Chương Mười Tám
Tôi được thả ra khỏi trại cải tạo Long
Khánh ngày 13 tháng 2 năm 1988 tức là 26 tháng chạp năm Đinh Mão. Lần thả tù
này được quảng cáo rầm rộ để chứng tỏ với dư luận trong và ngoài nước chính sách
cởi mở của Nguyễn Văn Linh. Chúng tôi được xe đưa đến tận Ty Công An Quận Hai để
nghe Phó Giám đốc Công An Thành Phố nói chuyện. Ngoài nội dung tuyên truyền về
chính sách cởi mở, y lưu ý chúng tôi hai điểm, thứ nhất là đừng quá ngạc nhiên
về sự thay đổi của xã hội và ngay cả gia đình chúng tôi, thứ hai đừng lo lắng về
cán bộ công an phường quận, cán bộ những đoàn thể nhân dân sẽ thường xuyên thăm
viếng chúng tôi tại nhà. Chúng tôi sẽ không bị quản chế và được nhập hộ khẩu tại
thành phố ngay sau dịp nghỉ Tết. Không bị quản chế và được nhập hộ khẩu là những
thay đổi rất quan trọng đối với người tù cải tạo được về. Trước đây một người
tù về địa phương phải chịu chế độ quản thúc rất chặt chẽ, mỗi người phải giữ một
quyển sổ ghi công việc hàng ngày và sự quan hệ tiếp xúc với người khác trong
ngày, cuối mỗi tuần phải đưa lên công an phường để đóng dấu chứng nhận. Muốn đi
khỏi địa phương phải xin phép, và chỉ được cho đi trong thời gian vài ba ngày.
Người bị quản chế thường bị huy động đi làm những công việc lao động nặng nhọc
và bị nhục nhiều hay ít tùy tính tình của những tên công an phường, xã, luôn
luôn muốn chứng tỏ quyền uy trên người chiến bại. Có được hộ khẩu tại Sài Gòn
không phải là điều dễ; trước đây người tù cải tạo về bị bắt buộc phải đi kinh tế
mới, nếu nấn ná sống ở Sài Gòn là tạm trú và tùy vào khả năng xoay xở đút lót của
gia đình cho trưởng công an phường xã và công an khu vực.
Ra khỏi cổng Ty Công An Quận Hai không có
người nhà trong đám đông đi đón thân nhân, tôi gọi một chiếc xích lô để về nhà ở
đường Trương Minh Ký, Gia Định. Chợ Bến Thành nhộn nhịp người đi lại nhưng hàng
quán lèo tèo, không có dãy hàng bán quảng cáo đồ Tết nên kém màu sắc và mất
vui. Người đi bộ, đi xe đạp, một ít đi xe honda và thỉnh thoảng mới có một chiếc
xe hơi của nhân viên nhà nước hay các cơ sở kinh doanh thương nghiệp hợp doanh;
tư nhân chưa được phép sử dụng xe hơi.
Người phu xe nói Sài Gòn mới có sinh khí trở
lại trong khoảng hơn một năm kể từ đầu năm 1987, tư nhân được mở cửa hàng buôn
bán lẻ, hàng ngoại quốc gởi về theo những thùng quà gia đình được bày bán công
khai, trước kia chỉ bán chui ở chợ trời. Nếu có tiền có thể mua được nhiều loại
hàng tiêu dùng của khắp các nước trên thế giới, nhưng rất ít người làm ra tiền,
trừ những người có thân nhân ở ngoại quốc gởi cho đều đặn thì có thể có mức sống
sung túc hoặc là sung sướng, hoặc dân buôn bán chợ trời mánh mung và cán bộ
chính quyền có lợi tức bất hợp pháp. Hầu hết người dân đều đói khổ, tiền làm
không có, giá hàng hóa lương thực khá cao. Ở thành phố, nghề đạp xích lô được
xem là có lợi tức khá nhất, nhưng một chiếc xích lô thường là do hai người thay
phiên nhau đi; những người cải tạo về sớm, bác sĩ, dược sĩ, trí thức đều đạp
xích lô, nhưng sau công đoàn thành phố thấy nghề xích lô nhiều lợi tức nên
không cấp giấy phép cho những người đi cải tạo về sau, vả lại số lượng xích lô
có giới hạn, nên dù không bị ngăn cấm thì cũng không thể tìm được người phu xe
có xe rảnh cho mình đạp ở thì giờ họ nghỉ ngơi. Tù cải tạo về chuyển qua nghề
xe ôm, gia đình nào còn giữ được chiếc honda có thể kiếm sống qua ngày, nếu phải
dùng xe đạp để chở người thì quá vất vả và ít khách.
