20.8.15
Giờ lâm trận
Đã đến lúc người câm lên tiếng nói
đã tới hồi người điếc phải lắng nghe
kể cả người đui thậm chí người què
cùng đứng dậy đập tan bầy cộng sản
Khom lưng cúi là ngàn năm khổ nạn
cõng kẻ thù trên xương máu cha ông
từ Bắc vô Nam máu đã ngập đồng
cửa nát nhà tan - sống đời sâu bọ
Vũ khí ta là tự do chính nghĩa
sắc như gươm đao chặt đứt xích xiềng
đừng đợi chờ trước cơ đồ ngả nghiêng
đứng dậy, hoặc cam tâm làm nô lệ
Đã tới lúc vươn mình như Phù Đổng
đã tới giờ cắm cọc Bạch Đằng Giang
dân ta ơi! mất rồi ải Nam Quan
sẽ mất hết dưới tay bầy bán nước
Dù hơi cuối, dù phải lê từng bước
để cháu con không thẹn mặt Việt Nam
trên đường cùng - dù sức tàn, lực cạn
phải một lần đi trả nợ nước non
Nguyễn Di Ngữ
tháng 08-2015
21.6.15
Xuân Lưu Đày !
Tân Trương / Vũ Bình Nam
(Quảng
Nam/20 năm khổ sai /cấm cố).
Xuân Ất Hợi lưu đày ra đất Bắc
Ta nhớ ngày đánh giặc của Quang Trung
Nhưng hôm nay không binh dũng tướng hùng
Không vó ngựa vẫy vùng thanh kiếm thép
Ta về đây không rượu nồng đón tết
Không hoa đèn cờ xí rước quân vương
Hai tay còng siết chặt một tình thương
Ta ôm trọn nỗi đoạn trường vong quốc
Căng mắt giận vẫn nghe lòng lạnh buốt
Nén căm hờn cho máu hận về tim
Hỡi anh linh của nòi giổng Rồng Tiên
Có hiểu được nỗi niềm cho hậu thế
Kinh thành đó sao bao đời hoang phế
Lũ sói lang ô uế trước cung đình
Cánh đào không chúm chím nụ cười xinh
Hay ấp ủ mối tinh chung vạn kỷ
Ta về đây quốc hồn nung chính khí
Nhìn non sông hùng vĩ tự bao đời
Mỗi bước chân là mỗi nắm xương rơi
Mỗi tấc đất là mỗi trời thương nhớ
Tình dân tộc chảy qua từng hơi thở
Ta cúi đầu xin khất nợ tiền nhân
Ai đã từng vị quốc vong thân
Trên chiến trận mấy lần xông lửa đạn
Rồi hôm nay trước quân thù cộng sản
Tổ quốc còn trao sứ mạng thiêng liêng
Nguyện làm chiến sĩ trung kiên
Ra đi bẻ gãy xích xiềng cộng nô
Văng Lang xây lại cơ đồ
Nhân quyền dân chủ thắm cờ tự do .
Việt Nam 20/6/2015
A20 Tân Trương/Vũ Bình Nam
(tặng
Tango, Ngọc Vàng và các CH lưu đày ra bắc năm1994)
19.6.15
Án Cải Tạo!
A20 Đỗ Văn Phúc
Ðúng là ở Xuân Phước không thấy ngày về:
Ðến đây thì ở lại đây,
Ðến khi bén rễ xanh cây, chửa về.
Ðến khi bén rễ xanh cây, chửa về.
Vài vị linh mục trong nhóm Vinh Sơn, ra
toà nhận án 5 năm. Thời gian trôi qua, hết hạn 5 năm, chờ hoài không thấy kêu
lên làm thủ tục trả tự do, các vị mới hỏi và được trả lời:
– Tội các anh lớn lắm, đáng ra phải ra toà nhận thêm án, nhưng cách mạng khoan hồng chuyển qua tập trung cải tạo, khi nào xét thấy tiến bộ sẽ cho về.
Không Nơi Ẩn Nấp
A20 Đỗ Văn Phúc
Ở các trại khác còn nghe chuyện tù trốn
thoát chứ tại Xuân Phước thì con kiến cũng không ra lọt. Ðể phòng ngừa tù trốn
trại, bọn cán bộ cấm ngặt gia đình tiếp tế các thực phẩm khô. Những đội tù gồm
quân nhân chế độ cũ chỉ được lao động quanh quẩn gần trại; bao quanh là các đội
hình sự. Khi xuất trại, dù mưa hay nắng, anh em phải đi chân đất. Mùa hè,
cơn nắng miền trung nung cháy con đường đất, bước chân đi như dẫm lên than
hồng. Mùa mưa, đường sá ngập bùn lầy lội, trong lúc bọn cán bộ ngồi trong căn
nhà lô, ăn uống lu bù, thì anh em tù vẫn phải làm việc.
