Giáng Sinh năm nay
đã qua được mấy ngày, tôi mới lấy được thăng bằng trong tâm hồn để viết hồi ký
này.
Năm 1958, tôi theo ông Chú nhà binh
của tôi từ Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức tiền thân của Trường Bộ Binh sau này đổi
về Vũng Tàu. Trường công thì không vào được vì giữa niên khóa, hơn nữa trước
khi đến Vũng Tàu tôi học trường bán công tại Thủ Đức nên phải học trường tư.
Trường tư có 2 trường: Saint Thomas gần Bưu Điện hình như nằm cuối đường Trương
Công Định. Trường thứ nhì là Saint Joseph nằm trong khuôn viên Học Viện Thánh
Giuse, tôi xin vào học Saint Joseph. Giáo Sư trường này do các thầy từ trường
Thiếu Sinh Quân giảng dạy, tôi mến nhất là các thầy Xuân Đỗ và Thầy Tùng. Giáo
sư Xuân-Đỗ, hình như tên ông là Đỗ Xuân Thảo. Cuối năm 1963 khi thi ra trường
(sĩ quan Thủ Đức) tôi gặp giáo sư Tùng, lúc nầy ông đã lên Đại Úy…thầy
trò gặp nhau mừng quá. Thầy Tùng chấm thi môn Địa Hình, có lẽ thầy cho tôi điểm
thật cao, 2 môn Địa Hình và Chiến Thuật hệ số là 21, nên danh sách Sĩ Quan mãn
khóa tôi đứng thứ hạng tương đối cao. Thầy ơi ! không biết khi con viết những
dòng này thì thầy còn sống hay không! Dù còn sống hay đã khuất, xin thầy nhận
nơi con lòng biết ơn vô hạn của đứa học trò mang ơn sâu giáo dục của Thầy !
Gia đình tôi được đi định cư ở Pháp đã được tám năm.
Vào năm thứ ba tôi nhận được tin về Tân từ một người bạn cùng xóm đang sống ở
Việt-nam. Trong thư người bạn viết:
“Tân mới được
ra khỏi tù cải-tạo, bịnh rất nặng phải vảo nhà thương để mổ. Trại cải tạo cho
Tân về nhà để chữa trị. Anh em bạn bè ai cũng khổ, có đóng góp giúp Tân nhưng
chẳng được bao nhiêu, nên có ý-kiến nhờ người bạn viết thơ yêu cầu tôi giúp Tân
tài chánh để trang trải chi phí bịnh-viện”.
Họ nghĩ tôi sống ở nước ngoài nên kinh-tế có thể khá
hơn.
Gia-đình tôi vượt biển và được tàu Pháp vớt, cho tạm
trú tại Singapour ba tháng trước khi được Cao ủy tị-nạn làm thủ tục cho đi Pháp.
Tôi được định cư tại thành phố Dijon, cách xa Paris
khoảng ba trăm cây số. Tôi và vợ tôi may mắn được nhận làm việc trong một cơ sở
sản xuất sữa bò sau năm tháng đến Pháp.
Buổi dạ tiệc Ngày Quân Lực do Liên Hội Cựu Quân
Nhân tổ chức năm nay đông hơn mọi năm, không những có sự tham dự của gia đình cựu
quân nhân các vùng phụ cận mà còn có đông đảo người từ các Tiểu Bang xa đến. Chỉ
riêng cựu quân nhân của các quân binh chủng (chưa kể vợ con hoặc thân nhân) hầu
hết đều mặc quân phục ước chừng 500 người, nhà hàng từ trong ra ngoài toàn là
lính với lính trông hùng tráng và vô cùng đẹp mắt.
Tôi nhớ rất rõ chuyện
xảy ra rất lâu khi tôi gần tròn bốn tuổi.
Hồi đó, gia-đình tôi
sống gần một làng chài ở Mỹ-khê, Đông-Giang thuộc quận ba thành-phố Đà Nẵng.