Xe chạy qua đường Đoàn Thị Điểm, trên lề đường
gần trường nữ trung học Gia Long mặt lề rộng nên người nằm ngủ la liệt, có rất
nhiều đàn bà và trẻ con nằm ngủ, có người mặc cả áo dài nằm ngủ, đầu gối trên một
bao nhỏ và che nắng bằng nón lá. Đó là dân đi vùng kinh tế mới trở về, không
nhà cửa, sống lang thang gầm cầu xó chợ, công viên lề đường. Tình trạng này kéo
dài từ năm 1976 đến nay trở thành vấn đề nan giải. Lúc đầu công an hành quân bắt
nhốt, đưa trở về vùng kinh tế mới hoặc đưa đi cải tạo, nhưng những biện pháp đó
chỉ có hiệu quả với đàn ông, đàn bà và trẻ con thì họ vẫn kéo dài từ năm này
qua năm khác, cuối cùng rồi công an cũng mệt mỏi làm ngơ. Những người này kiếm
ăn bằng đủ thứ nghề, con nít thì bới đống rác tìm phế liệu phế phẩm để bán, hoặc
móc túi, cướp giật. Phụ nữ còn trẻ thì lén lút hành nghề mãi dâm, họ rước khách
và giải quyết tại bất cứ nơi nào, nhiều khi không cần phòng, nơi góc đường tối,
cầu tiêu công cộng, các công viên, nhất là vườn Tao Đàn, công viên Chiến Thắng
trước Tổng Tham Mưu cũ, công viên Hòa Bình tại ga xe lửa giữa đường Lê Lai và
Phạm Ngũ Lão. Những em bé gái còn quá nhỏ chưa bán được thân, phải làm “đào
xào”, tức là chỉ để cho đàn ông sờ mó thân thể lấy tiền nuôi thân và nuôi gia
đình.
Những người phu xích lô ở thành phố thường
là những người rất rành về mặt trái của sinh hoạt xã hội, anh tiếp tục kể cho
tôi nghe về tình trạng mãi dâm phổ biến quá nhiều ở thành phố, hơn hẳn thời kỳ
trước 1975, tình trạng thê thảm đến nỗi có em làm nghề từ lúc mười ba, mười bốn
tuổi và có những trường hợp oái oăm khi chính người chồng thất nghiệp phải đi
rước mối và canh cửa cho vợ tiếp khách. Tôi nghe người phu xích lô nói mà nổi
da gà; tôi không thể tưởng tượng xã hội suy sụp đến như vậy. Trước năm 1975, Việt
Nam đang chiến tranh, với hơn một triệu lính và hơn nửa triệu quân đội đồng
minh xa gia đình, tình trạng mãi dâm đã quá trầm trọng, và chính cộng sản đã
xem tệ nạn này là một lợi khí tuyên truyền nhưng cũng chưa có những trường hợp
bi đát như anh phu xe đã kể. Sau hơn mười năm nắm chính quyền, cộng sản có còn
đổ cho tệ nạn mãi dâm là “tàn dư của chế độ Mỹ-ngụy” hay không? Và chắc chắn đó
không phải là sự thay đổi xã hội mà tên phó giám đốc Công An Thành Phố muốn nói
với chúng tôi. Tôi hiểu điều hắn muốn nói với chúng tôi là sự đổ vỡ của gia
đình một số người tù, một điều không thể tránh khỏi khi thời gian tù đày quá
lâu, hoàn cảnh xã hội thay đổi đột ngột, khó khăn kinh tế dồn dập và sự cố tình
của đảng cộng sản muốn đẩy mạnh sự phá vỡ gia đình của tù nhân trong chính sách
trả thù và làm thay đổi tận gốc xã hội miền Nam.
Ở nhà được hai hôm, bạn bè cũ đến thăm, Trần
Quí Hùng và Trịnh Thiều cho biết Kiều Trinh từ Hoa Kỳ về muốn mời tất cả bạn bè
còn ở Sài Gòn dự bữa tiệc họp mặt tối 28 tháng Chạp tại nhà hàng Nguyễn Tri
Phương. Hầu hết bạn bè trong những khóa học gần với Kiều Trinh còn ở Sài Gòn đến
tham dự, khoảng gần 50 người. Kiều Trinh du học từ 1972 và tốt nghiệp bằng tiến
sĩ kinh tế năm 1975, từ Mỹ về Sài Gòn đãi tiệc họp mặt bạn bè công khai cũng là
một điều lạ, nhiều anh em tò mò đi tham dự vì có nhiều người tôi biết không
thân Kiều Trinh lắm, vả lại trong hoàn cảnh chính trị tại Việt Nam, dù có chính
sách cởi mở cũng là một điều đáng ngại.
Đối với tôi, đây là một cuộc vui, có dịp để
cùng một lúc gặp gỡ nốt số đông bạn bè sau nhiều năm xa cách và để hiểu biết cuộc
sống của họ trong xã hội mới ra sao. Hầu hết đều đã qua nhiều lần vượt biên
tiêu tan hết tài sản, làm đủ mọi nghề để sống, tương đối khá nhất là nghề bán
thuốc tây ở chợ trời.
Biết anh em thắc mắc về mục đích buổi họp mặt,
Kiều Trinh luôn miệng nhắc nhở bạn bè đây chỉ là một cuộc họp gặp gỡ riêng tư,
trên tình bạn mà thôi; sau khi gặp chúng tôi Trinh sẽ về Huế thăm nhà và đi du
lịch Hà Nội cho biết.
Tôi hỏi thăm tin tức về các bạn bè đang sống
ở Mỹ, Trinh trả lời tôi rằng anh ít giao thiệp bạn bè cũ vì bị họ tẩy chay, họ
nghĩ Trinh theo Việt Cộng. Thấy bạn dấu đầu hở đuôi tôi hỏi tiếp:
- Bạn ở nước ngoài, là người học thức, chắc
là theo dõi và hiểu nhiều về những vấn đề thời cuộc, chính quyền cộng sản đang
công bố chính sách đổi mới, vậy tôi có cần vượt biên không?