18.6.15
Mưu Sinh Trong Trại Tù
A20 Đỗ Văn Phúc
Khó mà nói cho thật hết hay thật rõ ràng
để cho mọi người thấy được những đày ải, khổ nhục mà những người tù nhân phải
chịu đựng nhiều năm trong các trại tù cải tạo sau khi miền Nam bị Bắc Việt
chiếm đoạt. Những người bị giam giữ này lại không phải là thành phần hình sự,
can án cướp của giết người; mà là hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức từng phục
vụ trong chính quyền Cộng hoà Việt Nam đối kháng với Cộng Sản miền Bắc. Họ
được Cộng Sản gọi bằng mỹ danh là “các trại viên học tập cải tạo”, nhưng thực
ra là “các tù khổ sai vô hạn định” mà chủ trương cải tạo chỉ là một sự trả thù
dã man của những người thắng thế đối với kẻ bại trận.
Tù Trong Tù
A20 Đỗ Văn Phúc
Trong căn phòng tối mịt mù này, tôi
không còn ý thức rõ rệt về thời gian. Tôi chẳng nhớ đã bị đưa vào cùm nơi đây
bao nhiêu ngày rồi. Dễ cũng đến hơn hai tháng chứ không ít đâu. Những người tù
thay phiên nhau vào ra ở phòng hai bên đã nhiều bận mà tôi thì vẫn cứ trụ trì
trên chiếc bệ xi măng lạnh cóng này; với hai cổ chân xích cứng vào thanh sắt 12
li bằng hai chiếc cùm xoắn oan nghiệt.
Mỗi ngày, tên cai tù cùng một tên trật tự vào đưa cơm một lần. Theo thông lệ là phần ăn trưa. Có lúc chúng đem vào khoảng 9 giờ sáng, khi nhà bếp vừa ra chảo bánh khoai mì đầu tiên. Có khi mãi đến giờ lao động buổi chiều mới nghe tiếng dép lẹp kẹp của chúng. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ chờ đợi, chỉ để nhận khi thì vài lát khoai mì luộc, khi thì một góc chiếc bánh cũng bằng bột khoai mì chỉ nhỏ bằng phần tư bao thuốc lá. Chẳng phải vì đói mà chúng tôi mong sớm đến bữa ăn đâu. Chẳng qua là muốn cho ngày tháng qua mau kẻo nằm mãi trong xà lim cũng buồn chán và kiệt sức quá đỗi.
Tết Trong Tù
A20
Đỗ Văn Phúc
Những Khuôn Mặt Đáng Nhớ
A20 Đỗ Văn Phúc
Không thể không nhắc đến những người đặc
biệt trong trại ít nhiều đã để lại trong lòng anh em tù nhân, những ấn tượng
đặc biệt..
Sư huynh Phạm Quang Hồng, thuộc dòng Đa Minh (?), bị án 20 năm khổ sai vì tội tham gia lực lượng chống đối. Sư huynh còn trẻ, cao ráo, khôi ngô. Tuy cuộc sống trong tù khổ ải, anh vẫn luôn tỏ vẻ vui tươi vì anh cũng là Hướng đạo sinh nên tuân theo điều luật “gặp khó khăn vẫn vui tươi.” Qua anh, tôi học được rất nhiều điều. Anh dạy cho tôi hát các bài hát trong các phim The Inn of the Sixth Happiness, The Sound of Music, và các bản Thánh Ca… Tôi không nghe các tác giả nhắc đến Sư huynh trong các hồi ký. Hiện nay, Sư Huynh đã là Linh Mục Chánh Xứ tại một Giáo Xứ ở Perth, Tây Úc.
17.6.15
Hạt Vàng Trong Bãi Bùn Đen
A20 Đỗ Văn Phúc
Có lẽ vì thù ghét Cộng Sản quá, nên
chúng ta chỉ nhìn thấy những xấu xa của họ, coi tất cả cán bộ Cộng Sản đều hung
ác, thâm hiểm và dốt nát, ngờ nghệch. Nhưng thực tế, đôi khi trong chặng đường
khổ nạn, chúng tôi cũng tìm thấy đó đây những tấm lòng nhân hậu, chưa biến chất
bởi sự giáo dục đồi trụy của chủ nghĩa Cộng Sản vô luân, vô nhân.
Cán bộ Ngà coi đội 13 chúng tôi rất lâu. Câu nói thường xuyên của anh là:
– Các anh cải tạo lâu dài, làm vừa vừa để còn sức khỏe mà về với gia đình.
Anh không bao giờ đặt ra chỉ tiêu cho đội hay cá nhân các đội viên. Trong lúc đội làm việc, thì anh chạy ngược chạy xuôi kiếm khi thì mớ khoai, khi mớ sắn đem về cho đội nấu ăn tại chỗ. Trong một thời gian dài, không có anh nào trong đội bị làm khó dễ hay la mắng nặng lời.
No Eat, No Work
A20 Đỗ Văn Phúc
Phùng
Văn Triển vốn dân từ Bộ
binh chuyển qua Không quân. Cái Trọng Ty
là sĩ quan An ninh Quân đội. Cả hai anh đều thuộc loại bất khuất, khí tiết. Hôm
đó, hai anh gánh chung một cần xé gạo từ kho về nhà bếp cán bộ trại. Trên
đường, họ cố làm vung vãi đổ xuống đường rất nhiều. Việc phá hủy hoa màu, tài
sản trại cũng là một biểu hiện của sự chống đối. Việc này, không may, lại lọt
vào mắt tên cán bộ quản giáo đội tên Quyền.