Ba tôi phục-vụ trong
quân-đội VNCH, đơn-vị đóng ngoài Quảng-Trị, cấp bậc hạ-sĩ. Mẹ tôi bán cá ngoài
chợ Sơn-trà. Mẹ tôi mua cá của những ghe chài cập bến vào sáng sớm, để đem ra
chợ bán. Một buổi trưa Chúa Nhật, hai anh em tôi chơi banh ngoài sân cỏ bên
cạnh nhà, chờ mẹ về cho ăn cơm. Anh tôi học lớp đệ thất trường Trung-học
Đông-Giang, tôi học lớp mẫu-giáo của một trường tư trong phường. Đang chơi, vô
tình trái banh do anh tôi đá quá mạnh, tôi đỡ không nổi nên bị trái banh trúng
vào mặt. Đau quá tôi khóc ầm lên, anh tôi chạy đến dỗ dành tôi, lấy tay lau
nước mắt cho tôi, xoa nhẹ vào má tôi, nơi bị đau. Vừa lúc đó mẹ tôi từ chợ
về.Thấy mẹ, tôi càng khóc lớn thêm. Khi biết được sự việc, mẹ tôi quơ tay đập
nhẹ mấy cái vào đầu anh tôi mắng: “Cha mi, làm em đau,” rồi vội dẫn tôi vào
nhà, lấy khăn ướt lau mặt cho tôi, để tôi vào võng đưa qua đưa lại, dỗ dành:
"Nín đi con, sau nầy đừng chơi banh nữa, tháng tới sinh nhật con ba về mẹ
nói ba mua cho con chiếc xe đạp nhỏ, con đạp đi học giống như anh Hai của
con." Nói xong, mẹ tôi đi vào bên trong nhà rồi trở ra, một lá thơ trên
tay: "Đây là thơ của ba con gởi về hôm tháng rồi" mẹ tôi đọc:
Tôi được lớn lên tại làng Phước-Ninh, thành phố Đà-nẵng. Tên làng
Phước-Ninh là nơi chôn nhau cắt rốn của bên ngoại. Khi tôi được
sinh ra thì làng cũng đã được đổi tên thành khu phố. Nhà cha mẹ
tôi ở trong một kiệt mà sau nầy người ta đổi tên gọi là hẻm. Từ
nhỏ, tôi sống gần gũi với cha nhiều hơn với mẹ.
Cha tôi chỉ có một
tay và một chân. Chân phải cha tôi, từ gối trở xuống không còn. Tay
phải bàn tay cũng không còn. Những buổi trưa nằm ngủ trên ngực cha và
cha đưa võng bằng cây nạng gỗ chống xuống đất và khe khẻ hát ru tôi
vào giấc ngủ:
“... Nhưng than ôi, có một chiều thu lá thu
rơi... có một chiều thu lá thu rơi...ôm súng nhìn quê tôi... mơ trong
bóng ngày về..... mơ trong bóng ngày về...”
Hôm nay thứ bảy, tháng
tư ở Pháp, thời tiết ấm lại. Tôi lấy xe lửa đi Bordeaux thăm người em họ và
đồng thời tìm chút thư giản sau những công việc căng thẳng ở Paris.
Bước lên xe vừa lúc
cửa tàu đóng lại... khởi hành. Ghế ngồi mang số của tôi đã được một bé trai
ngồi sẵn.
