8.6.14

Vũ Ánh Và Tôi – Chung Một Đoạn Đời



A20 Phạm Đức Nhì

(Xin gởi đến hương hồn anh Vũ Ánh
như một nén nhang tiễn biệt.
Và đến chị Yến Tuyết
như một lời chia buồn muộn màng)

Một Tâm Hồn Trẻ Trung Sôi Nổi

Ngày đầu tiên bị giải đến Trại Trừng Giới A20 Xuân Phước, tất cả chúng tôi – thành phần cứng đầu, khó cải tạo từ các trại - bị lùa vào hội trường để được dằn mặt và đưa vào khuôn phép. Mở đầu là màn văn nghệ ca tụng đảng và nhà nước có tính cách bắt buộc. Cán bộ giáo dục yêu cầu một người tù trong chúng tôi ra bắt giọng cho mọi người hát một bản nhạc cách mạng để lấy khí thế. Hối thúc hoài cũng chẳng ai thèm ra. Cuối cùng, khi hắn giở giọng đe dọa thì tôi nóng mặt đứng lên bắt nhịp cho anh em hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức Quang. Được gãi đúng chỗ ngứa anh em hát muốn bể tung hội trường. Cán bộ giáo dục và ban thi đua ú ớ chẳng biết gì nên dù "ngờ ngợ có cái gì không ổn" cũng không làm chi được. Sau buổi họp, mấy bạn trẻ như Tú Cường, Nguyễn Hữu Hồng... đến bắt tay tôi tỏ vẻ đồng cảm và ngưỡng mộ một hành động nhanh trí và can đảm, giữa đường thấy chuyện bất bình thì phản ứng liền. Đám trẻ của chúng tôi là như vậy. Tôi bắt tay các bạn một cách vui vẻ rất... bình thường. Riêng anh Ánh, lúc ấy đã gần 40, vẻ mặt trí thức, chững chạc đến vỗ vai, bắt tay tôi đã là... đặc biệt rồi. Anh lại còn ôm chặt tôi ra vẻ rất quý mến: "Tôi tưởng cậu hát nhạc của tụi nó nên đã muốn chửi thề trong miệng, nhưng khi nghe câu hát đầu tiên tôi khoái quá, hát muốn khàn cả cổ". Tôi với anh quen nhau, gần gũi nhau ngay từ hôm ấy. Sau này ra hải ngoai anh còn viết bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Của Nguyễn Đức Quang Trong Nhà Tù Cộng Sản kể lại sự kiện này. Tôi có cảm tưởng ở cái tuổi của anh lúc ấy, đối với một sự việc bình thường như vậy, thái độ "nóng máu muốn chửi thề" của anh, thật giống bọn trẻ chúng tôi: Rất Trẻ Trung Và Sôi Nổi.


19.5.14

Ngày 18-05-2014



Bên nhà thờ là mặt nạ, dùi cui
trước tượng mẹ công an ghìm tay súng
Sài-Gòn 18 tháng 5 đầy hận tủi
đã cạn cùng cho ý thức bao dung
 
nối giáo giặc tra tấn người yêu nước
đem bạo quyền trấn áp tiếng dân than
toàn dân xuống đường chống quân xâm lược
chính quyền còng tay, đánh đập dã man
 
còn đâu thuở cha ông từng khổ nạn
dựng một non sông lừng lẫy bao đời
đất nước còn nhưng mất nửa giang san
pháo giặc đã vượt đường qua biên giới
 
biển mất, thành sắp tan ôi trời hỡi !
đảng cầm quyền chỉ trấn lột toàn dân
Việt Nam tôi vô phương rồi người ơi
quân là đám côn đồ sao lâm trận?
 
Việt Nam tôi sắp mất rồi người ơi !
Việt Nam tôi sẽ mất hỡi người ơi !
 
nguyễn di ngữ
 
 
 
 
 

18.5.14

Tháng 5 - ngày chủ nhật


Bạn có thấy không một bầy lang sói
cắn xé đồng bào ruột thịt đáng thương
khi biển đông giặc chễm chệ dựng dàn khoan
phía biên giới trùng trùng quân xâm lược
giữa Sài Gòn - một ngày chủ nhật
mặt nạ dùi cui, hàng rào - một lũ công an
đám giết người đứng chật lối dọc ngang
thẳng tay đàn áp dân yêu nước
Sài Gòn dưới mặt trời chói chang
có vết sẹo tháng 5
gạch dấu đau trong lòng dân Việt

ngày chủ nhật không còn nước mắt
để khóc cho đất nước lầm than
mẹ Việt Nam đã nuôi nhầm một đám con hoang
kéo nhau dẫm lên xác người cùng giống
Ôi Sài Gòn, bên nhà thờ Đức Mẹ!
một ngày chủ nhật - tháng 5
áo vàng, áo xanh 
áo bán nước, áo hại dân
dưới cờ máu, làm Việt Nam thêm chảy máu

nguyễn di ngữ
ngày 18-05-2014


1.5.14

CUỐI CÙNG...


           Gởi Út-Khiết

Tháng Tư giặc xua quân đánh chiếm
đốt ruộng vườn nhà cửa xác xơ
trung-đoàn giặc tràn qua thôn Chín
xác mẹ già xen lẫn trẻ thơ.

Tao dắt tiểu-đoàn qua suối Chết
đuổi giặc chạy dài tận sân bay
địch đón tao một trung-đoàn pháo
xé tiểu-đoàn rách nát làm hai.

Trước mặt tao trung-đoàn Quyết-Thắng
sau lưng tao trung-đoàn Sông-Mao
xác bạn, xác thù... thây chất đống
thịt da tan tành trong binh đao.

Dắt tàn quân băng rừng vượt chốt
nghe ông Minh ra lệnh đầu hàng
giữa núi đồi... tao ôm mặt khóc
non nước mình ai quấn khăn tang !