Khi đội ra lao động bên ngoài phiá Tây Bắc của trại. Cán bộ Quyền gọi hai anh vào nhà lô của đội. Nơi đây đã có sẵn cán bộ Hoà, quản giáo đội của tôi – đang lao động gần đó – và ba tên công an bảo vệ. Vừa bước qua cánh cửa tre, Quyền và Hoà xông vào đánh anh Triển tới tấp. Anh Ty thấy vậy, định chạy ra, thì ba tên võ trang chĩa súng ra ngăn lại. Ty đã la hét thật lớn để các đội lao động quanh đó có thể nghe được:
– Cán bộ đánh anh em chúng tôi là sai. Không được quyền đánh tù.
16.6.15
Gương Bất Khuất Trong Tù
A20 Đỗ Văn Phúc
Thời còn đi học, chúng tôi bị ảnh hưởng
bởi những truyện lịch sử truyền thống Việt Nam, chỉ quan niệm các vị anh hùng
phải là thuộc giai tầng ưu tú xã hội như những vị vua Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái
Tổ, Lê Lợi, Quang Trung, hay các vị tướng lãnh thống soái như Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… Nhờ chế độ Cộng Hoà và nền văn minh dân chủ khai
sáng, người Việt Nam đã nhìn đến những người anh hùng ở các tầng lớp thấp hơn
như các thiếu úy, trung úy, các hạ sĩ, binh nhì, thậm chí đến những chị Ba Hàng
Xanh, em học sinh Quách Thị Trang. Mỗi lần Bộ Tổng Tham Mưu tưởng thưởng
chiến sĩ anh hùng, đều có đủ mặt các cấp từ tướng tá trở xuống đến binh nhì, có
đủ quân binh chủng từ Dù, TQLC, BDQ cho đến ĐPQ và Nghĩa quân. Nói đến anh hùng
thời chiến là nói đến nhưng chiến sĩ quả cảm, lập nên chiến công hiển hách
trong phạm vi khả năng của họ. Thời bình hay nơi hậu phương là nói đến những
nhân vật có những hành vi hơn người, vượt thắng khó khăn sợ hãi để bảo toàn
danh dự, hay lý tưởng; hoặc có hành vi hy sinh bản thân để cứu người. Sự phong tặng
danh vị Anh Hùng của chúng ta không quá lạm dụng như trong chế độ Cộng Sản. Họ
phong anh hùng cho ngay những tên ngu muội, điên rồ bị lừa gạt chết oan nghiệt
cho cái lý tưởng sai lầm; hay những kẻ vai u thịt bắp, đem sức mình ra làm hùng
hục để kiếm tiếng khen. Kiểu anh hùng gánh phân, anh hùng thủy lợi làm cho hai
chữ cao quý này trở thành mỉa mai, lố bịch.
Hung Thần Trong Trại Giam
A20 Đỗ Văn Phúc
Về tên trưởng trại Lê Đồng Vũ (Xú danh
Lê Văn Nhừ)
Chuyện là như thế này. Tên phân trại
trưởng là Lê Ðồng Vũ, người miền núi Thanh Hoá có lẽ thuộc sắc dân Mường.
Khuôn mặt y bèn bẹt vô tri vô giác, trên đó có đôi mắt lèm nhèm và cái miệng
mỏng dính, thâm sì trông vô cùng nham hiểm. Chúng tôi đặt tên nó là Lê Văn Nhừ.
Nó đúng thuộc con cháu ba đời của Chí Phèo, tượng trưng cho loại người hạ đẳng
của xã hội, mang đầy mặc cảm thân phận đớn hèn, nên khi có chút quyền thế là ra
tay sinh sát thậm tệ với đồng bào đồng loại. Tên này ít nói, vô học đến
nỗi đọc lại lời trong trang sách cũng sai bét sai be. Có lần nó đọc đoạn viết
về phát triển nhà ở bên Liên sô. Thay vì: “năm
nay, có 10000 căn hộ đủ tiện nghi được đưa vào sử dụng,” nó đọc thành “có 10000 cán bộ đầy đủ tiện nghi…” Cũng
có lần, vì không biết ngừng đúng nơi dấu chấm câu, nó đã đọc một đoạn văn như
sau: “Nhân dân ta, sau khi chiến thắng đế
quốc Mỹ, đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.” thành: “nhân rân ta sau khi chiến thắng, đế quốc Mỹ
đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân noại.”
Hai Muỗng Cơm, Hai Muỗng Nước
A20 Đỗ Văn Phúc
Mấy ngày sau khi tôi bị cùm, trại kiếm
đủ cớ để đưa vào biệt giam thêm khoảng chục anh. Chẳng bao lâu sau đó, các
phòng biệt giam chật ních người. Vì sắp đến lễ Giáng sinh, chúng lựa những
người có thành tích đấu tranh cho vào giam trước đề phòng chuyện không hay xảy
ra. Thế là chúng tôi, bốn người nằm một phòng, hai người trên một bệ chia
nhau thanh sắt cùm. Chúng tôi bắt đầu gửi tín hiệu thăm hỏi nhau và tôi được
biết bên ngoài cũng đang vô cùng căng thẳng. Nhất cử nhất động đều có ăng ten
theo dõi và báo cáo. Vì thế các anh khuyên tôi nên ứng xử thật khéo léo để
tránh bị gán thêm tội.
