Như
một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH đã ngày
đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê hương gấm vóc và
hai chữ "Tự Do" ...
Cho tôi xin dù chỉ một lần
Mơ làm cánh én giữa trời Xuân
Tang bồng hồ thỉ mang chí lớn
Rạng giống Tiên Rồng lính Không Quân
Firebird24
Công ty tôi đang làm nằm trên con đường
Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt
buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ
trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ
thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc
phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.
Sau biến cố tù “cải tạo” trại Suối Máu nổi dậy
đêm Giáng Sinh 24 rạng 25 tháng 12 năm 1978, một số anh em bị công an “chấp pháp”
vc bắt giải giao về nhà tù Chí Hòa tại Sài Gòn, trong đó có tôi. Chúng tôi bị
giam trong xà lim khu ED mỗi người bị giam một xà lim riêng nên hoàn toàn bị cô
lập với thế giới bên ngoài, không ai nhìn thấy ai và cũng không biết những
người bị bắt chung với mình đang ở đâu.
Tháng 12 năm 1993, tôi
bị (được) chuyển tới trại A20 Xuân Phước- Phú Yên, từ địa ngục trần gian An
Điềm- Quảng Nam.
Lúc đó tại A 20 này có đến mấy trăm tù nhân chính trị và tôn giáo, tại đây tôi
có được may mắn diện kiến những nhân vật lừng danh từ trước 1975, như giáo sư Đoàn Viết Hoạt, chú Phạm Đức Khâm và đặc biệt là thầy Thích Tuệ Sĩ.
Tôi được biên chế về đội 12, một đội chính trị phạm nổi tiếng với những tù
nhân bất khuất, “cứng đầu” nhất trại.
Nguyễn Ngọc Bửu, SVSQ/Đại Đội
A/K25/TVBQGVN. là một SVSQ hiền lành cương trực, sống yêu đời với nụ cười thân
mật luôn nở trên môi. Bạn bè khóa 25, ai cũng đều thương mến.
Chiến
đấu trong tù là một điều không dễ chút nào, bên cạnh người tù còn có bè bạn, có
danh dự có trách nhiệm, nói gì thì nói mấy thứ này không thể quên được. Hàng tá
người đã rớt đài trong tù, chỉ trong một tích tắc mềm lòng.
Bạn
muốn viết thư về nhà ư, bạn đang bị kỷ luật cấm hết thư từ, vậy bạn phải nghe
lời dụ khị của thằng nhóc cán bộ quản giáo hay an ninh. Cứ báo cáo những gì bạn
thấy được, biết được chung quanh, nhất là anh A anh C, thái độ thành thật của
bạn sẽ được đền đáp. Cán bộ Y hay X đi phép lần này, thư của bạn sẽ được trao
tận tay gia đình. Thề có chân dung Hồ chủ tịch cán bộ đây sẽ không nói dối.
Vậy
bạn có tin không? Có muốn vợ gởi cho ít thuốc kiết lỵ hay tiêu chảy trong vòng
1 tuần là có không? Cứ thành thật khai báo.
Đang
bị cùm mà cán bộ an ninh xuống tận phòng giam, khuyên bạn khai hết những tên
đồng lõa, cán bộ sẽ lập tức tháo cùm cho bạn về đội, sẽ không ghi vào hồ sơ tù
của bạn, ban khai không?
Đội 15 đi theo hàng hai bò lên đồi
giữa trưa gió Lào bốc khói. Lưu Kim Long, tên đội trưởng có gốc bất định khi
thì Cảnh Sát lúc là TQLC, đang thỏ thẻ gì đó với tên cán bộ quản giáo phía cuối
hàng. Đồi dốc dựng này chúng tôi phải ngày 4 lượt đi và về, cái đồi chó chết
toàn đá sỏi, đội 15 là đội nông nghiệp, chúng tôi trồng nơi đây, từ chân lên
đỉnh là khoai mì H34 giống của Ấn Độ. Cái thứ khoai chi mà lạ, trên đất đá khô
cằn như vậy mà nó cho củ có khi nặng đến 3, 4 kg, mỗi bụi khoai phải còng lưng
mà nhổ lên khi thu hoạch.