Thằng bé thật bướng
bĩnh, mặc dầu người đàn bà đồng hành với nó đã năn nỉ yêu cầu hoàn trả chỗ ngồi
cho tôi, nó vẫn không chịu nghe lời. Thằng bé viện lý do nó sẽ nôn ra khi phải
bị ngồi ghế ngược chiều hướng xe chạy. Người đàn bà có lẽ là mẹ của nó xin lỗi
tôi, đề nghị tôi ngồi vào ghế mang số của nó. Tàu khởi hành vào giờ cao điểm
ngày thứ bảy nên không còn ghế trống nào khác. Để tránh khó xử cho người đàn
bà, tôi chấp nhận ngồi vào ghế của đứa bé. Thằng bé nhìn tôi rồi cười
thắng cuộc. Tôi có dịp quan sát kỹ nó, tóc vàng, mắt xanh, mũi hếch, đúng là
thằng Tây con chính hiệu! Còn người đàn bà đồng hành với nó? Mẹ nó hay là một nữ
nhân viên xã hội có nhiệm vụ tháp tùng trẻ con vị thành niên khi di chuyển một
mình bằng phương tiện công cộng? Bà ta ước chừng không quá bốn mươi tuổi, tóc
đen, mắt đen, khuôn mặt được trang điểm thanh tú. Tôi tự hỏi bà là dân Á Rập,
Trung Quốc, Lào, Thái Lan hay Việt Nam? Rồi cũng tự nói với mình: Ôi! người
nước nào thì có liên quan gì đến mình!
GARDEN GROVE (VB) – Theo Cáo Phó của gia
đình, nhà văn Duy Lam, tên thật Nguyễn Kim Tuấn đã qua đời vào ngày 4 tháng 2
năm 2021 tại thành phố Fairfax thuộc tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 89
tuổi.
Theo bài viết
“Gia đình Nguyễn Tường, vinh quang và bi kịch” của ký giả Mặc Lâm đăng trên
trang mạng của Đài Á Châu Tự Do (RFA) vào ngày 24 tháng 8 năm 2013 cho biết
thêm về thân thế của nhà văn Duy Lam như sau.
Ta viết dòng thơ
Khóc cho anh cho chị
Khóc cho cháu cho con
45 năm về trước
Ta buông súng bên đường
Khi chưa tròn trách nhiệm
Của một người quân nhân
Vứt chiến y súng trận
Khi còn vương mùi khói
Bên vệ đường thanh vắng.....
Như
một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH đã ngày
đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê hương gấm vóc và
hai chữ "Tự Do" ...
Cho tôi xin dù chỉ một lần
Mơ làm cánh én giữa trời Xuân
Tang bồng hồ thỉ mang chí lớn
Rạng giống Tiên Rồng lính Không Quân
Firebird24
Công ty tôi đang làm nằm trên con đường
Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt
buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ
trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ
thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc
phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.
Sau biến cố tù “cải tạo” trại Suối Máu nổi dậy
đêm Giáng Sinh 24 rạng 25 tháng 12 năm 1978, một số anh em bị công an “chấp pháp”
vc bắt giải giao về nhà tù Chí Hòa tại Sài Gòn, trong đó có tôi. Chúng tôi bị
giam trong xà lim khu ED mỗi người bị giam một xà lim riêng nên hoàn toàn bị cô
lập với thế giới bên ngoài, không ai nhìn thấy ai và cũng không biết những
người bị bắt chung với mình đang ở đâu.
Tháng 12 năm 1993, tôi
bị (được) chuyển tới trại A20 Xuân Phước- Phú Yên, từ địa ngục trần gian An
Điềm- Quảng Nam.
Lúc đó tại A 20 này có đến mấy trăm tù nhân chính trị và tôn giáo, tại đây tôi
có được may mắn diện kiến những nhân vật lừng danh từ trước 1975, như giáo sư Đoàn Viết Hoạt, chú Phạm Đức Khâm và đặc biệt là thầy Thích Tuệ Sĩ.
Tôi được biên chế về đội 12, một đội chính trị phạm nổi tiếng với những tù
nhân bất khuất, “cứng đầu” nhất trại.
Nguyễn Ngọc Bửu, SVSQ/Đại Đội
A/K25/TVBQGVN. là một SVSQ hiền lành cương trực, sống yêu đời với nụ cười thân
mật luôn nở trên môi. Bạn bè khóa 25, ai cũng đều thương mến.
Chiến
đấu trong tù là một điều không dễ chút nào, bên cạnh người tù còn có bè bạn, có
danh dự có trách nhiệm, nói gì thì nói mấy thứ này không thể quên được. Hàng tá
người đã rớt đài trong tù, chỉ trong một tích tắc mềm lòng.