---------------

Khi nào mầy về thăm Võ-Đắt
hãy thắp giùm tao một nén nhang
mầy muốn cắm nơi nào cũng được
nơi nào cũng phủ một màu tang.

A20 Lê Phi Ô
30/04/năm thứ 39





30.4.14

Trên bức tường đá đen


TƯỞNG NIỆM
Ngày 30 tháng Tư 1975

những vần thơ viết trên bức tường đá ngục
là thông điệp người lính bại vong
gửi đến thời gian phía trước cho Em

tháng sáu bảy lăm
chàng sĩ quan trẻ Biệt động
theo Cha Hiệu xứ đạo Biên hòa
vào rừng lập mật khu chống Cộng
bị bắt đưa về trại giam Chí hòa
nhốt vào xà lim tử tội

cuối năm bẩy tám
tôi bị xiềng cách ly
đối diện phòng Anh
những ngày dài như trăm năm
bỗng một sáng tinh mơ
vẳng nghe tiếng hát buồn day dứt
“em đến thăm anh trời mưa gió
đường xa lạnh lùng”
tôi bàng hoàng đau đớn
một chiều mưa nào
nơi hạnh phúc cố quên
người vợ trẻ.hai đứa con thơ
thành phố biển
chỉ một vách tù
mà muôn trùng tội nghiệp

ngày lại ngày.tôi ngóng chờ
tiếng hát buồn thảm vọng từ đáy ngục
nỗi hào khí khốn cùng
ngọn dao đâm phế tạng
thời gian đi lở lói vết thương sâu

thế rồi một hôm
tiếng hát kia vụt tắt
người sĩ quan bị mang ra trường bắn
tôi ngồi lặng im ứa nước mắt

chua xót nhìn quanh
trong bóng tối lờ nhờ chốn biệt giam
những hình tượng Phật Chúa
vẽ ngoằn ngoèo trên Bức Tường Đá Đen
cùng tuổi tên chín Anh Hùng tận tuyệt
tuần tự lên máy chém
Họ là Ai.lịch sử bỏ quên
chốn cô hồn khuất lấp

tôi cô đơn hãi hùng trong xà lim ma quái
rờn rợn sống lưng
những nhát chém vô hình phụp xuống
người chiến sĩ phục quốc Trần Việt Sơn
hồ trường.đứt bóng

chàng bỏ lại người vợ trẻ
nơi đồng ruộng Long Xuyên
từng nét chữ vô vọng nhoẹt nhòe vệt máu
Anh yêu Em
vĩnh biệt
không một ai được biết
tôi rùng mình sởn gáy
khí lạnh đùn quanh
một bóng một mình.tôi nhìn tôi sợ hãi

ôi người bạn không quen
chiều sông Dịch còn vang vang gươm dáo
mối thù kia còn đeo đẳng kiếp người

chân tay tôi bị xích bị xiềng
nghe tiếng sáo mơ hồ gió thoảng
tôi kéo lê dây xích
trong đau thương tột cùng
vói bàn tay sờ soạn bức tường dày
đọc tên từng người
giọt nước mắt cay
những đứa con yêu.Tổ Quốc đoạn đành

A20 Cái Trọng Ty

18.4.14

Hoài Niệm


39 năm trôi qua
Tôi vẫn đời viễn xứ
Sống cuộc sống tha phương
Nơi đất khách quê người
Nhưng lòng vẫn ghi nhớ
Những kỷ niệm ngày xưa
Nhớ những ngày cắp sách
Ngồi trên ghế giảng đường
Với bao nhiêu ước vọng
Một tương lai sáng tươi

Nhưng mùa hè đỏ lửa
Khi giặc cộng tràn về
Tàn phá quê hương tôi
Gây bao cảnh đau thương
Cho dân lành vô tội
Nên bút nghiên sách vở
Đành tạm gác sang bên
Theo tiếng gọi quân trường
Sống đời trai thời loạn
Và sau ngày mãn khoá
Mỗi đứa về một nơi
Thằng Nhảy Dù, Biệt Động
Đứa Địa Phương, sư đoàn
Thằng Thủy Quân Lục Chiến
Kẻ chắp cánh trên cao
Thằng bạn bè sông nước ...
Ngày đêm trên chiến địa
Mặt đối mặt quân thù
Sống chết tựa như tơ
Vì hai chữ tự do
Xả thân cho lý tưởng

Tháng tư ngày ba mươi
Đang chiến đấu cộng thù
Lệnh truyền buông vũ khí
Uất hận trong nghẹn ngào
Rời bỏ mảnh chiến y
Còn vương mùi chiến trận
Trở thành tên hàng binh
Sống cuộc đời nhục nhã
Với kiếp sống lao tù
Tôi vẫn luôn nhớ đến
Những thằng bạn cùng thời
Đồng chung trong cảnh ngộ
Trong kiếp sống tù đày
Nhưng không hề khuất phục
Trước loài thú thành người
Cùng tìm đường vượt trại
Chấp nhận mọi hy sinh
Bỏ xác trong rừng sâu
Hay dập bầm thân thể
Trong gông cùm hầm tối
Vẫn bền gan chịu đựng
Không một lời oán than
Nhớ đến những bạn tù
Đêm giáng sinh bẩy tám (78)
Trong tay không tấc sắt
Mặc cộng thù vây kín
Súng đạn nổ qua đầu
Năm K cùng cất hát
Một bài ca đấu tranh
Cho tự do con người
Nhớ những ngày gian khổ
Trong thung lũng tử thần
Khi cộng thù hiểm ác
Hành hạ bạn thân thương
Nên cùng nhau sát cánh
Đấu tranh với giặc thù
Với tinh thần bất khuất
Lính Việt Nam Cộng Hoà
Ngẩng cao đầu nhìn thẳng
Loài cộng thù gian manh
Nhớ những lúc biệt giam
Chia xẻ từng thìa cơm
Giúp nhau từng giọt nước
Để cùng nhau vượt qua
Những chặng đường gian khổ
Hun đúc chí căm thù
Chờ đến ngày phục hận
Đánh đuổi loài cộng nô
Mang lại ngày tươi sáng
Cho quê hương Việt Nam.