Hôm nay đội 15 bắt đầu đào hộc trồng
khoai, mỗi hố cách nhau 1m và sâu đến 40 cm, sau đó lấy lá rừng hay cây cỏ vớ
vẩn bỏ vào lấp một lớp đất mỏng đợi khi bắt đầu mưa thì bỏ hom xuống. Hom là
những cây khoai sau khi thu hoạch dựng đứng hàng đống, lấy cây cỏ phủ lên chống
nắng, chặt ra từng khúc 20cm, bỏ xuống cái hố tào lao đó, rồi cứ để cho trời
sinh trời diệt. Vậy mà nó sống nhăn răng. Nó là lương thực chính ở cái trại
chết tiệt A20 này.
Đoàn
xe pha đèn, quét một vùng sáng, xoá tan cái yên tỉnh của Rừng Lá. Ra quốc lộ,
quẹo phải về hướng miền Trung, đã có những tiếng xì xào vang lên trong chiếc xe
bít bùng.
- Ra Bắc?
- Ra Trung, trại Củng Sơn?
Những
người tù bắt đầu tiên đoán vận mệnh sắp tới cho mình. Tôi qua rồi chí ít hai
lần dời đổi vậy mà cũng có chút hoang mang.
Quả
thật tôi chẳng thể đoán mình sẽ bị đày về đâu, nhưng căn cứ vào một ngày ăn đi
đường mà tất cả được lãnh trước khi lên xe, thì cũng có thể biết rằng chuyến đi
không quá một ngày, cùng lắm là đêm nay sẽ tới cái nơi phải đến. Dù biết rằng
có suy nghĩ đến điều này cũng vô ích, nhưng rồi cũng phải nghĩ tới. Dựa vào
thành xe cho đỡ mỏi, nhìn những người bạn đồng cảnh như những con cá hộp trong
chuyến xe đêm, thấy thương cho thân tù tội.
Xe chuyển bánh, tấm bạt
phía sau xe đã hạ xuống, chúng tôi chẳng khác gì những người bị bịt mắt được dẫn
đi. Ở trong xe, mọi người vẫn nhìn thấy mặt nhau, nhưng hoàn toàn không quan
sát gì được ở bên ngoài. Trên xe có một tên công an trang bị vũ khí đạn dược ngồi
cạnh tài xế. Chúng tôi ngồi xếp lớp chật ních, không khí trở nên ngột ngạt.
Trong xe có một cái sô để cho chúng tôi tiểu tiện. Ai muốn đi tiểu trong lúc xe
chạy, chỉ cần đứng dậy mượn cái sô chuyền nhau. Người còng chung dù không bị
mót tiểu cũng phải đứng lên khi người kia muốn. Có nghĩa là một người buồn đái
hai người phải đi. Tôi còng chung với một anh mà tôi chua hề biết mặt biết tên,
nhưng anh ta chắc chắn đã biết tôi.
- Tôi với anh không biết
có duyên nợ gì với nhau, mà lại cùng nhau xỏ chung một cái còng như vậy ? Tôi
nhìn anh bạn và nói.
- Tôi hân hạnh được
còng chung với trung tá, anh bạn trả lời.
Mùa
hè, những đụn cát bỗng nhiên nóng hơn, dưới cái nắng tháng tư theo những cơn
gió thỉnh thoảng thổi qua khe lá. Đất Bình Thuận quả không thương người, không
thương những đứa con da vàng đang giẫy chết trong Rừng Lá. Mưa không về, con
Suối Lạnh tang thương phơi những lớp đá cuội dưới đáy, từng tảng rong rêu màu
đỏ gạch nổi lều bều trên mặt nước. Con suối chạy ngang qua một thung lũng hẹp
dẫn vào trại giam, nơi mà hàng ngàn tù nhân đang chết dở vì thiếu nước.
Buổi
chiều, dưới cái nóng như lò lửa sau một ngày chật vật dưới đám lồ ô. Cắt, cưa,
đục đẽo, để dựng lên một căn nhà mới nằm bên lộ chính dẫn vào trại.
Khu
A của trại giam Z30D, thuộc địa bàn Bình Thuận, Hàm Tân. Căn nhà có cái tên rất
tội nghiệp “Nhà hạnh phúc”, đó là nơi thân nhân của những người tù ở khu A làm
nơi thăm nuôi, gặp mặt.