Bạn
muốn viết thư về nhà ư, bạn đang bị kỷ luật cấm hết thư từ, vậy bạn phải nghe
lời dụ khị của thằng nhóc cán bộ quản giáo hay an ninh. Cứ báo cáo những gì bạn
thấy được, biết được chung quanh, nhất là anh A anh C, thái độ thành thật của
bạn sẽ được đền đáp. Cán bộ Y hay X đi phép lần này, thư của bạn sẽ được trao
tận tay gia đình. Thề có chân dung Hồ chủ tịch cán bộ đây sẽ không nói dối.
Vậy
bạn có tin không? Có muốn vợ gởi cho ít thuốc kiết lỵ hay tiêu chảy trong vòng
1 tuần là có không? Cứ thành thật khai báo.
Đang
bị cùm mà cán bộ an ninh xuống tận phòng giam, khuyên bạn khai hết những tên
đồng lõa, cán bộ sẽ lập tức tháo cùm cho bạn về đội, sẽ không ghi vào hồ sơ tù
của bạn, ban khai không?
Đội 15 đi theo hàng hai bò lên đồi
giữa trưa gió Lào bốc khói. Lưu Kim Long, tên đội trưởng có gốc bất định khi
thì Cảnh Sát lúc là TQLC, đang thỏ thẻ gì đó với tên cán bộ quản giáo phía cuối
hàng. Đồi dốc dựng này chúng tôi phải ngày 4 lượt đi và về, cái đồi chó chết
toàn đá sỏi, đội 15 là đội nông nghiệp, chúng tôi trồng nơi đây, từ chân lên
đỉnh là khoai mì H34 giống của Ấn Độ. Cái thứ khoai chi mà lạ, trên đất đá khô
cằn như vậy mà nó cho củ có khi nặng đến 3, 4 kg, mỗi bụi khoai phải còng lưng
mà nhổ lên khi thu hoạch.
Hôm nay đội 15 bắt đầu đào hộc trồng
khoai, mỗi hố cách nhau 1m và sâu đến 40 cm, sau đó lấy lá rừng hay cây cỏ vớ
vẩn bỏ vào lấp một lớp đất mỏng đợi khi bắt đầu mưa thì bỏ hom xuống. Hom là
những cây khoai sau khi thu hoạch dựng đứng hàng đống, lấy cây cỏ phủ lên chống
nắng, chặt ra từng khúc 20cm, bỏ xuống cái hố tào lao đó, rồi cứ để cho trời
sinh trời diệt. Vậy mà nó sống nhăn răng. Nó là lương thực chính ở cái trại
chết tiệt A20 này.
Đoàn
xe pha đèn, quét một vùng sáng, xoá tan cái yên tỉnh của Rừng Lá. Ra quốc lộ,
quẹo phải về hướng miền Trung, đã có những tiếng xì xào vang lên trong chiếc xe
bít bùng.
- Ra Bắc?
- Ra Trung, trại Củng Sơn?
Những
người tù bắt đầu tiên đoán vận mệnh sắp tới cho mình. Tôi qua rồi chí ít hai
lần dời đổi vậy mà cũng có chút hoang mang.
Quả
thật tôi chẳng thể đoán mình sẽ bị đày về đâu, nhưng căn cứ vào một ngày ăn đi
đường mà tất cả được lãnh trước khi lên xe, thì cũng có thể biết rằng chuyến đi
không quá một ngày, cùng lắm là đêm nay sẽ tới cái nơi phải đến. Dù biết rằng
có suy nghĩ đến điều này cũng vô ích, nhưng rồi cũng phải nghĩ tới. Dựa vào
thành xe cho đỡ mỏi, nhìn những người bạn đồng cảnh như những con cá hộp trong
chuyến xe đêm, thấy thương cho thân tù tội.