Trinh hỏi lại tôi:
- Bạn ở tù lâu quá nên cay cú chăng?
Không giận vì câu hỏi quá ấu trĩ của một
người bạn có học thức và bằng cấp cao, tôi thấy cần phải cho bạn hiểu rõ hơn
nên kiên nhẫn nói tiếp:
- Bạn hỏi câu đó là
bạn khinh tôi quá, kẻ chiến bại bị kẻ chiến thắng cầm tù mà cay cú là không
công bằng. Những người tù chúng tôi không tiếc vì bị ở tù nếu thực sự chế độ cộng
sản cần thiết cho một giai đoạn lịch sử dân tộc, và có thể phát triển được đất
nước. Đằng này ngược lại, trong hơn mười ba năm qua, toàn thể xã hội đi xuống
và đa số người dân đều biết rõ điều đó.
Trinh nói:
- Sau mười mấy năm cải tạo bạn vẫn còn bướng
như thời sinh viên.
Tôi chọc bạn:
- Cám ơn bạn đã khen tôi, một tên cán bộ
trong trại tù cũng đã nói với tôi như thế. Bạn đậu tiến sĩ mà cũng chỉ nhận xét
được như một tên cán bộ quản giáo thôi thì ít quá. Tôi hỏi bạn rằng tôi có cần
vượt biên không?
Trinh đáp:
- Tôi nghĩ thời gian ngắn nữa Nguyễn Văn
Thiệu hay Hoàng Đức Nhã cũng có thể về Việt Nam an toàn.
- Bạn cũng chưa đi đúng câu hỏi, cuộc đời
thay đổi, con người cũng thay đổi, có thể Nguyễn Văn Thiệu hay Hoàng Đức Nhã về
an toàn mà một người khác không an toàn hay là tôi không có thể ở được thì tính
sao? Hơn mười năm rồi mà chúng ta còn chưa đổi được một lối suy nghĩ theo đúng
tình thế mới. Bạn ở Mỹ mà vẫn suy nghĩ theo kiểu “Sài Gòn nối dài”.
Trinh nói:
- Tôi không hiểu ý bạn.
- Rất dễ hiểu, có thể trong điều kiện nào
đó, chính phủ cộng sản thấy Nguyễn Văn Thiệu và Hoàng Đức Nhã về nước hay cộng
tác có lợi thì họ vẫn cho về và có thể mời về. Trước khi chiếm miền Nam, cộng sản
xem Nguyễn Văn Thiệu là kẻ thù chính nên tuyên truyền triệt hạ Thiệu và tìm sự ủng
hộ của người dân miền Nam bất mãn chế độ Cộng Hòa. Ngày nay, đối tượng cần áp
chế để củng cố quyền lực cộng sản là người dân, người dân là kẻ thù chính của họ,
dân chúng đã nhìn rõ mặt thật và muốn thay đổi chế độ. Nguyễn Văn Thiệu hay bất
cứ chính trị gia cũ ở miền Nam không được dân chúng ủng hộ cũng có thể trở
thành đồng minh giai đoạn của chính quyền cộng sản. Do đó, Nguyễn Văn Thiệu,
Hoàng Đức Nhã, Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ v.v... là những người cộng sản có thể
mời về, để chứng minh họ được người quốc gia hợp tác. Thiệu, Kỳ, Khánh, Nhã
v.v... không phải thực sự là người quốc gia, những người này chỉ lo cho bản
thân của họ. Cộng sản là một tổ chức chỉ úy kỵ những người có uy tín trong dân,
có khả năng tập hợp dân chúng thành tổ chức để xây dựng đất nước. Các cá nhân
có nhiều tham vọng mà ít uy tín, nếu cần, cộng sản sẽ xem như là đồng minh. Vấn
đề chính ở Việt Nam và lịch sử Việt Nam không thể được suy nghĩ đơn giản trên một
vài cá nhân. Chúng ta nên bỏ tất cả mọi thiên kiến, quyền lợi, ước muốn riêng
tư, thật sự khách quan để suy nghĩ về những vấn đề trọng đại của đất nước. Thời
điểm lịch sử đã đến và những người có thể làm được việc đó là những người có
may mắn là đi học nhiều, có điều kiện thuận lợi như bạn. Chắc các bạn ở đây
cũng như tôi đều biết bạn là ai, nhưng không ai nói, chỉ có tôi mới ở trong nhà
tù ra nóng hổi chưa mất hơi tù nên mới nói - có thể làm phật ý bạn - xin lỗi, bỏ
qua chuyện nhức đầu đi.
Tôi không nghĩ Kiều Trinh nhận một công tác
tuyên truyền của cộng sản, với chúng tôi là những bạn cũ, nhưng chắc chắn để có
thể mời chúng tôi, những nhân viên của chế độ cũ đi cải tạo về, đến dự một bữa
cơm công khai tại một nhà hàng ở Sài Gòn, Kiều Trinh cũng đã được phép của Sở
Công An Thành Phố.