Tháng 6 năm
1975. Tôi một mình vác ba lô lên núi Bà Đen. Nhà tôi chỉ cách 5 cây số là tới
chân núi. Trong thời giao chiến, tất cả những con đường dẫn vào đây toàn mìn
bẫy. Ít có ai đơn độc qua những đoạn đường chết chóc rình rập thế này.
Từ đầu tháng
6 năm 1975, người ta đã tháo dỡ mìn và có nhiều đoàn đông người tái tạo lại
những chuyến hành hương lên núi Bà Đen. Tôi có mặt trong đám đông này nhưng mục
đích của tôi thì khác hẳn. Tôi sẽ qua khỏi chùa Hang, tới núi Phụng, tìm những
khu giáp giới với Campuchia như Kà Tum, Khe Dol, thậm chí có thể quan sát đường
rừng đi về núi Cậu.
Với tấm bản
đồ thu nhỏ của vùng này mà tôi có được từ đống bản đồ hành quân của ba tôi ngày
trước. Cắt nó ra theo đúng đường XY của khu vực. Tôi hiên ngang đi hành quân
một mình.
Tháng 5 năm 1975, ngay sau ngày giải
phóng, tôi bị đưa đi học tập cải tạo. Năm đầu tiên tôi bị giam ở Khám
Chí Hòa, gia đình không được phép thăm nuôi. Thời gian đầu tôi hy vọng
chỉ phải bị cải tạo ba tháng vì nghĩ rằng mình không làm chính
trị, nhưng sau ba năm vẫn chưa được về tôi đoán rằng có lẽ phải kéo
dài đến mười năm. Quả nhiên phải hơn mười ba năm tôi mới được trở về.
Tôi có một thời tuổi
trẻ chẳng hay ho gì lắm, nếu không nói là phải cực lực chê trách nhiều mặt thì
đúng hơn. Cái tuổi trẻ trong thời nhiễu nhương, mỗi bước chân đi là đạp trên
tang tóc của chiến tranh, tan vỡ trong ý niệm con người, một con người sống
đúng với châm ngôn đạo đức và trách nhiệm.
Đất nước chiến
tranh, những bậc đàn anh ra đi và nằm xuống nhan nhản ngày một. Trong cái nhìn
của chúng tôi thời đó, cái chết treo trên đầu như sợi dây thòng lọng, nó sẽ thắt
lại.
Vào một ngày nào đó
khi rời bỏ trường học, vĩnh biệt tuổi thơ, ưỡn ngực về thăm nhà trong bộ đồ
lính. Nằm xuống, có thể chỉ còn một cái xác mang về cho cha mẹ, cũng có khi mất
hẳn không dấu vết trên một chiến trường đang ném binh như vãi đậu ngoài kia,
hay mất một chân, một tay, lăn xe về trong thân phận người phế binh của một trận
chiến nghe hoài đến nhức nhối. Cuộc chiến chống cộng mỏi mòn.
Ngày 17 tháng 10 năm
1977. Tôi bị bắt ở quận 4, với những tang chứng không chối cãi - Tổ chức chống
chính quyền cộng sản. Nằm ở công an quận 7 ngày, tôi bị đưa lên trại giam T 20,
chính là thành Gia Định được xây dựng từ thời Pháp.
Khi được mở băng bịt
mắt trên suốt chặng đường từ lúc bước ra khỏi phòng tạm giam ở quận 4. Cái
không gian mà tôi thấy được làm tôi muốn ngạt thở. Tiếng cánh cửa sắt đóng sầm
thô bạo, tiếng khoá bên ngoài vang lên chói tai, căn biệt giam tối mờ mờ, một
ngọn đèn bóng tròn trên tận nóc cao, rọi xuống xuyên qua lớp lưới chống B40,
mùi ẩm mốc bốc lên trong khoảng không gian chật hẹp, bít bùng như một trấn áp đầu
tiên khiến tù nhân phải sợ. Chắc khoảng gần một phút sau tôi mới trấn tỉnh và
quan sát thật kỹ chung quanh.
Tôi vội lấy cái túi đeo lưng (backpack)
về phía mình trả ghế trống cho người vừa hỏi. Cô gái… thiếu phụ thì đúng hơn,
tuổi khoảng chừng ngoài 30. Nàng ngồi xuống cạnh tôi, hương thơm của mùi nước
hoa thoảng nhẹ trong không khí ban mai thật dễ chịu. Đã lâu, hình như lâu lắm
mùi nước hoa quen thuộc nầy… nhất thời tôi chưa nhớ ra là tôi được thưởng thức
hương thơm nầy từ… đâu.