Xe chuyển bánh, tấm bạt
phía sau xe đã hạ xuống, chúng tôi chẳng khác gì những người bị bịt mắt được dẫn
đi. Ở trong xe, mọi người vẫn nhìn thấy mặt nhau, nhưng hoàn toàn không quan
sát gì được ở bên ngoài. Trên xe có một tên công an trang bị vũ khí đạn dược ngồi
cạnh tài xế. Chúng tôi ngồi xếp lớp chật ních, không khí trở nên ngột ngạt.
Trong xe có một cái sô để cho chúng tôi tiểu tiện. Ai muốn đi tiểu trong lúc xe
chạy, chỉ cần đứng dậy mượn cái sô chuyền nhau. Người còng chung dù không bị
mót tiểu cũng phải đứng lên khi người kia muốn. Có nghĩa là một người buồn đái
hai người phải đi. Tôi còng chung với một anh mà tôi chua hề biết mặt biết tên,
nhưng anh ta chắc chắn đã biết tôi.
- Tôi với anh không biết
có duyên nợ gì với nhau, mà lại cùng nhau xỏ chung một cái còng như vậy ? Tôi
nhìn anh bạn và nói.
- Tôi hân hạnh được
còng chung với trung tá, anh bạn trả lời.
Mùa
hè, những đụn cát bỗng nhiên nóng hơn, dưới cái nắng tháng tư theo những cơn
gió thỉnh thoảng thổi qua khe lá. Đất Bình Thuận quả không thương người, không
thương những đứa con da vàng đang giẫy chết trong Rừng Lá. Mưa không về, con
Suối Lạnh tang thương phơi những lớp đá cuội dưới đáy, từng tảng rong rêu màu
đỏ gạch nổi lều bều trên mặt nước. Con suối chạy ngang qua một thung lũng hẹp
dẫn vào trại giam, nơi mà hàng ngàn tù nhân đang chết dở vì thiếu nước.
Buổi
chiều, dưới cái nóng như lò lửa sau một ngày chật vật dưới đám lồ ô. Cắt, cưa,
đục đẽo, để dựng lên một căn nhà mới nằm bên lộ chính dẫn vào trại.
Khu
A của trại giam Z30D, thuộc địa bàn Bình Thuận, Hàm Tân. Căn nhà có cái tên rất
tội nghiệp “Nhà hạnh phúc”, đó là nơi thân nhân của những người tù ở khu A làm
nơi thăm nuôi, gặp mặt.
Tháng 6 năm
1975. Tôi một mình vác ba lô lên núi Bà Đen. Nhà tôi chỉ cách 5 cây số là tới
chân núi. Trong thời giao chiến, tất cả những con đường dẫn vào đây toàn mìn
bẫy. Ít có ai đơn độc qua những đoạn đường chết chóc rình rập thế này.
Từ đầu tháng
6 năm 1975, người ta đã tháo dỡ mìn và có nhiều đoàn đông người tái tạo lại
những chuyến hành hương lên núi Bà Đen. Tôi có mặt trong đám đông này nhưng mục
đích của tôi thì khác hẳn. Tôi sẽ qua khỏi chùa Hang, tới núi Phụng, tìm những
khu giáp giới với Campuchia như Kà Tum, Khe Dol, thậm chí có thể quan sát đường
rừng đi về núi Cậu.
Với tấm bản
đồ thu nhỏ của vùng này mà tôi có được từ đống bản đồ hành quân của ba tôi ngày
trước. Cắt nó ra theo đúng đường XY của khu vực. Tôi hiên ngang đi hành quân
một mình.
Tháng 5 năm 1975, ngay sau ngày giải
phóng, tôi bị đưa đi học tập cải tạo. Năm đầu tiên tôi bị giam ở Khám
Chí Hòa, gia đình không được phép thăm nuôi. Thời gian đầu tôi hy vọng
chỉ phải bị cải tạo ba tháng vì nghĩ rằng mình không làm chính
trị, nhưng sau ba năm vẫn chưa được về tôi đoán rằng có lẽ phải kéo
dài đến mười năm. Quả nhiên phải hơn mười ba năm tôi mới được trở về.