Kính hương hồn: Cao Hữu Hoàng, Nguyễn mậu Nội, Châu hoàng Lộc, Nguyễn thanh Sơn, Nguyễn văn Liêm, Hùng (sư tử)… đã bỏ mình khi vượt ngục
Tặng bạn tù Suối Máu, A20 Xuân Phước trong những ngày đấu tranh.

A20 Trương Mạnh Hùng
15-4-2014

24.3.14

Lễ an táng nhà báo Vũ Ánh


Buổi tiễn đưa nhà báo Vũ Ánh tại nhà quàn Peek Family Funeral, Westminster, CA.
Chiều Chủ Nhật 23-3-2014. 







(Nguồn: www.nguoi-viet.com/)

20.3.14

Thư viết cho chồng






1975-1992

Anh, “Dựa lưng nỗi chết”*
Vẫn còn giữ nụ cười.
Em, trôi giòng đời bạc
Nước mắt lúc đầy vơi.
Hồn bạt ngàn gió núi,
Tình ngỡ tan mù sương...
Trong mộng ảo và thực,
Em nhìn Anh , rưng rưng.
Trên còn đường ta đi
Mùa xuân qua rất chậm
Thôi không còn chia ly
Dù muộn màng số phận.

1992-2014
Anh, tấm lòng bao dung
Em, cảm ơn hạnh phúc
Những niềm đau lắng xuống
Trong khu vườn tình yêu.
Từ quá khứ nghiệt ngã
Anh bước ra nhẹ nhàng
Viết và yêu chữ nghĩa
Đến hơi thở cuối cùng.
Đêm mùa xuân trăng sáng
Em nhớ nụ cười anh
Tha thứ và ấm áp
Ôm mãi hoài đời em.

Yến Tuyết
(A20 Vũ Văn Ánh phu nhân)




* Đề tài 1 cuốn sách của Phan Nhật Nam.





15.3.14

Vĩnh biệt Vũ Ánh




Anh từng hứa về thăm trại cũ
lên đồi vĩnh biệt đốt một nén nhang
sao đành đi lúc chiều chưa tàn
mà khăn gói vẫn đầy nguyên kiếp nạn

Nhớ xưa
dưới cái nóng hạ Lào cháy khô thung lũng
cùm chữ U máu mủ ứa cổ chân
anh hiên ngang gõ sắt mà ca
trên xiềng xích đọc vang bài Bắc Tiến

Sáu năm biệt giam
ba muỗng nước, ba muỗng cơm
chưa lần lung lay ý chí
một đời anh - một đời sĩ khí
bước thấp, bước cao cắn nhục mà đi
ngọn bút hiên ngang
thay làn tên mũi đạn
giữa trại thù nét mực chưa phai
bây giờ
tờ Hợp Đoàn để lại cho ai?

Vũ Ánh ơi!
trên sàn tù lạnh lẽo
áo lính sờn vai 
hơi thuốc thổi bay qua đồi vĩnh biệt
anh khóc cho thằng nằm lại bơ vơ
đã lỡ không được chết dưới cờ
lủi thủi như anh - lên đường ra trận
mười ba năm - nằm gai nếm mật
bây giờ - thôi đã trắng tay thua

Tiễn anh đi 
      - mười ba năm tù
          - sáu năm biệt giam
      - ba lát khoai khô
                         - cõng mấy hạt cơm gạo mốc
một thời lẫm liệt
trước gông cùm kìm kẹp
còn ai ngồi nhắc, có ai thương ?

Vũ Ánh ơi!
con tằm già chết ở cuối đường tơ
Chí Hoà, T 20, Z30A, A20
những trại thù anh từng qua
lổn ngổn sau lưng 
vẫn còn đây bầy xiềng xích 
ôi! Trường Sơn có nghe chăng
giữa khuya đau lòng tiếng anh than
chí cả năm xưa - theo tới ngày tàn
trong thiên hạ ai chia bùi xẻ ngọt?

Và lớp lớp người đi - người đi trước
nợ nần gom đầy - chỉ một anh mang
lũ bọ dòi rút rỉa tan hoang
anh vẫn lồm cồm
một thân đứng dậy
mà thôi 
hãy quên đi những gì không đáng nhớ
cầm trên tay thanh kiếm gãy năm nào
về lại đây - trở lại đèo cao
đồi vĩnh biệt bạn bè vẫn đợi
cứ múa bút
                                           - cho ngày đang tới
                                           - cho Trường Sơn rung lá như xưa
                                           - cho Trà Bương lúc mưa là mưa
                                           - cho bút pháp đi vào thiên cổ
nhớ mà chi
một lần qua sông Dịch
lưỡi gươm cùn bỏ lại dưới trăng tan

Vũ Ánh ơi!
bài thơ xưa gởi anh ngày bóng xế
còn trên tay dù đã ố vàng
cứ cầm như - như một nén nhang
tiễn anh đi - dù xa ngàn dặm

A20 nguyễn thanh khiết
15-03-2014





Trả lời thư Vũ Ánh


đọc thư anh thằng em buồn thúi ruột
cũng muốn xẻ chia như thuở tù đày
biết anh một thời lừng lẫy, đắng cay
bị cùm mút chỉ, sống còn vì bạn

đại ca – anh là thằng ưa gánh nạn
nên suốt đời bị trù dập thẳng tay
tưởng ra đi đã vứt nợ trần ai
cái nghiệp dĩ trói anh thêm lần nữa