Tôi kín đáo nhìn ngang để
xem người vừa ngồi có quen biết gì không. Ngoại hình và mái tóc có nét gì đó
quen thuộc nhưng gương mặt thì không thể nào nhìn được vì nàng mang một cặp
kính mát lớn che cả nửa phần trên của gương mặt nhưng… hình như cũng có một nét
gì đó quen quen.
VIDEO KHÔNG PHẢI VINH DANH TÔI MÀ VINH DANH TOÀN THỂ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN/ NGHĨA QUÂN:
"Đứa con không được chăm sóc của QLVNCH"
A20 Lê Phi Ô
ĐỊA PHƯƠNG QUÂN / NGHĨA QUÂN QLVNCH
Thực Hiện: LS. Bích Hà
*
Tôi được biết Luật Sư Phạm Bích Hà là con gái của Thiếu Tướng Phạm Văn Đỗng, Bộ Cựu Chiến Binh VNCH đồng thời là con nuôi của Đại Tá Ngô Văn Định (Đồ Sơn) Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC/VN.
Hôm nay là ngày
lễ Giáng-sinh, anh em chúng ta rải rác khắp nơi trên thế giới cùng chào mừng
ngày lễ tôn-giáo này. Có lẽ trong chúng ta cũng có người không theo đạo Thiên
chúa, nhưng sự phổ thông của ngày lễ nầy không khỏi hằn sâu vào tâm trí
ta cái giá trị tâm linh mà tôn giáo nầy trao tặng.
Hiện nay anh em chúng
ta là những người chỉ có quê hương thứ hai, còn quê hương thứ nhất, quê hương
vàng son nhất của một thời tuổi mộng không biết bao giờ có lại được, mặc dầu ai
trong chúng ta, bằng cách nầy hay cách khác, dưới cách đấu tranh nầy hay đấu
tranh khác, tích cực trong việc cứu lấy quê hương để được trở về .
Xin nguyện cầu, xin
nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau
tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ
tóc rối.
Xin quét hết lũ người
sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười cho mọi người được sống
bình yên.
**Bài Tù Ca GIÁNG SINH TRONG NGỤC TÙ (Lời Nguyện Trong Tù)
Sáng tác Bảo Châu (Duy Trác)
Do ca nhạc sĩ DUY TRÁC sáng tác năm 1982 (nhưng để tên tác giả Bảo Châu, con của Duy Trác), truyền khẩu cho anh em tù nhân cải tạo và được VŨ TRỌNG KHẢi hát trong trại tù A20 vào ngày mồng 1 tết năm Nhâm Tuất (1982) ở phân trại E, A 20.
... Khi tôi đưa mắt qua hướng Vũ Trọng Khải thì Vũ Mạnh Dũng
bắt đầu dạo đàn; khúc nhạc dạo đầu của Dũng vừa về chủ âm thì Khải đã cất tiếng
hát, rất ăn nhịp:
“Có con chim nhỏ trên
hàng rào kẽm gai.
Đứng im than thở; cuộc
đời còn có ai?
Này chim có biết nơi
đây sống kiếp đọa đày,
sống không ngày mai,
như kiếp cỏ cây.
Có ngôi sao nhỏ trên bầu
trời giá đêm.
Suốt đêm không ngủ
thương ngục tù tối đen.
Nhờ sao đem đến tin
vui tới khắp mọi người.
Chúa đã giáng sinh cứu
rỗi trần ai”.
Giọng của ông cựu quan 3 cảnh sát khỏe, ấm, phát âm rõ ràng,
đưa từng lời tâm sự của Khuất Duy Trác đến với anh em tù. Sáng mồng 1 tết ở
Xuân Phước trời vẫn còn lạnh; một vài anh em đến dự khoác thêm áo ấm. Không khí
có vẻ cũng Noel lắm nên phần đầu bài hát của anh Trác được đón nhận một cách tự
nhiên. Rồi Vũ Trọng Khải vào điệp khúc ở cung Trưởng :
“Xin Chúa hãy vỗ về,
ru no tròn giấc ngủ trẻ thơ.
Xin một giấc mơ lành
cho mẹ già từ lâu mong nhớ.