Tôi có một thời tuổi
trẻ chẳng hay ho gì lắm, nếu không nói là phải cực lực chê trách nhiều mặt thì
đúng hơn. Cái tuổi trẻ trong thời nhiễu nhương, mỗi bước chân đi là đạp trên
tang tóc của chiến tranh, tan vỡ trong ý niệm con người, một con người sống
đúng với châm ngôn đạo đức và trách nhiệm.
Đất nước chiến
tranh, những bậc đàn anh ra đi và nằm xuống nhan nhản ngày một. Trong cái nhìn
của chúng tôi thời đó, cái chết treo trên đầu như sợi dây thòng lọng, nó sẽ thắt
lại.
Vào một ngày nào đó
khi rời bỏ trường học, vĩnh biệt tuổi thơ, ưỡn ngực về thăm nhà trong bộ đồ
lính. Nằm xuống, có thể chỉ còn một cái xác mang về cho cha mẹ, cũng có khi mất
hẳn không dấu vết trên một chiến trường đang ném binh như vãi đậu ngoài kia,
hay mất một chân, một tay, lăn xe về trong thân phận người phế binh của một trận
chiến nghe hoài đến nhức nhối. Cuộc chiến chống cộng mỏi mòn.
Ngày 17 tháng 10 năm
1977. Tôi bị bắt ở quận 4, với những tang chứng không chối cãi - Tổ chức chống
chính quyền cộng sản. Nằm ở công an quận 7 ngày, tôi bị đưa lên trại giam T 20,
chính là thành Gia Định được xây dựng từ thời Pháp.
Khi được mở băng bịt
mắt trên suốt chặng đường từ lúc bước ra khỏi phòng tạm giam ở quận 4. Cái
không gian mà tôi thấy được làm tôi muốn ngạt thở. Tiếng cánh cửa sắt đóng sầm
thô bạo, tiếng khoá bên ngoài vang lên chói tai, căn biệt giam tối mờ mờ, một
ngọn đèn bóng tròn trên tận nóc cao, rọi xuống xuyên qua lớp lưới chống B40,
mùi ẩm mốc bốc lên trong khoảng không gian chật hẹp, bít bùng như một trấn áp đầu
tiên khiến tù nhân phải sợ. Chắc khoảng gần một phút sau tôi mới trấn tỉnh và
quan sát thật kỹ chung quanh.
Tôi vội lấy cái túi đeo lưng (backpack)
về phía mình trả ghế trống cho người vừa hỏi. Cô gái… thiếu phụ thì đúng hơn,
tuổi khoảng chừng ngoài 30. Nàng ngồi xuống cạnh tôi, hương thơm của mùi nước
hoa thoảng nhẹ trong không khí ban mai thật dễ chịu. Đã lâu, hình như lâu lắm
mùi nước hoa quen thuộc nầy… nhất thời tôi chưa nhớ ra là tôi được thưởng thức
hương thơm nầy từ… đâu.
Tôi kín đáo nhìn ngang để
xem người vừa ngồi có quen biết gì không. Ngoại hình và mái tóc có nét gì đó
quen thuộc nhưng gương mặt thì không thể nào nhìn được vì nàng mang một cặp
kính mát lớn che cả nửa phần trên của gương mặt nhưng… hình như cũng có một nét
gì đó quen quen.
VIDEO KHÔNG PHẢI VINH DANH TÔI MÀ VINH DANH TOÀN THỂ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN/ NGHĨA QUÂN:
"Đứa con không được chăm sóc của QLVNCH"
A20 Lê Phi Ô
ĐỊA PHƯƠNG QUÂN / NGHĨA QUÂN QLVNCH
Thực Hiện: LS. Bích Hà
*
Tôi được biết Luật Sư Phạm Bích Hà là con gái của Thiếu Tướng Phạm Văn Đỗng, Bộ Cựu Chiến Binh VNCH đồng thời là con nuôi của Đại Tá Ngô Văn Định (Đồ Sơn) Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC/VN.