Tết đầu tiên ở ngoài xã hội đối với tôi
không vui vẻ gì, chỉ còn hai vợ chồng trơ trọi, hai con tôi đều đã đi xa, tôi
lo lắng vì Đoan Trang còn quá nhỏ dại ở trong trại tỵ nạn tại Thái Lan. Tôi
chưa về Đà Nẵng thăm gia đình để lạy mộ bà nội và mẹ tôi. Tôi là đứa cháu, đứa
con bất hiếu. Bà nội và mẹ tôi đã lo lắng dành rất nhiều yêu thương cho tôi mà
tôi chưa hề đáp được mảy may. Tôi phải ở lại Sài Gòn để chờ làm xong các thủ tục
nhập hộ khẩu mới đi được. Đêm giao thừa Mậu Thìn, Sài Gòn đốt pháo thật nhiều.
Dân Việt Nam dù nghèo đói đến đâu, dù phải thiếu nợ nhưng họ vẫn tổ chức đón Tết
long trọng, nhà nào cũng đốt pháo. Mùa xuân là một mùa hy vọng sẽ đổi mới cho mỗi
người, cho mỗi gia đình và hy vọng đổi mới cho xã hội. Xác pháo hồng trộn lẫn với
cánh hoa mai vàng rơi rụng thành màu sắc rực rỡ trên nền đất. Tôi hy vọng rất
nhiều vào tương lai, luôn luôn tôi có niềm tin là đất nước Việt Nam sẽ có ngày
hưng thịnh trở lại, và toàn dân Việt Nam sẽ đứng lên làm một cuộc vận động lịch
sử mới cho dân tộc, tất cả hầu như đã sẵn sàng chỉ còn chờ một hiệu lệnh phát
khởi. Tôi tin vào sự trưởng thành của dân chúng và trong vận hội mới đó sẽ lọc
lựa được những người đủ tài trí, thực tâm đối với con người, xã hội và đất nước
thành người lãnh đạo tương lai và sẽ tự động đào thải những thành phần cơ hội,
hoạt đầu tham vọng cá nhân. Hoàn cảnh chính trị Việt Nam không có ngay được những
người lãnh đạo có uy tín nên phải xây dựng lãnh đạo từ hành động và chỉ có người
dân mới làm được một cuộc lựa chọn đó. Chỉ có lòng chân thành, còn mọi thủ đoạn,
mánh lới, xảo trá vặt vãnh, bịp bợm đều đã lỗi thời - những cái đó chỉ có Hồ
Chí Minh là sử dụng thành công và đã chết theo ông ta rồi. Những ai còn bắt chước
theo Hồ Chí Minh sẽ trở nên những tên hề lố bịch trước sự phán xét sáng suốt của
người dân. Trong tương lai, chính người dân quyết định người lãnh đạo và tương
lai đất nước qua sự phổ thông đầu phiếu.
Ngày mùng 5 Tết, theo đúng lịch trình, đến
phòng chính trị Sở Công An Thành Phố, chúng tôi được cấp giấy chứng nhận nhập hộ
khẩu. Thủ tục dễ dàng theo đúng lời hứa của Phó Giám Đốc Công An Thành Phố. Đem
giấy chứng nhận về nộp tại phường để ghi vào hộ khẩu. Phường 11 quận Tân Bình nằm
ngay trước gia đình tôi thuê ở trên đường Trương Minh Ký Gia Định nay đổi tên
là Lê Văn Sỹ. Văn phòng phường trang trí sạch sẽ, nhân viên làm việc ăn mặc gọn
gàng sang trọng áo trắng muốt, bỏ vào trong quần tây loại vải ngoại quốc đắt tiền,
so với thời kỳ năm 1975, 1976 thay đổi nhiều lắm. Lúc đó cán bộ cộng sản hành
chánh, công an hay quân đội đều ăn mặc luộm thuộm, quần tây vải ka-ki Nam Định,
áo đủ loại hàng vải, lúc nào cũng nhàu nát như mới nằm ngủ dậy; các văn phòng
thì lẫn lộn giữa công và tư, áo quần phơi đầy ngay trên lan can hay cầu thang.
Người cán bộ trung niên đeo kính trắng trễ
xuống mũi, đọc xong hồ sơ của tôi, ngước nhìn thẳng mặt tôi hỏi:
- Anh không biết hút thuốc à?
Tôi tròn mắt ngạc nhiên vì câu hỏi không
dính líu đến công việc tôi xin trong đơn. Thấy tôi ngạc nhiên hắn nhìn tôi
chòng chọc, tay phải cầm bút chì gõ nhịp trên bàn, lập lại câu hỏi:
- Tôi hỏi anh có biết hút thuốc không?
Tôi như chợt tỉnh, nhớ bao thuốc đen hiệu
Đà Lạt hút giở trong túi áo, vừa rút bao thuốc ra vừa trả lời:
- Báo cáo tôi có hút thuốc.
Tôi chìa bao thuốc ra:
- Mời cán bộ hút thuốc.
Hắn đưa tay rút ra một điếu thuốc, xong đưa
điếu thuốc lên ngang tầm mắt, làm điệu bộ ngắm nghía, gục gặc cái đầu và hỏi
tôi:
- Anh mời tôi hút thuốc này, tôi hút đầu
nào?
Các tên cán bộ ở trong phòng cười rộ lên,
tôi càng ngơ ngác không hiểu họ muốn gì cả.
Hắn nhìn tôi rồi xoay qua hỏi tên cán bộ trẻ
tuổi ngồi bên cạnh:
- Ê, Năm, thuốc này mồi ở đầu nào?