Xin nguyện cầu cho vợ
hiền lẻ bóng nơi xa.
Xin nguyện cầu, xin
nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau
tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng
mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ
tóc rối.
Xin quét hết lũ người
sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười
cho mọi người được sống bình yên”.
Tôi thấy có những đôi mắt rưng rưng lệ. Ai chẳng có mẹ già,
vợ hiền, con thơ.
Rất nhiều người hòa chung tiếng hát “A….men” như kết thúc một
bài hợp ca lớn. Tôi nghĩ tiếng vỗ tay sẽ vang dậy nếu không có cái quy định kỳ
quái của Ngọc Đen và Vũ Mạnh Dũng. Khán giả của chúng tôi đành phải lặng yên
nhìn Vũ Trọng Khải một cách ngưỡng mộ và thán phục.
Ông tốt nghiệp với văn bằng Tiến sĩ
Dược khoa Đại học Toulouse ở Pháp.
Từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và
Thanh Niên thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
Từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng Sản.
Khi ra khỏi trại tù Cộng sản,
ông qua Mỹ theo diện ODP được đoàn tụ với gia đình trong tuổi già bóng xế. Ông định cư và sống tại Hoa Kỳ cho đến
cuối đời,
Tháng Mười Một năm 2005, cựu Tổng
Trưởng Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh qua đời tại San Jose, thọ 82 tuổi.
DIỄN VĂNCỦA ÔNG NGÔ
KHẮC TỈNH
TỔNG TRƯỞNG BỘ VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ THANH NIÊN
ĐỌC TRONG DỊP ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 3518 VÀ
LỄ KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP
VIỆN ĐẠI HỌC VẠN HẠNH
(06 - 5 - 1974)
Tôi rất hân hoan đón nhận vinh dự mà Viện Đại Học Vạn Hạnh đãdânh cho
tôi, đến chủ tọa lễ kỷ niệm mười năm thành lập Viện ngày hôm nay. Nhân cơ hội
này, tôi gửi lời chào mừng chư tôn Hòa thượng, cùng toàn thể liệt Quí vị quan
khách.
Thấm thoát mười năm trôi qua. Trong khoảng thời gian qua nhanh như chớp mắt ấy,
Viện Đại Học Vạn Hạnh đă thắng lướt không biết bao nhiêu khó khăn, thử thách để
trưởng thành và dầndần hoàn tất mục tiêu dự liệu.Với một cơ sở khang trang và
đầy đủ phương tiện giảng huấn bậc Đại học như hiện có, cộng thêm những nổ lực
không ngừng nhằm kiện toàn chuơng trình giảng dạy, cải thiện lề lối sinh hoạt
của sinh viên,
Con tàu TGV nối liền thành-phố
Dijon-Paris ngừng tại điểm đến ga Lyon. Phú xuống xe, kéo va-li đi dọc theo
hành lang ga, xuống hầm xe điện ngầm để đón xe về khách-sạn.
Chiều thứ sáu, đang là giờ cao-điểm cuối
tuần nên hành khách đi lại rất đông. Phú chen đi trong dòng người vội vã, vừa
ra khỏi cầu thang cuốn, anh thoáng nghe có tiếng đàn guitar hòa lẫn giọng ca nam
nhẹ vang lên trong góc hầm, giọng ca tiếng Việt buồn não, lời bài ca đã
lâu lắm anh mới có dip nghe lại:
Trời đêm dần tàn, em đến sân ga để tiễn
người trai lính về ngàn.
Cầm chắc đôi tay, ghi vào đời tâm-tư
ngày nay.
Gió khuya ôi lạnh sao, vấn nhẹ đôi tà
áo.
Tàu xa dần rồi, thôi tiếc thương chi khi
biết người ra đi vì đời
Trở gót bâng-khuâng em hỏi lòng đêm nay
buồn không.
Chuyến xe đêm lạnh không ?Để người yêu vừa lòng ?
Ngày tháng đợi chờ, em đến sân ga nơi
tiễn người trai lính ngày nào
Tàu cũ năm xưa, mang người tình biên khu
về chưa ?