Hôm nay là ngày
lễ Giáng-sinh, anh em chúng ta rải rác khắp nơi trên thế giới cùng chào mừng
ngày lễ tôn-giáo này. Có lẽ trong chúng ta cũng có người không theo đạo Thiên
chúa, nhưng sự phổ thông của ngày lễ nầy không khỏi hằn sâu vào tâm trí
ta cái giá trị tâm linh mà tôn giáo nầy trao tặng.
Hiện nay anh em chúng
ta là những người chỉ có quê hương thứ hai, còn quê hương thứ nhất, quê hương
vàng son nhất của một thời tuổi mộng không biết bao giờ có lại được, mặc dầu ai
trong chúng ta, bằng cách nầy hay cách khác, dưới cách đấu tranh nầy hay đấu
tranh khác, tích cực trong việc cứu lấy quê hương để được trở về .
Xin nguyện cầu, xin
nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau
tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ
tóc rối.
Xin quét hết lũ người
sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười cho mọi người được sống
bình yên.
**Bài Tù Ca GIÁNG SINH TRONG NGỤC TÙ (Lời Nguyện Trong Tù)
Sáng tác Bảo Châu (Duy Trác)
Do ca nhạc sĩ DUY TRÁC sáng tác năm 1982 (nhưng để tên tác giả Bảo Châu, con của Duy Trác), truyền khẩu cho anh em tù nhân cải tạo và được VŨ TRỌNG KHẢi hát trong trại tù A20 vào ngày mồng 1 tết năm Nhâm Tuất (1982) ở phân trại E, A 20.
... Khi tôi đưa mắt qua hướng Vũ Trọng Khải thì Vũ Mạnh Dũng
bắt đầu dạo đàn; khúc nhạc dạo đầu của Dũng vừa về chủ âm thì Khải đã cất tiếng
hát, rất ăn nhịp:
“Có con chim nhỏ trên
hàng rào kẽm gai.
Đứng im than thở; cuộc
đời còn có ai?
Này chim có biết nơi
đây sống kiếp đọa đày,
sống không ngày mai,
như kiếp cỏ cây.
Có ngôi sao nhỏ trên bầu
trời giá đêm.
Suốt đêm không ngủ
thương ngục tù tối đen.
Nhờ sao đem đến tin
vui tới khắp mọi người.
Chúa đã giáng sinh cứu
rỗi trần ai”.
Giọng của ông cựu quan 3 cảnh sát khỏe, ấm, phát âm rõ ràng,
đưa từng lời tâm sự của Khuất Duy Trác đến với anh em tù. Sáng mồng 1 tết ở
Xuân Phước trời vẫn còn lạnh; một vài anh em đến dự khoác thêm áo ấm. Không khí
có vẻ cũng Noel lắm nên phần đầu bài hát của anh Trác được đón nhận một cách tự
nhiên. Rồi Vũ Trọng Khải vào điệp khúc ở cung Trưởng :
“Xin Chúa hãy vỗ về,
ru no tròn giấc ngủ trẻ thơ.
Xin một giấc mơ lành
cho mẹ già từ lâu mong nhớ.
Xin nguyện cầu cho vợ
hiền lẻ bóng nơi xa.
Xin nguyện cầu, xin
nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau
tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ
tóc rối.
Xin quét hết lũ người
sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười
cho mọi người được sống bình yên”.
Tôi thấy có những đôi mắt rưng rưng lệ. Ai chẳng có mẹ già,
vợ hiền, con thơ.
Rất nhiều người hòa chung tiếng hát “A….men” như kết thúc một
bài hợp ca lớn. Tôi nghĩ tiếng vỗ tay sẽ vang dậy nếu không có cái quy định kỳ
quái của Ngọc Đen và Vũ Mạnh Dũng. Khán giả của chúng tôi đành phải lặng yên
nhìn Vũ Trọng Khải một cách ngưỡng mộ và thán phục.