14.6.15
Những Ngày Cùm Biệt Giam
A20 Đỗ Văn Phúc
Khi nghe tiếng khoá lách cách bên ngoài,
tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Dù sắp phải đối phó với những màn ép cung mà một lời
nói sơ suất có thể mang lại những hậu quả phiền toái; hoặc có thể xảy ra màn
tra tấn đánh đập như từng xảy ra khi chúng tôi bị gán tội sách động đòi yêu
sách hồi còn ở trại K5 Suối Máu. Tuy nhiên, công tâm mà nói, ở Xuân Phước
hơn sáu năm, anh em tù nhân có thể bị khủng bố nghiêm trọng về tinh thần, nhưng
cảnh tra tấn thì không dã man bằng ở trại Kà Tum, hay các trại miền đồng bằng
Cửu Long, nơi bọn du kích, địa phương Việt Cộng quản lý trong những năm đầu.
Chúng tôi vẫn coi thường những màn hỏi cung của bọn công an vì trình độ học
thức, lý luận chúng rất kém cỏi. Vấn đề là phải làm sao để không hớ hênh khai
báo gì mà có thể liên lụy cho các bạn mình hay để chúng chụp thêm tội. Dù có
nhận tội hay không thì thời gian bị cùm cũng chẳng thay đổi gì. Đơn giản là nếu
không nhận tội, thì chúng cho là ngoan cố; mà có nhận đại cho xong, thì chúng
nó đoán sẽ còn nhiều điều cần truy cứu thêm. Nên trong cả hai trường hợp, chúng
sẽ biệt giam cho đến khi nào gần quỵ gục thì mới thả ra.
13.6.15
Người Tù, Chiếc Lon Gô, và Nhà Kỷ Luật
A20 Đỗ Văn Phúc
Sống trong chế độ Cộng Sản hàng chục năm ngoài
miền Bắc trước năm 1975, người dân đã quên đi chiếc bàn ủi để ủi áo quần. Có lẽ
sau khi giặt xong, vài người chỉ biết xếp áo quần lại rồi lót dưới gối cho
thẳng. Vì thế chúng ta thường thấy những cán binh Cộng Sản khi vào Saigon, ăn
mặc luộm thuộm, lùng thùng như những con rối.
Mãi cho đến những năm 78-79, có những anh em tù muốn lấy điểm, đã bày vẽ cho bọn cán bộ việc dùng bàn ủi. Văn minh miền Nam từ chiếc bàn ủi điện đã nhờ chế độ Cộng Sản, tụt xuống bàn ủi than mà chúng ta còn nhớ hình thù thô kệch với con gà trống trên đầu mũi để làm cái khoá mở ra đóng vào khi đổ than. Loại bàn ủi này đã biến mất những năm cuối thập niên 1950. Có còn chăng, hoạ hoằn là ở vùng nông thôn heo hút.
Bọn cán bộ Cộng Sản thì dĩ nhiên không dám nghĩ đến việc xa xí là sắm một cái bàn ủi than này. Lo chi, đã có bọn tù khốn kiếp bày mưu tịch thu vật dụng bằng nhôm của tù cải tạo để đúc bàn ủi xài tạm.
12.6.15
Trại Tù A-20, Xuân Phước
A20 Đỗ Văn Phúc
Trại A-20 được
thế giới biết đến nhiều như một trại giam man rợ nhất. Ngay cả trong danh sách
những tù nhân mà các chính phủ, hội đoàn đã và đang tranh đấu với Cộng Sản Việt
Nam để được trả tự do, trại A-20 vẫn chiếm hàng ưu tiên một. Trại A-20 từng
giam giữ những chiến sĩ Ðoàn Viết Hoạt,
Phạm Trần Anh , các vị thượng tọa, đại đức, linh mục tranh đấu cho nhân
quyền như Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn
Vàng, Nguyễn Quang Minh. Ðây là một trại tù trừng giới ở miền Nam nơi
giam giữ lâu dài những anh em quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà được chúng liệt
vào thành phần bất trị, các bạn chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ sau ngày
30-4, và đám tù hình sự mang án chung thân hoặc tử hình. Ðã đến đây thì chẳng
ai nghĩ đến ngày về nữa. Ngay cả trong giấc ngủ, cũng chẳng mơ được chuyện
thoát ra khỏi trại. Muốn biết thêm về trại A-20, quý vị có thể tìm đọc trong “Hồi
Ký 26 Năm Lưu Đày” của Thượng Tọa Thích
Thiện Minh, Chủ Tịch Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam;
“Trại Kiên Giam” của Nguyễn Chí Thiệp;
“Đoạn Trường Bất Khuất” của Phạm Trần
Anh; và nhiều bài của Vũ Ánh đăng
trên nhật báo Người Việt hay nguyệt báo KBC Hải Ngoại.