Khóa 22 nhập học ngày 2/12/1965, nhưng phải đợi 5 ngày sau một phái đoàn gồm 52
“nhân tài” của 4 tỉnh Trị -Thiên – Nam – Ngãi, được một chiếc phi cơ quân sự
đưa từ Đà Nẵng vào Liên Khương cho đủ túc số 274 người. Thôi thì quí vị “hung
thần Khóa 21”, đang huấn luyện khóa 22, đổ cho đủ thứ tội như là các anh biểu
tình chống đối, tà tà câu giờ, bạn bè các anh đang thi hành lịnh phạt còn các
anh thì đang thảnh thơi.. .. Nhưng “Biệt đoàn B52” vẫn bình tĩnh chấp nhận mọi
hình phạt, lắng nghe mọi lời nặng nhẹ… không có gì chống đối hay phản đối (nếu
làm ngược lại là chết ngay).. Mà quả thật biệt đoàn này có nhiều nhân tài như
Vua Lâm Viên Đỗ Văn Chánh (Quảng Ngãi), thủ khoa Rừng Núi Sình Lầy là Châu Văn Hiền
tự Cóc (Huế), hai người thủ Quốc Quân kỳ (có chiều cao nhất khóa) là Trần Đình
Thạnh và Phan An (Thừa Thiên). Tội nghiệp Thạnh đã chết trong đợt thảm sát tết
Mậu Thân khi cùng người yêu tên Ly về Huế thăm nhà và xin mẹ làm phép cưới. Đặc
biệt Huỳnh Văn Thảo (Huế), một trong những người trẻ nhất khóa, đã hy sinh
trong khi đi giữ thùng phiếu tại Suối Vàng nhân bầu cử Tổng Thống đầu tiên của
nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Đúng là Thảo đã đến Suối Vàng và không bao giờ muốn trở
lại Dương Thế và khóa 22A rất hãnh diện ra trường năm 1967 với cái tên của
người bạn mình, Khóa Huỳnh Văn Thảo, và thủ khoa khóa 22B Nguyễn Đức Phống
(Huế) cũng là nhân tài của biệt đoàn B52. Phống ra trường sau 4 năm học chọn về
Thiết giáp và cũng đã “DA ngựa bọc thây” tại chiến trường Campuchia năm 1970.
Khóa 23 ra trường có tên gọi là Khóa Nguyễn Đức Phống. Và còn nhiều nữa kể ra
không hết.
Anh sinh ngày 18/6/1942 tại thị trấn Ái
nghĩa, quận Đại lộc, tỉnh Quảng Nam.
Học Trường Tiểu học Xuân An (Đà lạt), Trung
học Trần Quí Cáp (Hội An) và Đại học Khoa học (Sài gòn). Tình nguyện gia nhập
Khóa 22 Trường VõBị Đà-Lạt ngày 22/11/1965 và mãn khóa (Huỳnh Văn Thảo) ngày 2/12/1967 .
Tình nguyện về Lữ đoàn Thủy Quân Lục
Chiếnvà được đưa về TĐ2/TQLC có
Hậu cứ tại trại Lê Hằng Minh (Tam hà, Thủ Đức).Làm Trung đội trưởng Trung đội 42 thuộc ĐĐ4 của Tr/U Trần
Văn Hợp. Rồi ĐĐ phó ĐĐ4, Trưởng ban 3/TĐ và Đại đội trưởng ĐĐ4 ( 12/1969) .
Bị thương tại chiến trường Hạ Lào (1971).
Xuất viện chuyển về TĐ9/TQLC của Th/tá Nguyễn Kim Đễ, giữ chức vụ Trưởng ban 3
và Đại đội trưởng ĐĐ1cho đến ngày đi học khóa 5/74 Bộ binh Cao cấp tại Trường
Bộ binh ở Long Thành.
Mãn khóa học về làm Trưởng ban 3 /TĐ2/TQLC
cho đến ngày 30/4/1975.
Gần 10 năm tù CS qua các trại từ Nam ra
Bắc.
Qua Mỹ theo chương trình HO22 ngày 22/11/1993.
Hiện cùng Gia đình định cư tại Anaheim, Nam
California.
Đó là “Nhất Quỷ, Nhì Ma, thứ Ba Học trò”.
Nguyên lý không bao giờ sai,trong
tất cả mọi môi trường học vấn, ở bất cứ nơi nào. Chính từ
những nghịch ngợm đómình mới có những kỷ niệm sâu đậm trong cuộc đời khi mình còn son trẻ,
đầy nhiệt huyết.