đọc thư anh – trả lời như đã hứa
tội cho anh làm kỷ niệm tháng tư
chỉ với khoai mì, muối ớt, khư khư
thì chắc chắn chẳng ma nào tới dự

lần đầu tiên mười lăm thằng – quá dữ
lần thứ hai chỉ vỏn vẹn còn ba
lần tới nầy sẽ không một bóng ma
kéo ghế ngồi với anh cùng mặc niệm

đại ca ơi! phải chi anh ra quán
café Bolsa – mấy em phục vụ ở truồng
hoặc ở nhà hàng, cờ quạt bốn phương
may ra bạn bè ngày xưa xúm lại

cái thói xứ người mồm loa mép giải
ngày tan hàng đã vất mẹ nước non
mấy mươi năm cứ chửi rủa, om sòm
rủ về nước mặt xanh như tàu lá

súng đạn quăng bừa đạp nhau chạy trốn
miệng la làng vì chống cộng mà đi
đại ca – anh nhắc chi, làm mẹ gì ?
cái đám đó bây giờ đông như kiến

cám ơn anh đã một lời thành thực
biết thẹn mình, vì đã lỡ buông tay
còn tưởng nhớ mười năm hơn ăn khoai
trong lúc nhiều thằng cố tình quên nó

nhục theo anh gần bốn mươi năm dài
mà có kẻ cứ vinh danh hoài mới chết
thôi đại ca, anh tuổi già mỏi mệt
đã một đời, hãy để đám đàn em

nguyễn thanh khiết
03-2011




14.3.14

Thung lũng tử thần - Phần 1


A20 Vũ Ánh


LTG - Hồi đầu năm cháu nội tôi, Catherine Vũ 11 tuổi hỏi bố nó: “Tại sao ông nội bị tù, có phải ông nội phạm tội hình sự không?” Con trai tôi cũng chỉ trả lời đại khái là sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản, nhà cầm quyền mới đã bắt tất cả các cựu sĩ quan quân đội và cựu công chức từ cấp chỉ huy thấp nhất đến cao cấp nhất đẩy vào các trại cải tạo để trả thù. Năm nay con trai tôi đã ngoài 40, nhưng không thể nào giải thích chi tiết với con gái nó về những gì đã xảy ra cho ông nội và những người bạn tù khác của ông nội đằng sau những cánh cổng nhà tù ấy. Thực ra, lúc tôi vào tù cải tạo, con trai tôi mới 6 tuổi và khi tôi trở về từ nhà tù thì nó đã là một thanh niên 19 tuổi và nằm trong danh sách những thanh niên không được đặt chân vào ngưỡng cửa của trường đại học vì cái lý lịch của tôi. Ðó là lý do tại sao tôi viết loạt bài này. Tôi hy vọng đây là một lời giải thích, một nhắc nhở với thế hệ thứ hai và thứ ba của không những người Việt Nam tị nạn ở hải ngoại mà còn ở trong nước để họ đối chiếu và so sánh khi cần. Ngày nay, chế độ lao tù ở Việt Nam có thể đã có nhiều thay đổi, nhưng tôi tin rằng mục tiêu của chế độ này cũng vẫn dựa trên nền tảng cũ: đàn áp và tiêu diệt khả năng đối kháng của con người trong chế độ toàn trị ở đất nước ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn nhấn mạnh rằng loạt bài này chỉ phản ảnh cách nhìn của riêng tôi về một giai đoạn lao tù đặc biệt sau ngày miền Nam Việt Nam thất trận. Tôi viết là viết cho thế hệ con cháu tôi và chia sẻ với thế hệ con cháu của những bạn đồng tù khác, chứ không phải là bản lên tiếng, lên án hay cáo trạng gì cả và tôi không phản đối những cách nhìn khác.


Ðặt tên cho một lòng chảo

Cái tên này được các tù cải tạo vốn là những sĩ quan quân đội và các cấp chỉ huy trong công chức VNCH từ trưởng phòng trở lên và tù chính trị án nặng kể cả tử hình đặt cho một cái lòng chảo đặc biệt ở xã Xuân Phước thuộc quận Ðồng Xuân thuộc tỉnh Phú Khánh (tên gọi mới của tỉnh Phú Yên), nơi có trại cải tạo A-20. Từ ga xe lửa La Hai trên Quốc Lộ 1 muốn vào đến lòng chảo này phải vượt qua 60 cây số đường rừng, tức là phải vượt qua trạm cuối cùng nơi có một trại Lực Lượng Ðặc Biệt cũ thời chiến tranh cách A-20 khoảng 10 cây số, vượt qua một vòng đai gồm khu kinh tế mới và một vòng đai gồm gia đình công an và dân làng do Việt Cộng kiểm soát thời chiến tranh. Từ ga xe lửa La Hai vào đến trại, thân nhân các tù cải tạo phải lội qua rất nhiều con suối vào mùa mưa, trong đó nguy hiểm nhất là suối Lạnh, nước lên mấp mé bờ và chảy xiết. Về vị trí thì theo nhiều tù cải tạo rành về địa thế cho biết trại A-20 nằm trong một khu rừng già bên cạnh con đường mòn mới mà người Cộng sản gọi là Trường Sơn Tây bên này dãy Trường Sơn.


Thung lũng tử thần - Phần 2



A20 Vũ Ánh


Tờ Hợp Ðoàn ra đời trong bí mật ở A-20 Xuân Phước trong hoàn cảnh nào?