Cán bộ tên Năm nói:
- Thuốc này em cũng không biết mồi đầu nào.
Trong phòng lại cười rộ lên. Tôi thực tình
không hiểu gì hết, ngoài việc cảm thấy bọn họ đang chế giễu tôi, tôi thấy nóng ở
mặt nhưng cố nuốt cái nghèn nghẹn nơi cổ, đứng lặng thinh.
Tên cán bộ ném điếu thuốc vào sọt rác xong
nói với tôi:
- Ngày mai anh trở lại.
Tôi bước ra, ngay lúc đó một người đàn bà
vào trình giấy. Tự nhiên tôi đứng lại nhìn bà ta để xem họ đối xử thế nào. Người
đàn bà trình giấy xong ngồi xuống ghế mở bóp lấy ra hai bao thuốc lá hiệu ba số
555, đưa một bao mời tên cán bộ nhận đơn, hắn không ngước nhìn lên, đưa tay kéo
bao thuốc vào trong hộc bàn. Người đàn bà tiếp tục mở bao thuốc thứ hai mời hắn
một điếu, xong đưa mời mỗi tên cán bộ trong phòng mỗi người một điếu.
Tôi chợt hiểu, đó là thủ tục đi trình xin
giấy tờ. Về đến nhà tôi kể lại chuyện đi xin giấy và mời thuốc để xác nhận lại
sự nhận xét của tôi. Vợ tôi nói đã lâu không có việc gì phải xin giấy nên quên
dặn tôi trước. Theo thủ tục hiện tại muốn xin bất cứ loại giấy tờ gì phải mang
theo hai bao thuốc, phải là loại thuốc nhập cảng đầu lọc mới đúng như người đàn
bà đã làm tại phường. Nếu việc không quan trọng như vậy là đủ, việc quan trọng
người nhận đơn sẽ nói thẳng phí tổn phải đóng là bao nhiêu chỉ vàng hay bao
nhiêu cây vàng - mời thuốc gọi là thủ tục vì nhân viên cán bộ bây giờ đã giàu
có, họ không cần thuốc để hút như thời gian mới ngồi vào chính quyền; nhưng mời
thuốc để chứng tỏ người dân biết “kính trọng” quyền uy của họ. Thuốc mời phải
là thuốc ngoại quốc đầu lọc, thuốc đen họ chê, điều này đã trở thành nếp sống
văn hóa mới.
Mỗi ngày đúng 8 giờ sáng người công an khu
vực đến nhà gọi là để thăm tôi. Hôm mồng một Tết vợ tôi lì xì 10 ngàn - nhận tiền
xong hắn trở nên lễ phép - gọi tôi bằng anh xưng em. Ngoài đời có tiền thì cũng
sướng - mới ngày nào trong trại cải tạo những cán bộ trẻ đáng con em gọi tù là
mày xưng tao. Mỗi ngày hắn đến thăm tận nhà, tôi phải ngồi tiếp, chẳng có gì để
nói ngoài những lời thăm hỏi xã giao. Uống xong ly cà phê và hút xong hai điếu
thuốc (đầu lọc) - tôi mời đúng thủ tục xong, 9 giờ, hắn chào tôi qua thăm ông
Phạm Thái cũng mới ở Hà Nam Ninh về đến Sài Gòn hôm 15 tháng 2 tức sau tôi hai
ngày. Tên công an khu vực mỗi ngày đều làm đúng chương trình thăm viếng mỗi nhà
một giờ. Đến thứ sáu thì hắn thông báo ngày thứ bảy có nhân viên công an từ phường
đến, và 2 tuần một lần công an quận Tân Bình đến thăm. Việc tiếp người nhà nước
đến thăm trở thành một sự phiền phức. Vừa tốn hao, vừa phải ngồi nói và nghe
nói những lời giả dối với nhau. Đó là một hình thức kiểm soát mới thay cho quản
chế, nhưng dù sao cũng đỡ hơn chế độ quản chế.
Tôi ngỏ ý xin phép
về thăm gia đình ở Đà Nẵng được công an phường đồng ý cho phép tôi đi một tuần.
Tôi đã hiểu các thủ tục xin giấy, nên không có trở ngại khi xin giấy phép đi đường
ở phòng công an phường. Các đặc điểm của người trưởng công an phường là khi nhận
giấy và thuốc lá của tôi anh ta rất lạnh lùng, không vồn vã thân thiện như lúc
đến thăm tại nhà. Cuộc sống giả dối của xã hội khiến cho con người trong xã hội
đó diễn xuất rất tài tình và tự nhiên.
Trong khi chờ đợi ngày về Đà Nẵng, tôi được
tự do đạp xe đi thăm bạn bè và xem sự biến đổi của Sài Gòn. Đời sống thay đổi dễ
sợ, không riêng gì cách sống và khung cảnh sống thay đổi, mà tâm tính con người
cũng thay đổi. Hầu như mọi người đều trở nên quá thực tế, người ta chỉ nói đến
gạo cơm, tiền quà gởi từ ngoại quốc và than thở vì vật giá leo thang. Xã hội
hình thành những giá trị mới, những công nhân viên nhà nước ở vị trí làm được
nhiều tiền được trọng vọng. Những người buôn bán chợ trời chụp giựt trao đổi những
món quà từ ngoại quốc gởi về hay những món hàng xuất kho nhà nước bất hợp pháp
trở thành những người dân có ưu thế. Họ đi lại với công nhân viên dễ dàng, và họ
chiếm lãnh một khu vực chi tiêu từ nhà hàng ăn tư nhân mới được mở trở lại, đến
những sàn nhảy ở các Câu Lạc Bộ và các nhà nhảy đầm ở các quận mới được mở ra.