10.6.15
Hồi Ức của cựu tù A20 Lê Ngọc Vàng
Bài của tù nhân chính trị 20 năm Lê Ngọc Vàng (Z30A Xuân Lộc,
A20 Xuân Phước & Đầm Đùn Thanh Hóa) - nhuận sắc bởi Thư Viện Phạm Văn Thành - tháng 5/2015
Đấu tranh
Đất Nước Việt Nam trải qua gần thế kỷ, quằn mình gánh chịu nhiều nỗi tang
thương và mất mát.
Dân Tộc Việt Nam phải chịu đắm chìm trong tủi nhục, bị đàn áp, bắt bớ tù đày,
nhà tan cửa nát, gia đình ly tán, thậm chí đến giờ phút nầy vẫn còn người bỏ
nước ra đi, không ít người chết nơi đất khách quê người !!!
Từng chặng đường lịch sử của dân tộc từ sau hiệp định Geneve 1954, đến nền đệ
nhứt, đệ nhị Cộng Hòa cho tới chế độ Cộng sản, một quãng thời gian dài để cho
chúng ta suy nghĩ ??!
Có phải Dân Tộc Việt Nam ôm nỗi trông chờ và khát khao cho xứ sở một cuộc Cách
Mạng càng xa thăm thẳm?!!!
5.6.15
“Ông Be” - chuyện người tù A20 bất khuất 33 năm trước
Với những ai đã từng biết những quái ác tàn độc của những trại tù trong hệ thống nhà tù cải tạo dày đặc tại Việt Nam sau biến cố Saigon thất thủ 30 tháng Tư năm 1975… đều không chút ngạc nhiên về cách thế xưng hô bắt buộc do kẻ thắng trận là Việt cộng miền Bắc bày ra giữa tù nhân cải tạo (quân cán chính VNCH) với quản giáo (Việt cộng) ở những trại giam tù cải tạo trên toàn quốc sau tháng Tư đen 1975.
Tù nhân bị buộc phải gọi cán bộ quản giáo bằng cán bộ, hay bằng “ông” [“ông”: ở các trại tù Phú Túc (quận Hiếu Đức nay VC nhập chung vào thành quận Hòa Vang), trại An Điềm (Đại Lộc), trại Sườn Giữa (thuộc trại An Điềm nhưng cao hơn, xa hơn An Điềm và nước độc hơn), trại Tiên Lãnh (quận Tiên Phước)… thuộc vùng ngược miền núi tỉnh Quảng Nam đầy hiểm trở và ma thiêng nước độc), và tự xưng là tôi… dù “ông” đó tuổi chưa đáng tuổi con của những tù nhân VNCH vừa bại trận.
“Ông Be”, chính là tù nhân chính trị A20 còn rất trẻ, cho tới ngày anh bị tà quyền xử bắn 1982 chỉ mới ba mươi tuổi… nhưng sao lại được anh em chiến hữu đang ở tù lẫn bọn cán bộ quản giáo trại tù khét tiếng tàn ác Thung Lũng Tử Thần này gọi bằng ÔNG sau khi bị xử bắn vì vượt ngục???
4.6.15
Trước giờ vĩnh biệt !
(Kính tặng hương hồn các anh em đã bị xử tử
hình
tại Bình Điền, Quảng Nam và Phú Yên
Đặc biệt tưởng nhớ Kiều Đình Thanh, Tạ Hồng Nhạn, Phạm văn Be ...)
Anh ra đi không một lời từ giã
Tôi nghẹn ngào bên vách đá thâm u
Kỷ niệm nào ròng rã mấy mùa thu
Đã sống bên nhau trong lao tù Cộng sản
Rồi giờ đây trên con đường sứ mạng
Anh đến pháp trường bỏ lại một mình
tôi
Tiếc thương anh tôi nói chẳng nên lời
Ôm vách đá rong rêu còn hơi ấm !
Cũng nơi đây đã bao lần máu đẫm
Những trận đòn như thịt nát xương tan
Thôi hết rồi đâu còn thủa dọc ngang
Đường Cách mạng nửa đường anh gãy cánh !
Bỏ lại đây suốt cùm trong khám lạnh
Mới ngày nào hai đứa xích cùng nhau
Chia sẻ từng hạt muối cọng rau
"Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ
"
Tình chiến hữu luyến lưu là thế đó
Mà giờ đây anh vội bỏ đi rồi
Tôi nuốt hờn sao lệ vẫn trên môi
Hồn tấy máu !
Tiễn anh
giờ phút cuối
Chốc nữa đây anh trở về cát bụi
Có lẽ nào !.. hay Thượng đế bất công ...
Nghe hung tin - Cả dân tộc đau lòng
Tựa núm ruột của mình dao ai cắt !
Vợ con anh lệ nhòa trong giếng mắt
Tiễn đưa chồng không kịp mặc áo tang
Than than ôi ! Đã gãy cánh chim bằng
Chọn cái chết hiên ngang giòng kiêu hãnh
Anh đã bước theo tiền nhân dũng mãnh
Đem máu mình tô đất Mẹ thân yêu
Tôi ngồi đây trong ngục tối sáng chiều
Qua lỗ gió chắt chiu lùa nỗi nhớ
Có phải Anh đang về trong hơi thở
Thăm bạn hiền hay nhắc nhở điều chi
Vâng - tôi nghe Anh gọi: Dậy mà đi
Dậy nối tiếp chặng đường Anh dang dở
Tôi đã thấy bên kia trời rực rỡ
Ánh bình minh đang nở nụ môi hồng
Nắng xuân về xua giá lạnh đêm đông
Đời trỗi dậy như thành đồng bất tử
Tên của Anh đã đi vào lịch sử
Nhưng giống nòi giữ mãi một niềm thương
Anh đi quét sạch màu sương
Ngày mai nắng ấm quê hương thanh bình
Chia tay giữa chốn ngục hình
Vắt hồn rướm máu khúc tình non sông.