Để ghi dấu những kỷ niệm đó, tôi xin ghi
lại một vài khung trời lặt vặt,mà trong đó những bạn nào đã khuất tôi có thể nêu
tên, để chúng tacùng tưởng nhớ
các bạn đó, còn những bạn vẫn sống nhăn răng,thì tôi không dám vì sợ những tên này sẽ tìm đến
giết tôi như giết người trong mộng, ai muốn đoán ai thì đoán, trời kêu
ai nấy dạ.
1.KHUNG TRỜI “NGHÊU NGAO”
Năm thứ hai, tôi ở Đại Đội D, lầu
ba, Nguyễn Minh Chánh ở lầu hai. Ngay chân cầu thang,đối diện với phòng Sĩ quan Cán bộ Đại Đội Trưởng,lúc đó là Niên Trưởng Lê Diêu K16. Một
hôm có một giờ tự do không đến lớp,tôi lại phòng Chánh ngồi đấu láo, nghe nhạc. Ngay lúc đó nhạc đang lên
bài LỆ ĐÁ,bỗng Chánh ngẫu
hứng hát: “Đại Úy Lê Diêu… bao nhiêu tuổi
đời……”. Làm tôi cũng ngẫu
hứng hát theo: “Đại Úy Lê Diêu…35 tuổi
rồi…”. Ai dè lúc đó Đại
Úy Lê Diêu vừa lên khỏi cầu thang,ông nghe vậy,liền tung cửa phòng và hỏi: “Ông nào vừa mạ lị tôi ĐỌ ?”
Có lẽ trong số tất cả những
người bạn thương phế binh, hiện nay tôi chỉ còn liên lạc được với Tùng. Cuộc
sống của vợ chồng Tùng tương đối vững vàng. Hai vợ chồng đã mở được một quán ăn
thay cho cái quán cà phê nghèo nàn trước đây. Lá thư Tùng qua e-mail cho tôi
cách đây vài tuần cho thấy rằng Cúc và Tùng có thể bành trướng thêm cái quán ăn
này, nhưng Tùng nói rằng đời sống của họ như vậy là bonus rồi, không đòi hỏi gì
hơn nữa. Nhưng điều Tùng buồn nhất là đám bạn bè thương tật cũ nay không còn
tìm lại được đứa nào. Nghèo khó, đói, bệnh tật và những chiến dịch tảo thanh
“làm sạch đường phố” khiến cho họ thất tán thêm một lần nữa.
Tùng cho biết có mùa Xuân vừa
rồi, anh lên mấy trại được mệnh danh là phục hồi nhân phẩm tại Phước Long để
tìm tông tích những bạn cũ, nhưng không gặp được người nào. Tùng viết: “Tại sao
em lại lên vùng này tìm các bạn chúng ta, vì bọn họ không biết nhốt những người
như chúng em mà phải sống trên hè phố vào đâu, nên cứ hốt được người nào là
thẩy lên Sông Bé. Dường như trên bờ con sông này hiện nay là quần đảo của trại
giam những phạm nhân nam nữ tệ nạn xã hội. Cái đau của em là những bạn chúng ta
là tuy phải sống trên hè phố, họ vẫn sống lương thiện như lối sống của sống của
những người lính”.
LTS.- Trong bài 12 của số báo trước, tôi
viết dở dang câu chuyện về người thương binh Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Tùng
sống bằng nghề bơm ga hộp quẹt trên đường Nguyễn Minh Chiếu. Câu chuyện được tiếp
tục trong kỳ này.
Có
thể nói gia đình Tùng là gia đình quân đội: Từ bố Tùng cho đến 3 anh lớn của
Tùng đều là lính. Tùng cho biết:
-
Bố em chỉ là hạ sĩ quan, tử trận trong cuộc hành quân Ðỗ Xá thời Tổng Thống
Diệm. Em là con út lúc đó còn ẵm ngửa, không biết gì. Sau này mẹ em mới kể lại.