Chọn lựa ở xã hội bên ngoài sau khi người tù cải tạo được thả ra từ sau những cánh cổng nhà tù đã là một khó khăn huống hồ là những chọn lựa trong tù, nghĩa là trong một môi trường không thể có chọn lựa. Nhưng nếu bảo ở sau cánh cổng nhà tù, người tù không còn lựa chọn nào khác hơn là chấp nhận thì không đúng. Tuy nhiên, sự lựa chọn ấy chắc chắn sẽ là một quyết định khó khăn giữa hai thái độ: hoặc là thà chết để đứng thẳng lưng, hai là cứ cong lưng để sống. Tôi có thể nêu ra một điển hình mà chắc bạn nào từng sống ở cái địa ngục A-20 Xuân Phước trong thời kỳ từ 1979 cho đến 1984 chưa quên. Ðó là khi trưởng trại giam Thân Yên, người mà hôm “đón tiếp” chúng tôi khi chúng tôi bị giải giao đến trại đã ngồi vỗ tay rất hăng hái khi PÐN cựu sĩ quan Chính Huấn quân lực VNCH điều khiển anh em hát ca khúc “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” của Nguyễn Ðức Quang, đã ra lệnh thành lập đội Văn Thể, tức Văn Nghệ và Thể Thao tại Phân trại E. 

Thung lũng tử thần - Phần 3



A20 Vũ Ánh


Cái giá của những ngộ nhận!

Khi đã bị đẩy vào sau cánh cổng nhà tù cộng sản, chỉ có một số rất nhỏ ở một trại từ đầu cho đến cuối mùa, còn phần đông đều bị chuyển trại cứ khoảng một đến hai năm một lần đi các trại khác, ngoại trừ tù cải tạo bị “tuyển lựa” lên các trại A-20, A-30 và A-10. Khi phải đi qua nhiều trại cải tạo như vậy, các bạn tù khi gặp lại nhau ở trại mới thường hay hỏi thăm nhau tình hình sinh sống ở các trại khác. Có người nói trại này sống “thoải mái” hay “dễ thở” hơn, trại nọ “khắt khe, thù hận” nặng hơn vì các cán bộ quản trại đều là từ quê hương Nghệ An, Hà Tĩnh hay Ðồng Hới. Nhưng theo tôi, khi đã bị buộc phải sống trong các trại cải tạo thì chẳng có trại nào dễ thở hơn trại nào. Dễ thở, thoải mái hay không là tự mình. Anh sợ sệt đủ thứ kỷ luật khắt khe mà cai tù đặt ra thì ở trại cải tạo nào cũng nghẹt thở cả. Còn nếu anh tự cho anh là người tự do thì trại nào cũng dễ thở cả!


Thung lũng tử thần - Phần 4


A20 Vũ Ánh


Tết Nguyên Ðán 1984 đánh dấu sự thay đổi chế độ lao tù tại Việt Nam?

Tết Nguyên Ðán năm 1984, chúng tôi lại trải qua một cuộc “xóa bài làm lại” trong khu biệt giam của Phân trại E thuộc A-20 Xuân Phước, nghĩa là phải thay đổi chỗ ở sau một màn tất cả lần lượt “bị” lùa ra giếng nước ngay bên cạnh ao thả cá rô phi sau khu biệt giam. Trời Tháng Giêng ở thung lũng tử thần lạnh như có ai cầm dao cắt vào da, nhất là khi trời vào tiết Xuân, gió hiu hiu làm lay động hàng dừa trong sân trại. Cái lạnh thiên nhiên cộng với việc thiếu đường và chất béo từ 9 năm qua khiến cho buổi sáng ngày 30 Tết Nguyên Ðán năm 1984 trở thành buổi sáng không thể nào quên được trong đời. Chân tay anh em chúng tôi gần như tê liệt. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng đứng như trời trồng trước cửa biệt giam số 5 khi ngài được trật tự mở còng cho đi tắm và làm tổng vệ sinh buồng giam. Một tu sĩ Công Giáo nhỏ con, lanh lẹ như một con sóc, nổi tiếng hùng biện và can trường như ngài mà chỉ mới hơn 3 năm bị cùm trong xà lim, thân xác không khác gì người tù Do Thái trong các trại tập trung của Ðức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ Hai.


21.12.13

Trả lại sự thật cho chiến sử VNCH


Một Chiến Công Bị Quên Lãng


A20 Đỗ Văn Phúc



Trận tử thủ An Lộc được xem là một trong ba trận đánh lừng danh nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè năm 1972, mà sau này được nhà văn Dù Phan Nhật Nam đặt tên là “Mùa Hè Đỏ Lửa”.

Bốn mươi mốt năm về trước, đúng vào 7 tháng 4, 1972, Cộng quân đã tung ba sư đoàn bộ binh (5, 7, và 9) cùng thiết giáp ồ ạt tấn công vào thị trấn bé nhỏ An Lộc, nơi đang là tỉnh lị của tỉnh Bình Long, chỉ cách thủ đô Sài Gòn khoảng một trăm cây số. Mục tiêu tối hậu của Cộng Sản Hà Nội là chiếm bằng được An Lộc để làm thủ đô cho cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam”, nhằm hỗ trợ cho mục tiêu chính trị của Hà Nội là tạo một uy thế cho đám bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng để có tiếng nói tại Hội Nghị Paris.

Nhưng sau ba tháng bao vây tấn công một thị trấn nhỏ bé có diện tích chỉ khoảng 4 cây số vuông, sử dụng đến hàng chục ngàn binh sĩ, hàng trăm xe tăng tối tân, bắn hàng trăm ngàn viên đại pháo, hoả tiễn, Cộng Quân đã chuốc lấy thảm bại và rút lui sau khi để lại trên 10000 xác chết cộng với khoảng 25 ngàn khác bị thương.
Trận tử thủ được xem là chấm dứt vào ngày 7 tháng 7, 1972 khi các đơn vị tăng viện của Quân Lực VNCH tiến vào An Lộc, bắt tay với các đơn vị phòng thủ và tiếng súng địch đã ngưng hẳn.

Đã có nhiều bài viết về trận An Lộc với nhiều chi tiết và nêu danh các quân nhân anh hùng đã tham gia trận đánh. Gần đây, Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh cho ra mắt cuốn sách Chiến Thắng An Lộc 1972 dày 418 trang vớí nhiều sử liệu đáng giá.
Nhưng không rõ lý do gì, trong hơn 400 trang giấy, một trong những người anh hùng có công đầu trong trận đánh đã bị bỏ quên, hoặc chỉ được nhắc qua một cách mờ nhạt trong vài câu như chỉ là một trong những chiến binh có mặt, tham gia trận chiến. Trong các trang 181-183, Phần 1, Chương 11 ghi công trận các vị chỉ huy từ các Tướng Nguyễn Văn Minh, Lê Văn Hưng, đến các Đại Tá Lê Quang Lưỡng (Nhảy Dù), Trần Văn Nhật (TQLC), Mạch Văn Trường (Trung Đoàn 8 BB), Lý Đức Quân (Trung Đoàn 9 BB), Nguyễn Văn Biếc (BĐQ), Phan Văn Huấn (Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù), tuyệt đối không có một câu nào cho Đại Tá Lê Nguyên Vỹ. Chỉ đến gần cuối, ở trang 188, mới thấy ghi qua loa như sau:

28.11.13

Tự Do và Tôi


Tiếng hát A20 Vũ Trọng Khải trên sân khấu Úc Châu với nhạc phẩm "Tự Do và Tôi" của Hà Thúc Sinh.




18.11.13

NÉN NHANG CHO MỘT ANH HÙNG


A20 Phạm Đức Nhì

(Luật sư Trần Danh San, người đọc Tuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Những Người Việt Nam Khốn Cùng tại Vương Cung Thánh Đường năm 1977, đã ra đi.)
  
Giữa Trần Danh SanVũ Văn Ánh, do vị trí chỗ nằm ở nhà 3 lúc mới đến phân trại E, A20 Xuân Phước, tôi gần và thân Vũ Văn Ánh hơn. Với Vũ Văn Ánh, tôi có thể đặt câu hỏi trực tiếp về những điều mình muốn biết và được anh trả lời đầy đủ, cặn kẽ. Với Trần Danh San, tôi phải rình những lúc anh trò chuyện với mọi người để len lén đến ngồi nghe ké. Nguyễn Hữu Hồng, một sĩ quan trẻ và cũng hay ngồi nghe ké như tôi, có lần phát biểu: “Tay này đúng là trên thông thiên văn, dưới thông địa lý, cái con mẹ gì hắn cũng biết. Đáng nể thật.” Nhờ những lần nghe ké như vậy sự hiểu biết của tôi được mở mang rất nhiều.

“THÁC LÀ THỂ PHÁCH, CÒN LÀ TINH ANH”



Luật sư Trần Danh San đã ra đi, nhưng thanh danh luật sư Trần Danh San  đời đời lưu lại trong lịch sử.

*Luật sư Trần Danh San, người đầu tiên viết nên bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền” của những người Việt Nam khốn cùng.” (The Declaration of Human Rights of Disgraceful Vietnameses).

*Luật sư Trần Danh San, cá nhân bảo vệ nhân quyền, chống lại bạo quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1977, nguy hiểm không khác chi trường hợp “David nhỏ bé có mưu lược đánh chết anh khổng lồ Goliath.”

15.11.13

Long Rồng


A20 tháng 9, 1993 

Bên bờ giếng hai người đàn ông mặc quần xa lỏn chụm đầu vào nhau. Bốn cái đầu gối lồi lên hai bên bả vai. Con mèo nằm nhe răng, mặc cho bốn bàn tay vò vọc, nhổ từng nắm lông. Nó đã chết từ đêm hôm qua, ngay dưới vuông cửa trực của người tù gác đêm Đào Đăng Nhẫn.

Gã tù Việt kiều tay cầm đóa hoa vạn thọ, ngô nghê bước sát lại gần hai người tù đang nhổ lông con mèo. Con mèo bé tí, vừa bằng cổ tay người tù khổ sai ! Cả ba rơi vào những giây thời gian im lặng khó diễn tả ! Một tay chỉ huy giang hồ khét tiếng. Một tay thơ phú dạt dào và một tên lưu vong quay về từ bên kia quả đất sau mười năm lang bạt. Ba người đàn ông trọng án cùng nhìn vào một con mèo trắng ởn đã chết đang bị vặt lông. Con mèo bé bỏng, gầy guộc, cái đầu chỉ nhỉnh hơn quả chanh.

13.11.13

Bài điếu văn cho Trần Danh San một A-20 vừa ra đi vĩnh viễn!


A20 Vũ Ánh


San thân,


Dù đã đoán trước được ngày giờ này đến với bạn sẽ không xa cái ngày ở tôi và Vũ Hùng Cương đến thăm và ở lại tán gẫu với bạn cả buổi sáng tại bệnh viện. Buổi sáng hôm đó, tôi đã nghe bạn nói với người bác sĩ điều trị: “Dù muốn dù không tôi cũng sẽ ra đi, đừng lo lắng thái quá cho tôi”. Trần Danh San là như thế ! Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng không phải chỉ ở vào thời điểm bạn đã nằm trên giường bệnh vì ung thư phổi mà ngay từ thời gian luôn luôn chúng ta phải đối mặt trực diện với kẻ thù từ những năm đầu của biến cố 30-4-1975. Tôi nhớ cái ngày chúng tháo cùm mở cửa xà lim để chuyển chúng ta vào khu chuồng cọp “sang trọng” hơn ở trại B, đôi cổ chân của bạn sưng lên như chân voi, cái dấu cùm 16 lún xuống thành hai cái vòng. Chúng ta đã kiệt sức và phải bám vào nhau để lết ra gốc hàng dừa phía sau khu biệt giam chờ lên xe để chuyển trại. (Khu biệt giam hay khu chuồng cọp phân trại B của A-20 Xuân Phước sang trọng hơn chỉ là mới hơn rộng hơn về bệ nằm nhưng chế độ ăn uống thì tệ hại hơn, nước uống được cấp phát dồi dào hơn nhưng nước muối mặn hơn nên dễ bị phù hơn. Tôi và Trần Danh San bị phù rất nặng đến mức cứ ngủ thiếp đi khi đang nói chuyện. Nếu ở ngoài các bạn bè tâm phục không liều chết tổ chức cho một người liều chết leo qua bức tường cao 4 thước có kẽm gai trước họng thượng liên của vọng gác tiếp tế thuốc vitamin B-1 cho chúng ta, chắc chúng ta cũng không thể sống nổi)

Gởi người cố cựu


như cơn lốc từ trong quá khứ
hốt bụi - tung mù cõi trần ai
rồi bay đi biết mấy năm dài
giờ rớt xuống buồn hiu một cõi

rong chơi một dạo thôi đã đủ
bàn tay nắm lại - bàn tay không
chốn xưa, chuyện cũ giờ như mộng
người đi, rửa sạch nợ tang bồng

hồn về thung lũng thăm trại cũ
đừng đau lòng qua đỉnh núi cao
bạn bè nằm đó thời rách áo
chốn ấy ngày xưa một chiến hào

người đi ! ừ cứ đi như thể
đã cạn một vò rượu tiễn đưa
từ phương Nam theo gió theo mưa
lời vĩnh biệt gởi người cố cựu

nguyễn thanh khiết
12-11-2013

để vĩnh biệt A20 Trần Danh San


12.11.13

Độc Thoại...


Tim bị nghẽn khiến cho mầy gục xuống,
Trong cơn mê bỗng thấy bóng thiên đường.
Ngàn tiên nữ phất phơ màu xiêm áo,
Khúc nghê thường dìu dặt múa đêm sương.

Chợt một thoáng khi đầu còn tỉnh táo,
Mầy đưa tay sờ soạn vịn sô-fa.
Gượng đứng lên thân xác lão lính già,
Do sức mạnh của hồn thiên sông núi.

Bao nhiêu năm sống nhọc nhằn quá đỗi,
Đói khát, tù đày, lao động “vinh quang”.
Nhiều năm trường ăn độn bắp, khoai lang,
Mầy vẫn sống vẫn mơ về sông núi.

Rồi một đêm trong mịt mùng bão nổi,
Lặng lẽ xuống thuyền rời bỏ quê hương.
Mầy ra đi bỏ lại chốn thiên đường,
Nơi thống trị của một bầy quái thú.

Nơi đất lạ vẫn hướng về quê cũ,
Nhớ súng gươm, bạn hữu, chiến trường xưa.
Nhớ những lần đuổi giặc suốt chiều mưa,
Và đêm đến vang pháo gầm xung kích.

Trúng đạn A.K, B.40 mầy không chết,
Thì sá gì chuyện bị nghẹt cơ tim.
Mầy tin đi ! Thượng Đế rất công bình,
Chỉ bách hại phường buôn dân bán nước.

Nếu như mầy Trời ban cho điều ước,
Thì ước gì trong cuộc sống nổi trôi ?
Tao đoán mầy mong muốn đơn giản thôi,
Nguyện: sẽ chết để quê hương được sống !

A20 Lê phi Ô
viết sau ngày từ bệnh viện Bascom. SJ trở về (04/11/13).
Được giải phẩu để chửa “nghẽn mạch máu cơ tim”.  LPO



Trần Danh San, tiếng hò khoan đã tắt…


Phan Nhật Nam

Ngày 11 tháng 11 năm 1960, ngày lực lượng Nhảy Dù thực hiện cuộc binh biến báo hiệu cơn sóng gió của chiến cuộc và chính cuộc Miền Nam. Cũng là ngày gã thiếu niên 17 tuổi hiểu rõ nỗi đau và sự chết có thật dâng lên ngập ngập trong thân, trong lòng…
Cảm giác, phản ứng nôn nao sinh tâm lý làm nghẹn đường thở, rì rầm âm động nơi trái tim với câu hỏi… Mẹ bây giờ ở đâu? Mẹ sống, chết ra làm sao? Em đang nơi nào? Làm sao để sống? Ngày 11 tháng 11 năm nay, 2013, Lễ Cựu Chiến Binh ở Mỹ, người lính của chiến tranh xa nặng lòng, mệt nhọc, buông xuôi.. Chứng kiến Người Bạn ra đi sau những ngày, giờ chạm dần vào cánh cửa vô hình hiển hiện của sự chết. Trần Danh San ra đi thanh thản sau khi đã sống đủ một đời kiệt liệt.

11.11.13

Thăm đời ngày xuống tối


Người vẫn nói vẫn cười môi méo mó
người vẫn thở dài, nhắc thuở cùm gông
đầu đội vai mang năm tháng mòn trông
giờ tàn như rẫy nương mùa thiếu nước

ta ghé thăm người, nhìn người khó nhọc
một nụ cười bạt mạng của ngày xưa
tội tụi mình - vừa hết nắng đến mưa
tới tới, lui lui tuổi già rượt đuổi

thôi yên cương, vó ngựa còn chi nữa
người cứ về vườn đón gió hái trăng
cầm lại cây đàn bụi bám nhện giăng
phổ được chăng ?  khúc cho đời bóng xế.

mai mốt ta trở về  thăm Dak Lak
tới Dak Song - chiều ngồi xuống bên hồ
nghe tiếng đàn dưới dãy núi nhấp nhô
ngọn gió đầu đông lùa về bụi đỏ

ta ghé người, thăm một đời tù ngục
đã nhốt mình trên núi mấy mươi năm
giờ chỉ còn một nửa của tối tăm
đang còng lưng gánh những ngày bệnh hoạn

ta ghé thăm người trời vừa xuống tối
băng qua hành lang bệnh viện trắng phau
một lời chào - ngày mai có còn nhau ?
trong cái tuổi của già nua, ly biệt

ta ghé thăm người - thăm đời nghiệt ngã !

nguyễn thanh khiết
10-11-2013

         đêm ghé anh Trung (lai) ở BV 115



Luật Sư Trần Danh San, người đọc Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1977 tại Sài Gòn, qua đời




LS Trần Danh San – Người đọc “Tuyên ngôn Nhân quyền của những người Việt Nam khốn cùng” trước nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn ngày 23-4-1977 đã qua đời

Sau sự kiện giới trí thức Tiệp Khắc ban hành Hiến chương 77 chống lại nhà cầm quyền Cộng sản Tiệp Khắc, LS Trần Danh San đã cùng với LS Luật Sư Triệu Bá Thiệp viết và công khai đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng” trước nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn ngày 23-4-1977.
Ngay sau đó, cả 2 LS đã bị bắt cùng một số người khác như: LS Vũ Đăng Dung, Nguyễn Hữu Giao, Nguyễn Quý Anh, Vũ Hùng Cương, Trần Nhật Tân, Phạm Biểu Tâm, Huỳnh Thành Vị, Nguyễn Hữu Doãn và KTS Nguyễn Văn Điệp và GS Hà Quốc Trung… Họ bị giam giữ nhiều năm trong tù, KTS Nguyễn Văn Điệp và GS Hà Quốc Trung đã tự tử trong tù, LS Trần Danh San bị giam 10 năm.
“Trong một lần trả lời phỏng vấn của Người Việt năm 2011, Luật Sư Trần Danh San kể lại thời điểm đọc bản Tuyên Ngôn: ‘Chúng tôi gồm hơn 10 luật sư trước 1975 đang hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngả tiến theo hai đường tập trung trước nhà thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 Tháng Tư. Chúng tôi đã dùng một cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ để đọc lên bản Tuyên Ngôn. Ngay lúc đó công an ập đến bắt chúng tôi về Tổng Nha Cảnh Sát cũ rồi sau đó giải về Phan Ðăng Lưu’.”
Đây là nội dung bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng”

“Chúng tôi những người Việt Nam khốn cùng, với tàn lực còn lại với tinh thần tàn phế, quyết đấu tranh bằng con đường bất bạo động để kêu gọi lương tâm nhân loại, các lực lượng của thế giới văn minh, hãy lắng nghe những lời cầu cứu thảm thiết của những kẻ hấp hối.

- Tàn lực vì chúng tôi ăn đói và sẽ chết đói.

- Tinh thần tàn phế vì chúng tôi không được sống và suy tưởng như con người.

Chúng tôi buộc phải cúi đầu khom lưng tung hô vạn tuế chủ nghĩa – một chủ nghĩa đã lỗi thời và chống lại con người. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ con người để thức tỉnh bọn đao phủ mù quáng và tham tàn. Vì chỉ có con đường bất bạo động mới tránh khỏi các cuộc thảm sát huynh đệ tương tàn và khỏi làm nhơ bẩn tấm lòng trong trắng của những người Việt Nam khốn cùng.

Hỡi các nông dân trên thế giới hãy hướng về Việt Nam – nơi mà người nông dân phải cực nhọc suốt ngày với bụng đói. Hoa màu của họ bị tịch thâu nhân danh quy luật duy vật sử quan. Con trâu sau khi cày còn được nghỉ chứ người nông dân Việt Nam buộc phải theo dõi các buổi học tập nhồi sọ vô tận.

Hỡi các công nhân trên thế giới, các bạn có thấu hiểu thân phận của người công nhân Việt Nam không? Người công nhân Việt Nam phải theo chế độ “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ.” Ngày nghỉ họ buộc phải làm gấp đôi để dâng lên đảng, lên lãnh tụ mồ hôi, máu, và nước mắt của họ. Quyền thiêng liêng nhất của công nhân là quyền đình công, quyền này đã bị tước đoạt. Mọi ý kiến và hành động không theo khuôn mẫu sát của đảng đều đương nhiên bị coi như hành động phá hoại, gián điệp.

Hỡi các nhà truyền giáo, các khoa học gia, các triết gia, các văn nghệ sĩ, các trí thức, những ai đang tụng kinh hãy ngừng lại, những ai đang say mê nghiên cứu trong tháp ngà, hãy tung cửa ra, những ai đang sáng tác với ngòi bút, hãy bẻ gãy nó đi, tất cả hướng về Việt Nam – nơi mà chùa và nhà thờ đã bị biến thành hội trường để tuyên truyền chính trị – nơi mà các định luật khoa học bị móp méo để thỏa mãn chủ nghĩa – nơi mà các văn nghệ sĩ chỉ còn một việc duy nhất là tung hô Nhà nước theo lệnh của đảng.

Các vị và các vị hơn ai hết đã hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình cho Lòng tin, Sự thật, Công lý, Hòa bình và Tiến bộ, các vị không có thể làm ngơ quay lưng lại thảm họa Việt Nam trong đó có con người Việt Nam khốn cùng đang bị đày đọa trong xác thịt và câu thúc trong tinh thần. Thảm trạng này là do một thiểu số – bọn đảng viên và tay sai của chúng – muốn áp lên dân tộc khốn cùng này là những ảo mộng điên khùng nhất, quỉ quái nhất mà nhân loại chưa từng thấy. Các lực lượng văn minh trên thế giới hãy đứng dậy.

Không còn chờ đợi gì nữa!

Liên Hiệp Quốc phải can thiệp cấp thời để áp dụng và áp dụng triệt để Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền đối với những người Việt Nam khốn cùng chiếu theo sự quy định của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

Luật Sư Trần Danh San
(ký tên)

Luật Sư Triệu Bá Thiệp
(ký tên)

23 tháng 4, 1977″.