A20 Vũ Bình Nam
1993 A20 Phú Yên
3.6.15
Đêm vượt ngục!
(tưởng niệm anh Phạm Văn Be cùng các bằng hữu
đã hy sinh trong cuộc vượt ngục 1981.)
Ai đã thấy ngang trời rực lửa
Bóng mây vờn cây lá chốn hoang vu
Ai đã nghe tiếng đất rít căm thù
Đêm vượt ngục lòng tôi ghi nhớ mãi !
Một người bạn đã nghìn thu ở lại
Khép mi sầu miên viễn giữa đồi hoang
Quốc dân ơi, đây rừng núi Trường Sơn
Quốc dân ơi, đây tù ngục chứa căm hờn
Đây xiềng xích những người yêu tổ quốc
Yêu độc lập tự do, yêu hạnh phúc
Yêu tương lai dân tộc giống Tiên Rồng !
Đêm nay gió thổi lạnh lùng
Rừng thiêng sương trắng phủ trùm sơn khê
Âm vang rờn rợn bốn bề
Kìa bao chính khí bay về Trường Sơn
Đêm nay mưa đổ từng cơn
Phải chăng tiễn một linh hồn ra đi...
Ai đổ lệ phân ly
Ai rượu nồng tiễn biệt
Có gì đâu !
Một kiếp lưu đày !
Mộ hoang một nấm sơ sài
Cỏ tàn hoa dại tháng ngày tiêu sơ
Nào ai sương khói sớm trưa
Từ đây phó mặc gió mưa phũ phàng
Đêm nay mười sáu tháng năm
Suối vàng anh đến nhà giam tôi cùm.
Anh nằm xuống nơi này
Nghìn thu - thôi vĩnh cách
Chúc hồn người thiên cổ
Miền cực lạc siêu thăng
Chúng tôi còn ở lại
Nói làm sao hết khó khăn
Đòn thù tơi tả
xác thân rã rời .
Gian nan nào xá anh ơi
Xà lim cùm thép trò chơi mạt đời...
Nấu nung chí vững gan bền
Hẹn ngày vùng vẫy báo đền non sông.
A20 Bảo Giang Lê Văn Triệu
1981-1993
2.6.15
Phạm Văn Be, bậc yên hùng của A20
... anh hùng tử, khí hùng bất tử !
Nguyên quán Bến Tre. Tử hình tháng 2/1982.
Trại Viên A20 Lập Mộ !
"Anh nằm xuống
sau một lần đã đến đây..."
1.6.15
Cái Trọng Ty với "Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển"
A20 Trần Yên Hòa
Tôi biết Cái Trọng Ty từ những ngày ở Trại Cải Tạo Suối Máu. Anh
ở nhà 1, tôi ở nhà 8. Giữa 2 dãy nhà có một sân bóng chuyền, nên buổi
chiều tôi thường hay ra đây đánh banh độ. Cái Trọng Ty không chơi banh,
nhưng là một ủng hộ viên đắc lực. Ủng hộ đây có nghĩa chỉ là đứng xem rồi
vỗ taycổ vũ một khi có một đường chuyền hay một cú bỏ bóng đẹp. La ó và
vỗ tay râng trời là của đám đứng bên ngoài. Chuyện vui ở trại
cải tạo chỉ có thế. Anh là bạn của Hải cà (Hải sau này ra Xuân Phước trốn
trại bị bắt lại, bị biệt giam gần năm trời). Hải cà là bạn với Cái Trọng
Ty, cùng người Huế. Tôi quen với Hải từ ngày làm ở Bộ Tư Lệnh QĐI &
QK1, nên qua Hải tôi quen Cái Trọng Ty.
Thật ra, quen là chỉ quen vậy thôi, biết mặt nhau, chào hỏi nhau
vài câu chứ không thân lắm. Nhìn gương mặt và con người Cái Trọng Ty rất
thật thà, giản dị, có lẽ anh lớn hơn tôi mấy tuổi. Những lần gặp nhau như vậy
chỉ trao đổi những chuyện tào lao xịt bợp, không đâu vào đâu. Không
bao giờ và chưa bao giờ nói với nhau một tiếng về "Thơ" cả.
Mãi đến những ngày sau này, khi tôi đã qua Mỹ, đã góp một ít bài
viết trên các báo, tạp chí…Và khi tôi tìm gặp lại được ông thầy dạy cũ, ngày
trung học của tôi ở trường Trần Cao Vân, Tam Kỳ, là nhà văn, nhà thơ Trần Hoài
Thư, và cả đến khi Trần Hoài Thư làm chủ biên Thư Quán Bản Thảo, tôi mới gặp
một tác giả ký tên là Cái Trọng Ty, đã có những bài thơ rất hay đăng ở
đây. Cái Trọng Ty nào vậy cà? Có phải là Ty bạn tù với mình không? Nếu
một cái tên như Dũng, như Quang, như Hoàng chẳng hạn, thì có thể trùng nhau
được, nhưng một cái tên Cái Trọng Ty…một tên rất lạ, khó có thể ai trùng lặp
được.