Gia đình sau này sống cũng nghèo khó nhờ vào gánh bún riêu của mẹ em. Ba người
anh trên em đều tình nguyện vào trường Bộ Binh Thủ Ðức, phần vì muốn theo con
đường của bố em, phần vì cũng muốn đỡ gánh nặng cho mẹ em. Hai anh lớn nhất của
em đi trước, hai năm sau đó thì anh thứ ba mới nhập ngũ. Năm 1966, 1967 và
1969, mẹ em và em đón liên tiếp mấy cái tang. Anh Cả em tử trận tại Kinh Thác
Lác, Sóc Trăng, giữa năm 1966. Không đầy một năm sau, anh Ba em tử trận vì máy
bay trực thăng rớt trước lúc đổ quân ở gần Mỏ Vẹt, Tây Ninh. Người anh kế em
chết vì mìn trên đường từ Qui Nhơn đi quận Hoài Ân trong cuộc hành quân mở
đường Tháng Mười 1969. Bây giờ gia đình chỉ còn mình em với mẹ em thôi.
Cuộc sống của thương binh
Nguyễn Văn Tùng sẽ là một cuộc sống tốt đẹp nếu không có những điều bất hạnh về
tình cảm. Tôi quen Tùng tại chiếc tủ bơm ga hộp quẹt trên đường Nguyễn Minh
Chiếu Phú Nhuận. Ðó là vào khoảng giữa năm 1990. Nhân một chuyến chở người
khách đến một địa chỉ khoảng cuối con đường này, tôi ghé chiếc xích lô vào một
quán nước trà vối bên đường để nghỉ mệt, làm một bát nước trà vối và hút điếu
thuốc lào. Thuở ấy, những quán cà phê bên lề đường vẫn còn thịnh hành, nhưng
thỉnh thoảng người ta vẫn bắt gặp những quán đặc biệt bình dân hơn, chẳng hạn như
trà xanh hay trà vối phần lớn của những người từ miền Bắc di dân vào Nam kiếm sống.
Quán trà vối này là một điển hình. Người chủ quán kê một chiếc chõng tre trên
lề đường, xung quang là những chiếc ghế đẩu thấp, trên chiếc chõng tre là những
hũ kẹo đậu phọng (kẹo lạc), bánh đậu xanh, kẹo hạt điều, bên cạnh bà là một nồi
nước lúc nào cũng sôi. Nước dùng để pha vào mấy cái ấm bằng sành lớn. Không có
ly mà chỉ có những chiếc bát úp chồng lên nhau. Ðúng là hình ảnh của loại quán
bên đường ở miền Bắc từng gây những ấn tượng đặc biệt của một thời đã qua.
Không
phải những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa nào cũng phải sống trên lề đường
cả. Nhiều người cũng vẫn còn may mắn có được sự thông cảm và thương mến của vợ
con chăm sóc. Một số không nhỏ có vợ hay có con vượt biển sang được Hoa Kỳ hay
các quốc gia khác gởi tiền về trợ giúp. Trong những trường hợp như thế, những
đau khổ vì khiếm khuyết những phần thân thể của họ còn được an ủi phần nào.
Nhưng trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn họ, những nỗi đau có thể chẳng bao
giờ nguôi ngoai. Một người bạn của tôi nằm vào một trong số những trường hợp
này. Nguyễn Ngọc Thuấn, chuẩn úy khóa 2/68 trường Bộ Binh, ra trường về phục vụ
tại Tiểu Khu Long An, được chuyển sang làm việc tại Ủy Ban Bình Ðịnh Và Phát
Triển. Trong chuyến đi thanh sát tại một xã thuộc quận Thủ Thừa, chiếc xe jeep
của anh bị trúng mìn Việt Cộng đầu năm 1969. Thuấn bị thương nặng phải cưa cả
hai chân.
Trường
hợp của Thuấn khá đặc biệt. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật năm 1965, Thuấn
không đi tập sự để ra luật sư. Anh xin vào làm việc ở Bộ Nội Vụ cho mãi đến sau
Tết Mậu Thân thì bị gọi động viên. Trong suốt quãng đời công chức, Thuấn quen
một người con gái. Mối tình kéo dài khá lâu. Nhưng khi Thuấn mặc áo lính, ý
định thành hôn giữa hai người bị đình lại, do ý của Thuấn. Tôi hỏi Thuấn lý do
đình hoãn, được anh trả lời: “Mày lăn lộn chốn giặc giã chắc cũng hiểu là khi đã
lính tráng rồi, sống nay chết mai đâu biết được. Lấy nhau, nếu tao có mệnh hệ
nào thì cũng tội nghiệp cho L.”