông cụ không thích cộng-sản nên từ chối
khéo. Khuyến dụ không được, bọn chúng bắt cóc Ông đưa vào vùng "kháng chiến".
Mãi cho đến khi Ông lâm trọng bệnh bọn chúng mới cho Ông về Đà-Nẵng để chữa trị...
và Ông đã tìm cách trốn vào Sài-Gòn, Ông sống với nghề viết Báo và dạy kèm chữ
Nho (môn Cổ Ngữ) cho những người chuẩn bị thi Cử Nhân. Thời Pháp thuộc, ở
Sài-Gòn có một tờ Nhật Báo "Thần Chung", tên nầy do Ông đặt ra.
19.7.13
Cám ơn người... tuổi trẻ
Xin cám ơn những người trẻ hôm nay
đã đứng lên vươn cao cờ tranh đấu
đã hiên ngang trên đôi chân rướm máu
đạp xích xiềng cứu chuộc một nước Nam
Xin cám ơn những tâm hồn cao cả
đang dựng cho đời mái ấm tự do
vươn những bàn tay như một bến đò
rước sông núi bước qua ngày giông bão
Xin cám ơn những hùng ca rót xuống
tưới mát quê hương mấy thuở khô cằn
cám ơn người đang rửa sạch tối tăm
thắp ngọn nến sáng soi trời nước Việt
Xin cám ơn những lời thơ thép chảy
thổi bay ngục tù kìm kẹp hôm nay
xin cám ơn tuổi trẻ của tương lai
đang gánh vác thay tuổi già bóng xế
A20 nguyễn di ngữ
7-2013
18.7.13
Tuổi trẻ hôm nay
Hãy đứng lên mà nhìn rừng còi cọc
hãy đứng lên nghe biển khóc nhớ bờ
hãy bước trên xiềng xích khạc thành thơ
hãy dụi mắt ngó sơn hà nghiêng ngửa
Người đừng đợi trời Đông về thắp lửa
người đừng chờ gió Tây dậy phong ba
máu xương, cõi bờ dựng thuở ông cha
giờ sắp tan tành dưới chân xâm lược
Lớp đàn anh mỏi mòn bao năm trước
đã hụt hơi theo người trẻ hôm nay
một màu cờ khư khư giữ trên tay
cột gãy thành tan, còn chi mong đợi
Mặc kẻ sống quơ quào theo danh lợi
mặc bọn điên khùng nguyền rủa lẫn nhau
chiếu bạc này bất kể kẻ thấp cao
ván quyết định chỉ dành cho tuổi trẻ
Ngại gì lửa binh, chân trần nứt nẻ
ngại chi hung tàn kìm kẹp hôm nay
cùng đứng lên mới có được ngày mai
mất nước ! chúng ta một đời nô lệ.
A20 Nguyễn Di Ngữ
07-2013
17.7.13
thời gian không đi qua.
Chục năm rồi ngày đêm là lẫn lộn
khi nhắm mắt trời bừng lên sáng lạn
đêm mịt mù trừng mắt đợi ngày lên
mưa nắng có qua
sao đã lạt như bài kinh vô thức.
Cuộc đời đem tháng ngày bứt rứt
xâu chuỗi vào nhau thành tràng hạt
cho ta phiêu bồng trong mộng tưởng
về một ngày rất đẹp sẽ diễn ra
Về một ngày đồng hoa thơm rực rỡ
những đàn chim rủ nhau về từ muôn hướng
hót tiếng tình ca dạt dào
bên những lũy tre làng đàn trẻ đùa nô cười khúc khích
Đến bao giờ đừng là mơ mà thực
nếp áo em thơ in tình người chan chứa
đôi mắt mẹ hiền nhân ái đàn con lạ
bốn nẻo quay về mồ tổ thơm khói hương
… có những ngườ lính xưa tìm nhau bắn giết
biết ngậm ngùi ca khúc đoàn viên
của nghìn xưa máu mủ lập ấp khai hoang
xây dựng nên nước Việt trải trăm đời cay đắng chống quân xâm lấn
Có những người vợ
cả đời không biết đến mùi đàn ông
có những người vợ
tảo tần mưa nắng khốn nhục nuôi chồng tù tội hết sạch tuổi xuân
…
Sẽ nhìn nhau thân mật và gần gũi
cùng nhau đốt lên ngọn lửa ấm
đốt đi manh chiến bào thù hận vô lý của ngày xưa
thuở bắc nam say cuồng điều miêu mỵ.
Chục năm rồi ngày đêm là lẫn lộn
nơi tôi sinh là ngày
nơi tôi sống là đêm
quê hương là mây bay ngàn dặm thẳm
thắt thẻo trông mong một lối về còn mù xa tít tắp.
A20 Phạm Văn Thanh
Paris 17.7.13
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)