Sân khấu ca nhạc và phòng chiếu phim video mọc lên như nấm trong chương trình
ba lợi ích kinh tế. Những người có thân nhân ngoại quốc gởi tiền đều đặn là những
người sung sướng, nhiều người mơ ước vị trí của thành phần này, vừa có tiền chi
tiêu, không làm việc, chờ đợi được đi đoàn tụ với thân nhân, thoát cũi sổ lồng.
Mỗi đứa con đi vượt biên đến nơi chốn đánh giá phúc phần của gia đình, mỗi
thùng quà hay món tiền gởi về đánh giá lòng hiếu thảo của con cái hay sự thủy
chung của vợ chồng đã ra đi. Xe gắn máy hiệu Cub, hiệu Dream tiêu biểu cho sự
sang trọng của chủ nhân. Trong khi đại đa số dân chúng càng ngày càng nghèo khổ,
phải kiếm ăn bằng nhiều cách, thông thường nhất là bán quà vặt và thuốc lá lẻ,
có rất nhiều em gái nhỏ tuổi 14, 15 bỏ học đi bán thân nuôi gia đình thì thiểu
số người có ưu thế ăn chơi xa xỉ. Phong trào chống đối hình như lắng xuống, đa
số người dân phải lo sinh kế hoặc quay cuồng hưởng thụ trong lối sống mới. Phần
vì những người chống đối đã bị bắt quá nhiều mà không có được một hành động có
kết quả cụ thể để tạo niềm tin. Phần Việt Cộng đã thành công khi tạo ra những tổ
chức chống đối giả để bắt người có tư tưởng chống đối nên dân chúng đã nhìn các
phong trào chống đối ít thiện cảm và nghiêm túc, có nhiều người nghĩ về hành động
chống đối là một việc làm vừa như điên cuồng vừa không thực tế. Kỹ thuật tiêu
diệt sức đề kháng của người dân như thế, vừa trấn áp cho người dân sợ, vừa làm
cho người dân có tư tưởng phi chính trị.
Thật đáng
tiếc cho chế độ cộng sản đang mất lòng dân, mất niềm tin cả hàng ngũ đảng viên,
gặp khó khăn về kinh tế và ngoại giao chỉ còn chờ giờ sụp đổ, nhưng đối lực còn
quá yếu, chưa có ai làm phát khởi cuộc đấu tranh.
Tại Đà Nẵng,
bạn bè cũ đi cải tạo về sống thê thảm hơn ở Sài Gòn nhiều. Có người về đã 10
năm vẫn còn bị đối xử phân biệt, sống tận cùng đáy xã hội, một xã hội đói rách,
nghề được anh em làm nhiều nhất là nghề chở khách bằng xe đạp. Trời tháng Giêng
lạnh như cắt, nửa đêm còn đứng đợi khách ngoài vòng rào bến xe, mình khoác một
mảnh vải nhựa mong manh. Rước khách bằng xe đạp không được vào bến xe vì không
hợp pháp như phu xích lô. Những người đi xe đò thường xuyên chịu khó xách hành
lý ra ngoài hàng rào bến xe ngồi sau xe đạp thồ giá chưa bằng một nửa giá xe
xích lô. Nhìn bạn, nghĩ đến thân phận mình mới ở tù về chưa được một tháng, tôi
trào nước mắt. Nếu không có gia đình ba tôi giúp đỡ tôi sẽ ra sao, tôi không có
cả chiếc xe đạp đi rước khách trong đêm lạnh lẽo. Cái nhục của kẻ chiến bại kéo
dài suốt đời chăng? Những ngày ở trong tù chỉ mong được ra khỏi trại. Tưởng rằng
ra khỏi trại là trút xong mọi gian khổ, nhưng không, gian khổ nhục nhã còn dài
cả đời người chưa dứt, kéo theo đời của con cháu. Người chiến sĩ đã chiến đấu,
một sống hai chết đừng đầu hàng, đầu hàng khổ hơn là chết. Nhưng con người hèn
yếu, ngay lúc chết mà không chết được, đã đầu hàng rồi thì ít người còn đủ can
đảm để tự kết liễu đời mình - còn bao nhiêu ràng buộc tình cảm của người thân.
Tôi được
nhiều bà con đến mừng tôi được trở về thân thể còn toàn vẹn, tóc chưa bạc, răng
chưa rụng. Bà con nội ngoại nhiều người bên phía cộng sản. Người anh con dì Hai
tôi, anh Thật đã nói chuyện với tôi rất nhiều. Anh Thật, một cán bộ nằm vùng
ngay tại Đà Nẵng, lúc Việt Cộng chiếm Đà Nẵng anh mang lon thiếu tá, bây giờ
anh làm gì, chức gì tôi không cần biết. Chúng tôi chỉ nói chuyện gia đình để
tránh tranh luận. Thời xưa trước năm 1975, khi cậu tôi còn sống, mỗi lần có đám
giỗ ngoại tôi là cậu và các anh con dì tôi thường cãi nhau về chính trị, bao giờ
dì tôi cũng khóc khi đến màn kết cục cậu tôi cầm chiếc ghế lên định đánh vào
anh và anh bỏ chạy. Cậu tôi ghét cộng sản, cậu biết các anh con dì hoạt động
cho cộng sản nên cậu thường công kích. Các anh thường nhẫn nhịn, nhưng khi cậu
tôi gọi Hồ Chí Minh bằng thằng thì các anh không nhịn nữa và lên tiếng cãi lại.