Rồi sau đó, không biết, tôi tìm anh trước hay anh tìm tôi
trước…Hình như anh đã gởi bài cho Web Bạn Văn Nghệ của tôi, và từ đó chúng tôi
nối kết tình Thơ với nhau…Đến một ngày… tháng… năm 2011 thì phải, Cái Trọng Ty,
đi dự Đại Hội cựu tù Suối Máu ở San Jose, và anh về Nam Cali thăm khu Little
Sài Gòn, tôi mới gặp lại anh ở khu Phước Lộc Thọ…đúng là Cái Trọng Ty, người
bạn tù của tôi…cũng gần hơn 30 năm mới gặp lại…một người.
Bây giờ xin vào đề:
Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển.
Trước đây, Cái Trọng Ty có làm một CD Thơ của anh, với những giọng
ngâm khá nổi tiếng ở VN như Hồng Vân, Ngô Đình Long…nghe cũng rất hay, nhưng
lời ngâm thường thoáng qua tai nên không thấm bằng đọc, nên lần này, Cái Trọng
Ty gởi biếu tôi tập thơ đầu tay của anh Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển, tôi đọc
chăm chỉ hơn, trân trọng hơn, nên nay tôi xin viết ít lời giới thiệu cùng độc
giả xa gần.
Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển là tập thơ đầu của Cái Trọng Ty.
Sách do Thư Ấn Quán xuất bản tháng 4 năm 2015. Tranh bìa của họa
sĩ Đinh Cường. Trình bày bìa: Phạm Cao Hoàng. Tranh phụ bản: Đinh Cường, Thân
Trọng Minh.
Sách dày 175 trang, in đẹp với bìa láng, gồm khoảng 66 bài thơ của
Cái Trọng Ty và Phụ trang gồm bài của 3 tác giả viết về Có Một Mùa Trăng Xa
Như Biển là Phạm Văn Nhàn, Phan Xuân Sinh, Lương Thư Trung.
Trước tiên, qua lời Giới Thiệu của Nxb Thư Ấn Quán (hay của nhà
thơ Trần Hoài Thư) như sau:
“Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển” là những nỗi niềm của một người
lính cũ miền Nam.
Chỉ một câu ngắn như vậy là tôi đã thích rồi, bởi vì tôi cũng là
một người lính cũ miền Nam.
Thôi thì đọc tiếp theo để nghe Trần Hoài Thư viết gì
thêm:
Nó như có ma mị dẫn dắt người yêu thơ đi trên con thuyền “Thơ” của
một người lính một thời cầm súng, một thời tù đày. Nó như dòng sông thơ
bất tận chảy mãi. Khi thì tình yêu bao dung bát ngát vô lượng. Khi thì dào
dạt tình đồng đội thủy chung. Khi thì uất nghẹn như bật lên trên những
giọng rỉ máu, đau xót đến tận tâm can. Khi thì hào khí ngang tàng của một thời
ba lô và nón sắt….
Như vậy đây chính là thơ của một người lính cũ, người chiến hữu
của tôi. Để coi vào tập với bài đầu tiên:
Đó là bài:
Tháng tư bẻ súng.
Bởi tình tụ tán từ muôn kiếp
trăng nửa phần trôi trôi lênh đênh
chiều quanh bếp muộn thềm thôn vắng
cuộc rượu đêm tàn vỡ chén xưa
Lương Sơn xa lắc đồi rỉ máu
ngựa cuồng quay quắc chiến trường xưa
đồng đội cũ đâu lưng nỗi chết
ngẫm chung thân cuộc thế phiêu du
biển gầm núi hú quân tan rã
….
(trang 7)
Đó là tháng tư bẻ súng chứ không phải là tháng tư gãy súng. Hành
động bẻ súng là hành động của mình, mình tự làm bởi vì quanh quẩn quan quân đã
tan tác…thì còn giữ súng làm gì. Tôi nghĩ hành động bẻ súng là một hành động bi
thương, kèm trong nổi thất vọng khôn cùng về những ngày cuối của cuộc chiến
tranh Việt Nam trước 30-4-1975.
Quân về xuôi tan tác phương Nam
mịt mờ chiến trận
mây lửa mông mênh
chênh vênh biển dựng sóng phù hư
tình chiến chinh một đời tan vỡ
(trang 8 & 9)
Đó là nổi đau thương của người lính thua trận, là tiếng thét tuyệt
vọng trước khi qụy xuống, cả một triệu lính với mọi sắc áo mà phải bẻ súng như
vậy sao?