Hầu như đám giỗ nào cũng xảy ra màn chiến tranh ý thức hệ trong gia đình.
Nói chuyện
gia đình một lúc thì anh Thật cũng lái qua chuyện chính trị, hình như người Quảng
Nam ngồi với nhau không nói chuyện chính trị thì không vui. Anh Thật nói là chế
độ sai lầm khi nhốt những người như tôi quá lâu. Tôi không biết anh nói thật
hay an ủi tôi. Nếu anh nói thật thì anh là cán bộ cộng sản nhưng không thuộc
chính sách và chưa đọc Lénine: “Là Cộng sản phải đấu tranh không khoan nhượng với
kẻ thù”, và trong chính sách của Lénine có viết rõ chính sách cải tạo và kỹ thuật
đánh lừa người tù cải tạo, “luôn luôn làm cho chúng có hy vọng được tự do, chuyển
trại thường xuyên để nuôi dưỡng hy vọng giả tạo đó, cuối cùng chúng gặp nhau và
chết ở Siberia”. Nếu Cộng Sản Việt Nam không bị áp lực hoặc không vì nhu cầu
nào đó, chúng tôi cũng sẽ bị giam giữ vĩnh viễn cho đến chết ở các vùng rừng
thiêng nước độc ở miền Bắc hay miền Trung. Giam giữ tù, Việt Cộng không hao tốn
gì cả, tù phải tự làm lấy ăn và nuôi sống cán bộ, mót hết sức lao động, khi chết
thi thể người tù còn là phân bón tốt cho cây cỏ. Anh nói đến những mâu thuẫn
trong nội bộ của nhóm lãnh đạo, đổ tội cho Lê Đức Thọ - anh gọi Lê Đức Thọ bằng
thằng, anh nói: “Thằng Lê Đức Thọ phản quốc”. Anh kể chuyện Võ Nguyên Giáp đi
Liên Sô về bị ám sát hụt do phe Lê Đức Thọ tổ chức - Giáp đi máy bay Liên Sô về
đến phi trường Gia Lâm thì có điện báo của Tòa Đại Sứ Liên Sô tại Hà Nội yêu cầu
máy bay đáp xuống phi trường quốc tế. Máy bay đáp không đúng nơi, nên toán xe
rước Võ Nguyên Giáp tại phi trường Gia Lâm xoay trở không kịp - Giáp đi xe của
nhân viên Liên Sô về tư dinh, trong khi đó xe đón Giáp tại phi trường Gia Lâm nổ
- Giáp chết hụt. Anh kể chuyện Đinh Đức Thiện bị ám sát chết, vì trước đó Đinh
Đức Thiện phản đối hành động bám lấy quyền lực của Lê Đức Thọ. Trong một buổi
tranh luận giữa hai anh em, Đinh Đức Thiện nói với Lê Đức Thọ: “Gia đình ta mấy
đời đều đóng góp vào lịch sử xây dựng đất nước và phục vụ nhân dân, bây giờ anh
đi ngược lại truyền thống đó”. Đinh Đức Thiện bị một quân xa ép chết trên đường
đi làm về. Thiện có thói quen trước khi về nhà ra khỏi xe hóng gió trên chỗ đồng
vắng. Anh Thật còn kể cho tôi nghe về chuyến đi của Lê Duẩn qua Mạc Tư Khoa nhân
lễ nhậm chức của Gorbachev năm 1985, lễ này được trực tiếp truyền hình qua đài
Hoa Sen tiếp vận hệ thống truyền hình vệ tinh nhân tạo Liên Sô đến Việt Nam.
Trước đây
Lê Duẩn sui gia thân thiết với Breznev nên mỗi lần đến Mạc Tư Khoa được Breznev
đón tiếp rất niềm nở. Lần này Lê Duẩn đã phải sượng sùng vì sự lạnh nhạt của
Gorbachev. Lê Duẩn giới thiệu người kế theo là Tố Hữu, Gorbachev hỏi ngay: “Ông
Tố Hữu có phải là người làm thơ ca tụng Staline không?” Tố Hữu chỉ mới vâng một
tiếng thì Gorbachev tiếp theo: “Ông đã được gặp Staline chưa?” Lần ra đi thất bại
đó của Lê Duẩn hầu hết người Việt Nam đều biết, các đảng viên cộng sản bàn tán
rất nhiều về việc đó: trở về Việt Nam vai trò Tố Hữu bị lu mờ để rồi bị loại ra
khỏi Bộ Chính Trị tại đại hội kỳ 6 sau khi Lê Duẩn chết. Những chuyện kể của
anh Thật, không biết có đúng hoàn toàn hay không, điều đó không quan trọng lắm.