Tiếp theo là những bài thơ như là hành trình đời lính
của Cái Trọng Ty. Đời lính xô giạt anh và bè bạn nổi trôi khắp chốn, từ Tuy
Hòa, Kontum, sông Mao. Những bè bạn Lý đui, Cường đakao, Phong quá tải, bên bàn
rượu, ngoài kia là chiến trận:
Chuyện trời ơi
chuyện gái gù râm ran
những con người
những cái chết như mây
những kiểu chết nhẹ hều như gió
(trang 11)
Đó là một trong những người lính một thời của Cái Trọng Ty. Đọc
đến đây, tôi tự nhiên thương mình, thương bạn. Ừ thì chúng ta cùng gặp
nhau ở một mẫu số chung, là ngày xưa cùng là lính, cùng biên cương hành đâu
có khác nhau đâu.
Thêm một bài thơ tôi rất thích:
Đời lính
ném ba lô quăng luôn nón sắt
ta thở phào duỗi thẳng đôi chân
nghìn cân gánh nặng vừa buông xuống
chiều Tuy An chờ đợi chuyển quân
anh bạn chiến trường thèm xị đế
sương chiều trắng sữa nhớ làng quê
xa nghe âm vọng gầm sắt thép
thần chết chờ mi góp núi xương
gió xoay lửa khói mùi hung khí
mìn bẫy địch gài trên lối đi
mấy khi còn sống không thương tật
vợ con thôi thế cũng đành thôi
người về con nước tràn sông Lũy
những địa danh nặng nợ máu xương
anh bạn xác vùi trong túi xách
ta đưa người về tận cố hương
ta người chia chác đời cơ cực
sống cũng như mây chó cỏ thi
chiều qua đụng trận vùi thân xác
thịt xương tan mồ mả ích gì
đời lính nở tàn như nấm rạp
sớm triền đông chiều chết đồi tây
trượng phu ghê gớm cây trụi lá
tình em đành níu đám mây qua
(trang 113, 114)
Tôi đã qua đời lính, đã từng đi hành quân, đã là một người lính
trận, đọc bài thơ này mới thấy thấm thía một nỗi buồn của người lính tác chiến. Thơ
Cái Trọng Ty viết về người lính không hô xung phong, không kèn xung trận, không
kêu gọi bắn giết, không khẩu hiệu gì cả. Đó là thân phận của một con
người, giữa cái chết và sống, giữa còn và mất, của xác thân. Nó mang nổi
buồn thê thiết của một kiếp người “sớm triền đông chiều chết đồi tây”.
Thơ Cái Trọng Ty mang mang một nỗi buồn, chàng nhìn đời bằng con
mắt vô ưu của kiếp người vô thường, cả trong tình yêu trai gái, với anh, với
thơ anh, là những câu chữ hiền hòa, nhỏ nhẹ, như tiếng kinh bát nhã, như bài
kệ…tất cả chìm ẩn trong sương khói mơ hồ, dù bên đời bao nhiêu chuyện xảy ra,
như bài lục bát mắt bão sau đây:
khởi duyên từ cội vô thường
em duyên hạt bụi thiên phương dặm đường
nòi tình một đóa hồng dương
tiếng mơ hồ gọi vô phương kiếp người
buổi thế gian lạnh tiếng cười
thân tôi ở trọ đười ươi cố cùng
em đi xa khuất hoài dung
tìm em khắp chốn trên vùng dôc mơ
Khắp tập thơ Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển là
những tấu khúc êm đềm, nhẹ nhàng và rất thơ như thế.
Tôi đọc những bài thơ của Cái Trọng Ty trong một buổi chiều sau
30-4. 30-4.15 gợi tôi nhớ vế bốn mươi năm trước, những ngày thất vọng nhất
của người lính bại trận. Hôm nay đọc những lời thơ của Cái Trọng Ty, tôi
thấy lòng mình thanh thản hơn, nó như có một phù phép nào đó lôi tôi ra khỏi
cơn mộng dữ 40 năm. Thơ Cái Trọng Ty làm cho tôi tỉnh lại, như người vừa đi qua
những chặng đường gai lửa, tôi đã an nhiên, tự tại và êm đềm theo những
câu thơ của anh.
Tập thơ Cái trọng Ty đã dẫn tôi đi suốt những chặng đường anh đã
đi qua, những địa danh miền trung nước Việt, từ Lương Sơn, Phan Rí, Phan Lý
Chàm, Trảng Táo, Chợ Lầu, Bình Định, Phú Phong, Sông Côn…những địa danh tôi chỉ
nghe tới chứ chưa đến bao giờ. Bây giờ đọc lên nghe thấp thoáng những hình
ảnh quê hương rất cảm động.
Cảm ơn Cái Trọng Ty cho tôi được đọc những bài thơ rất đẹp của
anh, lời thơ anh nhẹ gọn, không cầu kỳ, nhưng không phải anh không có những từ
hay và mới.
Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển chỉ in để biếu chứ không bán, bạn đọc yêu thơ
khắp nơi muốn có một tập thơ hay, in đẹp, xin hãy liên lạc ngay với tác giả Cái
Trọng Ty ở địa chỉ email:
tycai46@yahoo.com
hoặc điện thoại:
(832) 538-2585
Chúc Mừng Cái Trọng Ty đã có một tập thơ hay trình
làng. Mong anh có thêm những đứa con tinh thần xuất sắc trong tương lai
nữa, nhé.
Tình thân.
Trần Yên Hòa
1.5.2015
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)