Quan trọng là anh làm cho tôi hiểu được sự mâu thuẫn trong nội bộ của lãnh đạo
cao cấp Cộng Sản Việt Nam không hàn gắn được. Cộng Sản Việt Nam không còn “sợi
chỉ hồng xuyên suốt” để giữ thống nhất nội bộ và họ không còn giữ gìn sự đoàn kết
như giữ con ngươi của mắt như Hồ Chí Minh từng lập lại lời di chúc của Lénine.
Về quê thăm khu mộ gia đình xong, tôi đến nhiều nơi trong
làng, đã gần 30 năm tôi mới trở lại nhưng tôi nhận rõ nhiều địa điểm, dù sau cuộc
chiến tàn phá, làng tôi đã được xây dựng lại, mở nhiều đường mới và trồng nhiều
cây cối xanh tươi hơn. Ngoài đồng xanh ngát thuốc lá đã cao ngang tầm đầu người.
Thuốc lá là nông sản chính của quê tôi. Dân Thanh Quít giàu có hơn những dân
làng khác nhờ vào thuốc lá. Mùi thuốc lá hăng hắc khắp nơi, tôi có cảm giác như
mình đang say. Tôi đến nhìn rõ nền Kỳ Yên, là nơi tôi từng xem Việt Minh xử
chôn sống Việt gian, tôi đứng lại nơi đầu cầu Thanh Quít nhìn qua trụ sở xã bên
kia sông, lúc xưa đó là đồn Tây, nhiều buổi sáng tôi đứng ngoài rào xem Pháp cắt
đầu Việt Minh, đạp thây xuống nước rồi đem đầu cắm vào một thanh tre bêu nơi đầu
cầu để người qua lại xem. Chiếc đầu sau khi chặt được chải brillantine bóng
láng và miệng cho ngập một điếu thuốc. Người Pháp và bọn Việt gian theo Pháp đã
đem thi thể người Việt Nam ra làm trò đùa, họ tưởng là tiêu diệt Việt Minh
nhưng chính là đẩy dân quê Việt Nam về phía Việt Minh.
Sau này làng Thanh Quít nổi tiếng nhiều cộng
sản, đi dọc quốc lộ 1 chỉ ngán Sa Huỳnh và Thanh Quít, viên chức và quân nhân,
ít khi lái xe qua đó sau hai giờ chiều mà không có hộ tống. Ít người biết và nhớ
là Thanh Quít từng là nơi chống Việt Minh mạnh mẽ nhất trong thời chiến tranh
Việt-Pháp. Ba tôi, cậu tôi, các chú bà con họ hàng lứa tuổi đó đều theo kháng
chiến từ ngày đầu. Chủ trương giết hại hơn ngàn tín đồ Cao Đài ở Quảng Ngãi ảnh
hưởng đến làng tôi, vì làng tôi có một thánh thất Cao Đài và nhiều người có học
đã theo đạo. Những người Thanh Quít có đạo Cao Đài hay liên hệ đến thánh thất ở
trong hàng ngũ kháng chiến đều bị loại và có nguy cơ bị sát hại. Cậu, các chú
và ba tôi quay về làng rào làng chiến đấu để tự vệ. Trước khi Pháp từ Vĩnh Điện
ra chiếm đóng đồn, giải tán lực lượng tự vệ của làng, thì làng đã đẩy lui ba cuộc
tấn công của Việt Minh vào làng. Lần tấn công thứ hai tháng 11 năm 1947 nhiều
nhà trong làng bị đốt cháy trong đó có nhà nội và bà ngoại tôi, và trong làng
có khoảng 50 người lớn bé bị giết chết, có người bị chém bằng mã tấu, có người
bị đâm và ném thây vào lửa. Chính mắt tôi đã trông thấy cảnh tượng đó khi gia
đình tôi trốn dưới một cái ao.
Lần Việt
Minh tấn công lần thứ ba vào làng, đánh thẳng vào đồn tự vệ nằm bên quốc lộ, đồn
là nhà lầu của ông Năm Ngoạn, Việt Minh tấn công vào chiếm được tầng dưới nhà,
bí lối mọi người thoát được lên lầu chống cự. Tôi theo ngủ với ba tôi trên lầu
vào đêm hôm đó. Hai bên vũ khí đều thô sơ nên đến sáng Việt Minh không chiếm được
tầng trên lầu và phải rút lui. Kết quả trong đồn chỉ chết hai mẹ con thím Cơ là
vợ của chú Nguyễn Hữu Tuân, người chỉ huy lực lượng tự vệ. Thím không kịp chạy
lên lầu nên bị giết và thi thể bị bằm nát thành từng mảnh. Chính những hình ảnh
đó in đậm nét trong đầu tôi, cản bước tôi đi về phía cộng sản khi tôi được bạn
bè lôi cuốn lúc 16 tuổi. Lý tưởng công bằng xã hội, cách mạng giải phóng dân tộc
quá hấp dẫn trí óc non nớt ở tuổi đó, nhưng hình ảnh bạo tàn làm cho tôi nghi
ngờ.
(còn
tiếp)
*Mời
đọc những phần trước:
Tựa; Phần mở đầu; Chương 1; Chương 2; Chương 3; Chương 4; Chương 5; Chương 6; Chương 7; Chương 8; Chương 9; Chương 10; Chương 11; Chương 12 - Xuân Phước; Chương 13; Chương 14; Chương 15; Chương 16; Chương 17;
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét