27.6.12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Phần mở đầu



Phần Mở Đầu

Quyết định không ra đi trước ngày 30-4-75 là một quyết định sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi phải trả một cái giá đắt gồm 16 tháng trốn lánh trong lo âu hồi hộp, 12 năm đầy đọa từ nhà tù này đến nhà tù khác, một lần vượt biển và một năm rưỡi ở trại tỵ nạn.

Tôi mất hơn 15 năm, cuối cùng tôi cũng phải tìm đến Mỹ, điều tôi có thể làm được trước khi miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Vừa đến nơi một người bạn đã cảnh giác tôi - Đừng xem nước Mỹ là một thiên đường - Tôi không hề xem nước Mỹ là một thiên đường - chỉ có ở nước Cộng sản mới có thiên đường vì ở đó có nhiều tầng địa ngục. Tôi đã ở tận cùng các địa ngục đi ra. Tôi không đi tìm một thiên đường, nhưng tôi đã biết là phải chọn giữa một hoàn cảnh cực kỳ xấu và một hoàn cảnh ít xấu hơn, chỉ giản dị thế thôi.

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Tựa



 Tựa

Vài cảm nghĩ và nhận xét về cuốn Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp

Duy Lam
- Tự Lực Văn Đoàn
- Hội viên danh dự INT-PEN
- Giải Thưởng Tự Do Phát Biểu 1992 Hellman - Hammett.

Qua những giai đoạn biến động của lịch sử một quốc gia, thường là những cuộc chiến tranh, những người trong cuộc có thể là những nhà văn, người trí thức, nhà báo, hoặc nhiều khi chỉ là những nạn nhân của thời cuộc và những cuộc tranh chấp, đôi khi chỉ là những người dân bình thường, đã cảm thấy bị thôi thúc bởi ý muốn cầm bút viết lại những kinh nghiệm sống họ đã trải qua.

23.6.12

Một Chuyến Thăm Anh


Đỗ Văn Phúc
(Kính tặng các chị, vợ tù nhân chính trị Việt Nam)

Lắc lư trên chiếc xe đò nêm chật người đã hơn hai tiếng đồng hồ, Thoa cố nhướng mắt chống lại cơn buồn ngủ vì đã gần như thức trắng mấy đêm nay. Con đường từ Vũng Tàu, Sài Gòn ra Ngả Ba Chí Thạnh chỉ vài trăm cây số nhưng phải mất hai ngày mới tới. Một phần do đường sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề mà không sửa chữa; phần do cái phương tiện thổ tả là chiếc xe đò già nua, chạy bằng than đá cứ khục khặc như những cụ già ho suyển đềm mùa đông. Khổ tâm nhất là số lượng hành khách nhồi nhét trên xe còn hơn cá mòi sắp trong hộp Sumaco, cộng với nạn cắp trộm xảy ra ngay trên xe làm hành khách cứ phải cố tỉnh táo, khư khư ôm hành lý vào lòng, từng phút canh chừng người đồng hành bên cạnh, người đồng hành phía sau.

20.6.12

Vĩnh biệt anh Nguyễn Ngọc Đăng



Huỳnh Ngọc Tuấn


Nguyễn Ngọc Đăng


Những ngày này đất nước chúng ta như “cá nằm trên thớt”, người dân tột độ hoang mang lo lắng về tương lai dân tộc. Câu hỏi nhức nhối đang đặt ra: Việt Nam rồi đây có còn là “Minh Châu trời Đông” có còn là: Non sông như gấm hoa uy linh một phương – xây vinh quang ngất cao bên Thái bình dương” hay rồi đây chỉ còn là phiên thuộc của đại Hán?

18.6.12

NĂM RỰA



Tặng mười tám người tù chung thân tại Xuân Phước.
Gửi bà Trần thị Sự chợ Tam Quan, Bình Định


Truyện ngắn của Nguyễn Liệu

Khi đoàn tù hai mươi người từ Kim Sơn đưa vào Phú yên trại Xuân Phước riêng mình tôi bị đưa vào nhà nhốt riêng cùng mười tám người tù có án nặng. “Trâu già không sợ dao phay” nên tôi dửng dưng từ giã anh em, trong khi đó anh em có vẻ lo cho tôi. Vào phòng đặc biệt này, được cái là khỏi đi lao động, tức khỏi bị hạch sách của người dẫn toán tù đi làm việc. Khi bị cấm cố thì mong được đi lao động, nhưng lao động riết rồi lại muốn vào cấm cố cho khỏe tấm thân tù tội. Nhưng thực ra không phải là cấm cố mà chỉ ở riêng trong một khu vườn nhà chung quanh thành cao, cổng đóng kín, không thấy cái xã hội tù bên ngoài. Nói theo cách lập dị kiểu cách “đó là một nhà tù trong nhà tù”. Trong khu đó có cái giếng, tha hồ tắm giặt, nhưng người tù cấm cố ít khi tắm và cũng không có cái gì để giặt. Mười tám người này gần như đồng một tội là tội giết người trong đó có hai người thọ án tử, nhưng sau được giảm thành án chung thân.

15.6.12

Vĩnh biệt anh Trương Văn Sương


Anh Trương Văn Sương

Mấy hôm nay, kể từ ngày anh Trương Văn Sương về cõi vĩnh hằng, có rất nhiều người thương tiếc anh, viết về anh trong đó có bài của luật sư Nguyễn Văn Đài và anh Nguyễn Ngọc Quang rất cảm động. Nhưng tôi vẫn bâng khuâng hình như thiếu vắng một cái gì đó.

14.6.12

TRONG SƯƠNG MÙ XUÂN PHƯỚC !




                                                                                          Ý Cơ
(A20 Vũ Trọng Khải phu nhân)

Viết cho ngày Hội Ngộ A-20 kỳ hai (1/7/2012)

                                                                        lũ chúng ta, cứ bù đầu chật vật
                                                                   sống sót nên đành kiếm nhau hụt hơi
                                                                    để tiếc, để thương, để nhắc một thời
                                                                 cắn răng nén nhục mười năm xiềng xích
                                                              (NTK “Rót cho người xa xứ”. 29/5/2012)


          Mấy tháng vừa qua, với những emails, với những hẹn hò qua điện thoại viễn liên, hay các buổi gặp mặt thăm viếng, bàn tính, rủ nhau đi tham dự Ngày Hội Ngộ kỳ 2/ A. 20 của chồng tôi và các bạn, những cựu tù nhân chính trị của trại giam A. 20 Xuân Phước khi xưa, đã làm xao động nhiều cảm xúc trong tôi, gợi nhớ về thời gian đi thăm nuôi chồng tù tại khu trại này.

 Trôi theo dòng lịch sử của đất nước, biến cố tháng 4 năm 1975, các anh đã từ mọi miền đất nước bị đưa đẩy gặp nhau trong không gian âm u của núi rừng Phú Khánh, nơi có một trại tù mệnh danh “TRẠI TRỪNG GIỚI” với nhiều phân trại khác nhau, nằm sâu trong thung lũng Xuân Phước, nơi đó  sau này được mang tên: “Thung Lũng Tử Thần !”

Tháng Tư về



Cứ mỗi lần tháng tư về là tiết trời bắt đầu oi bức, những cơn gió Nồm từ biển thổi vào cũng không làm sao xóa tan được cái cảm giác khô nóng của mùa hè. Tôi đi dọc theo bờ sông Bàn Thạch nhìn dòng nước đục ngầu uể oải xuôi về Đông, mang theo nó là những rác rến, xác chết súc vật và rất nhiều những thứ bẩn thỉu khác.

Trên bờ sông này trước đây là xóm làng trù phú, yên tĩnh và trong lành với rừng cây sưa tỏa bóng. Mỗi lần tháng tư về hoa sưa vàng rực một khoảng trời, mùi thơm dịu dàng quyến rũ, làm cho tôi ngày ấy – một cậu bé nhiều mơ mộng choáng ngợp trước vẻ đẹp rực rỡ của thiên nhiên mùa hè thường hay đứng ngẫn ngơ nhìn và suy nghĩ vu vơ… tháng tư về sân trường rộn ràng tiếng ve, khúc nhạc cất lên cùng giai điệu từ thưở ban sơ cho đến mãi mãi vô cùng, trong lòng các cô cậu lúc này chùng xuống một nỗi buồn nhè nhẹ, khi những cánh phượng hồng  chớm nở trên sân trường, trên đường đi học.

Về thăm trại cũ



Vượt Trà Bương ta về Kỳ Lộ
qua La Hai đứng ngó bóng tàu
núi chập chùng, núi dựng trên cao
giữa thung lũng trại thù còn đó

11.6.12

Tiếng Gọi Thanh Niên



Tổ quốc đang lầm than nguy biến
Bạo quyền còn ngày ngày phá non sông
Là thanh niên của giòng giống Tiên Rồng
Sao chấp nhận khoanh tay ôm nhục nước?

Máu đã chảy bao đời trên đất nước
Ðầu đã rơi chất chật giải Trường Sơn
Bốn ngàn năm ý chí vẫn không sờn
Chỉ biết đứng – không cúi đầu nô lệ.

Sẵn sàng chết mở đường cho hậu thế
Sẵn sàng đi khi tổ quốc kêu mời
Ðường đấu tranh không mỏi gối chùn chân
Làm Cách mạng không nề hà gian khổ.

Dân tộc sống trên bom gầm đạn nổ
Tôi luyện mình máu lửa đã từng quen
Cũng đã từng vinh nhục biết bao phen
Quyết đứng dậy vươn mình ra phía trước,

Phá xích xiềng để đền ơn Ðất nước
Mượn nhà giam thao lược chí hùng anh
Bàn tay không đi phá lũy đạp thành
Hai chân đất tung hoành trên bốn bể.

Dòng lịch sử đã kiêu hùng như thế
Hỡi Thanh niên – thề nối bước tiền nhân
Dậy mà đi – Tổ quốc gọi bao lần
Vì Dân tộc đang cần – Ta tranh đấu
Vì Dân tộc đang cần – Ta tiến tới.

A20 Vũ Đình Thụy - Hướng Dương
(A20 1994)



4.6.12

Xuân Muộn


 Mùa xuân năm nay đến muộn, mãi đến 13 tháng giêng âm lịch mới lập xuân. Những ngày Tết trời lạnh và u ám, mưa lất phất bay, hình như mùa đông vẫn còn ngự trị, các chàng trai cô gái co ro trong những bộ áo quần mới, họ ngồi nhìn mưa, liên tục cắn hạt dưa và chuyện phiếm, trong những câu chuyện đó tôi nhận ra phảng phất một nỗi buồn về một tương lai thiếu vắng niềm tin nơi bản thân và xã hội. 

Về bản thân, những chàng trai cô gái này cảm thấy bất an, vì sau những năm dài miệt mài trong trường Đại học, với những gói mì tôm lót lòng là thường trực, sinh hoạt tù túng trong căn phòng trọ chật hẹp, ẩm thấp vào mùa đông, nóng bức trong mùa hè, vẫn còn ám ảnh và còn đó những khoản vay từ ngân hàng, từ bà con họ mạc chưa trả được, vẫn còn đó nỗi lo lắng của cha mẹ khi một năm trôi qua rồi kể từ ngày hân hoan đón nhận cái bằng tốt nghiệp mà công việc vẫn ngoài tầm tay với. 

26.5.12

Hồi ức về nhà tù cộng sản Việt Nam



A20 Huỳnh Ngọc Tuấn




Kính tặng anh Nguyễn Ngọc Đăng

Các anh các chú đã từng đi qua những nhà tù Xuân Phước-Thanh Hóa-Nam Hà
Kính nhớ Bác sĩ Nguyễn Kim Long, chú Nguyễn Trưởng, anh Nguyễn Văn Bảo, anh Đỗ Hườn

Những người đã nằm xuống trong nhà tù Cộng sản Việt Nam vì những giá trị Dân chủ Nhân quyền.

Huỳnh Ngọc Tuấn

 
*****


(Phần 1)
Miền Trung Việt Nam bây giờ là chớm đông với những cơn mưa trút nước. Cánh đồng trước mặt một ngày trước đây mướt xanh màu lúa non, bây giờ đã mênh mông nước bạc. Những con đường nhỏ ngập ngụa trong bùn và rác…chẳng đi đâu được, đọc sách hoài cũng chán, mở tivi ra thi cứ toàn phim Tàu và những lời lẽ tuyên truyền cũ rích nhai đi nhai lại. Chỉ còn biết ngồi nhìn mưa và vừa nhận được email từ Úc: Ông bạn Nguyễn Ngọc Đăng đang bị ốm. Lòng buồn rười rượi. Bao nhiêu kỷ niệm lại quay về.

Trại giam Xuân Phước - Phú Yên, mùa đông 1994

Những cơn mưa nhỏ lất phất, trời không lạnh, những người tù chính trị chúng tôi trong đội 12 vào nghỉ giải lao trong một căn nhà lợp lá dừa. Cũng không phải là nhà vì chỉ có mái che, chung quanh không có phên vách gì.
Tôi - một người tù chính trị còn rất trẻ và mới toanh, lúc đó tôi mới 35 tuổi, tìm một chỗ khiêm tốn giữa những bậc trưởng thượng. 


12.4.12

Trại Trừng Giới A20


A20 Tống Phước Hiền

Kính thưa quý bạn đọc,

Những ngày hôm nay, 37 năm về trước, quê hương chúng ta đang đứng trên bờ vực nguy khốn. Bây giờ nhìn lại, chúng ta không khỏi ngậm ngùi thân phận quê hương, gia đình và chính chúng ta. Buồn đau thật nhiều, trách bạn và cũng trách chính mình!

Đây là thời gian, chúng ta nhìn về quá khứ , nhìn về quê hương trầm thống. Chúng ta cần bình tĩnh nhận định lại để tìm phương kế giải cứu quê hương.

Đã quá đủ cho những giòng lệ rơi vì tang tóc, nghiệt ngã, đoạn trường vì non sông trong  tay tay nội thù cộng sản Việt Nam.

Quê hương đang cần chúng ta hành động!

11.4.12

Thiên thần trong ngục tối: “Long Bô”



A20 Phạm Đức Nhì 


        Tôi vừa cầm ly nước mía lợn cợn đá mát lạnh đưa lên miệng thì giật mình tỉnh dậy. Cơn mơ bị gián đoạn. Có tiếng lao xao nói chuyện của cán bộ Tri an ninh và mấy tên trật tự. Và tiếng lọc cọc mở cửa xà lim số 1 và số 2. “Sao lại mở cửa xà lim giờ này?” Tôi tự hỏi. Cơm chiều đã phát, tôi đã cho vào bụng lâu rồi. Tính đến hôm nay tôi đã nằm chịu sự đày đọa của Thân Yên (1), Lê Đồng Vũ (2) và đám cán bộ an ninh, trực trại được 16 ngày. Bao phủ bởi cái khí lạnh mùa đông của đồi núi miền trung, lại chỉ có trên người phong phanh một bộ đồ tù mỏng dính, tôi ngồi co ro tê cóng trên bệ đá. Sự thiếu nước lưu cữu (mỗi ngày chỉ được phát nước 2 lần, mỗi lần 2 muỗng canh nhỏ cùng với lúc phát cơm) đã làm môi tôi khô rát, cổ đắng ngắt; chợp mắt một tý là lại mơ uống nước mía Viễn Đông (3) hoặc ăn thạch chè Hiển Khánh (4). Mỗi bữa chỉ có 2 muỗng cơm nên hậu môn của tôi đã ngừng hoạt động được 15 ngày (ngày đầu tiên phải làm việc để tống khứ những thức ăn cũ có sẵn trong bụng.)

10.4.12

Các bạn A-20 thân quí,


         Sau cuộc họp mặt lần đầu tiên ở Little Saigon, có một vài bạn tù của chúng ta ở các trại khác hỏi tôi như thế này: "Bộ các anh hãnh diện vì cái tên trại giam của bọn đỏ hay sau mà lấy cái tên A-20 đặt trước tên của các anh". Tôi biết những người bạn của chúng ta hơi "bảo hoàng hơn vua" cho nên hỏi cắc cớ như vậy. Nhưng tôi mạn phép các bạn A-20 trả lời như thế này:
 "Những người nào chưa sống ở trại trừng giới hay còn gọi là trại Kiên Giam A-20 thì chưa hiểu được rằng cái trại này, nếu không có gì thay đổi từ bối cảnh bên ngoài, sẽ là nấm mồ tập thể của chúng tôi. Có thể nói, không trại nào có những đòn phép được chắt lọc từ những bộ óc siêu phàm của Cộng Sản về cách giết người từ từ và làm cho người tù cải tạo chết từ từ chỉ với hai chiêu sau đây: ăn thật đói, làm việc thật nặng, ốm đau không có thuốc, dồn người tù vào cảnh đói khát để mong chúng tôi kiệt sức dần dần, mất cảnh giác sẽ giày xéo nhau. Nhưng, chỉ một số rất nhỏ trường hợp, có thể vì hoàn cảnh hay không chịu được sự hành hạ, nên mới hư đốn, còn đa số tuyệt đối anh em A-20 vẫn vững tin,  đi thẳng lưng và sẵn sàng trả giá để bảo vệ nhân cách của mình. Và cho đến nay, mỗi khi nhắc tới một người tù nào của trại A-20, anh em chúng tôi vẫn còn nhớ rất rõ chúng tôi là ai, sống như thế nào trong trại giam, đã siết chặt tay nhau trước kẻ thù ra sao. Những A-20 chúng tôi khi nói với các con đã khôn lớn của mình không ngượng miệng: Bố là A-20".       

11.3.12

Không Thể Tình Cờ



(gởi hiền thê P.T.)

Anh cứ trách cho lòng em dậy sóng
Cho nỗi buồn dừng lại giữa câu thơ
Dẫu hiếm hoi nhưng không thể tình cờ
Em chợt thấy đâu bến bờ thương nhớ

Dù sự thật đó là điều đáng sợ
Ðã cho em bao khốn khổ không cùng
Nhưng nếu đời là một mẫu số chung
Thì chắc lẽ mình cũng cùng số phận

Nên em đã không ngại ngùng chấp nhận
Xích xiềng kia thôi cũng chỉ tầm thường
Bởi anh là biểu tượng của quê hương
Là dáng đứng trên đường em bước đến

Là ánh sáng của muôn ngàn ngọn nến
Dìu em qua cùng với trái tim người
Với nụ cười của cha ông
Của từng giọt máu trên sông Bạch Ðằng.

Hướng Dương - A20 Vũ Đình Thụy
(A20 Phú Yên 12/1993)




22.1.12

CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÙ TRƯƠNG MINH NGUYỆT


Cảm hoài

Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo, đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma


Dịch thơ:
1.
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng Nguyệt biết bao rày.
2.
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
3.
Tuổi về già, phải thời bối rối,
Cả đất trời một hội mê say,
Gặp thời kẻ dở nên hay,
Anh hùng lỡ vận, đắng cay trăm phần.
Lòng cứu chúa muốn vần trái đất,
Gột giáp binh khôn dắt sông trời.
Thù còn đầu đã bạc rồi,
Mấy phen dưới Nguyệt chuốt mài lưỡi gươm.
4.
Thế sự ngổn ngang tuổi luống rồi,
Đất trời thu lại hát say thôi,
Anh hùng nuốt đắng khi tàn vận,
Đồ điếu nên công lúc gặp thời.
Giúp chúa rắp tâm nâng trái đất,
Rửa binh khôn lối kéo sông trời.
Quốc thù chưa báo đầu mau bạc,
Bao độ gươm mài bóng nguyệt soi.
5.
Việc thế lôi thôi tuổi tác này,
Mênh mông trời đất hát và say,
Gặp thời đồ điếu thừa nên việc,
Lỡ vận anh hùng luống nuốt caỵ
Giúp chúa những lăm giằng cốt đất,
Rửa dòng không thể vén sông mây.
Quốc thù chưa trả già sao vội,
Dưới Nguyệt mài gươm đã bấy chầy.
6.
Tuổi già lận đận nỗi tình đời,
Vô tận vần xoay khoảng đất trời,
Ti tiện gặp thời lên chẳng khó,
Anh hùng lỡ bước hận nhiều thôi.
Vác non phò chúa trên vai nặng,
Gột giáp qua mây mặt nước trôi
Thù nước chưa xong đầu sớm bạc,
Dưới trăng mài kiếm mấy thu rồi.
7.
Thế cuộc mênh mang tuổi sớm già,
Đất trời thu lại chỉ say ca,
Gặp thời đồ điếu thành công dễ
Lỡ vận anh hùng nuốt hận đa.
Giúp chúa những mong nâng địa trục,
Rửa binh không lối kéo thiên hà.
Quốc thù chưa trả đầu mau bạc,
Bao độ mài gươm dưới nguyệt tà.
8.
Việc lớn chưa xong tuổi đã già.
Đất trời thu gọn, tiệc ngâm nga
Gặp thời, bần tiện thành công dễ
Lỡ vận, anh hùng dạ xót xa
Giúp chúa những mong xoay trục đất
Rửa dòng không lối kéo thiên hà
Quốc thù chưa trả đầu đã bạc
Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà.
9.
Việc dở dang, há vội già!
Mênh mang trời đất ta bà khúc say.
Ðược thời, hèn mọn có ngày,
Vận thua, hào kiệt đắng cay nỗi lòng.
Những toan giúp chúa trùng hưng,
Hận sao chẳng sức níu sông Ngân Hà .
Hai vai nợ nước thù nhà,
Tóc sương mấy độ trăng tà mài gươm!
Trương Minh Nguyệt


CÂU CHUYỆN MỘT NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT ÍT ĐƯỢC NGƯỜI ĐỜI BIẾT ĐẾN: CUỘC ĐỜI VÀ NHỮNG NĂM TÙ ĐÀY LAO LÝ CỦA KỸ SƯ TRƯƠNG MINH NGUYỆT

Quỳnh Trâm
Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý thân hữu, quý chiến hữu cùng quý Niên trưởng,
Trong những ngày qua, công luận trong và ngoài nước sục sôi với với sự kiện nhà cầm quyền cộng sản Việt nam tại Hải Phòng cướp đất ruộng, phá nhà cửa và bắt giam tra tấn, nhục hình người nông dân nghèo, lương thiện theo kiểu đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ năm 1949 đến 1957, đối với người anh hùng nông dân chinh phục lời nguyền của biển cả Đoàn Văn Vươn, dẫn đến cảnh tan cửa nát nhà, gia tài sản nghiệp phút chốc trở thành của riêng tây của bọn cường hào đỏ ở Tiên Lãng, Hải Phòng. Người nông dân trí thức Đoàn Văn Vươn cùng nhiều người thân trong họ tộc thì lụy vào vòng lao lý. Người dân trong và ngoài nước nghe thấy sự việc, ai cũng vô cùng căm phẫn bè lủ cường hào đỏ trước hành vi lấy thịt đè người, và tất nhiên cũng vô cùng thương cảm cho những người nông dân họ Đoàn, ở Tiên Lãng, Hải Phòng này, một câu chuyện tương tự, cũng từng xãy ra ở miền Nam sau ngày Vong Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975, cũng với một người nông dân trí thức, ở Sài gòn, cũng bất khuất chống lại bạo quyền, cũng bị cướp đất ruộng và cũng bị lụy vòng lao lý của bọn cường quyền đỏ 3 lần với hơn 20 năm tù ngục mà ít được người đời biết đến. Nhân ngày đón tết cổ truyền Nhâm Thìn 2012, cái tết tủi nhục lần thứ 37 của nhân dân Miền Nam, Phóng viên Quỳnh Trâm của PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM HÀNH ĐỘNG CỨU NƯỚC đã gặp gỡ người nông dân trí thức, người cựu tù chính trị TRƯƠNG MINH NGUYỆT và thực hiện cuộc phỏng vấn sau đây, chúng tôi xin gởi đến quý vị, quý thân hữu quý chiến hữu, cùng quý chiến hữu toàn bộ cuộc phỏng vấn này, để xin tỏ lòng kính ngưỡng đối với người tù bất khuất này, và cũng xin ghi thêm một tội ác của Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam đối với toàn dân tộc Việt.

Nói với thế hệ thứ ba để tiếp nối cuộc trường chinh tổ quốc


Đã nhiều lần ta tìm trong ký ức
Không thấy gì ngoài máu lửa thù căm
Không thấy gì ngoài hàng hàng lớp lớp
Bè bạn bỏ đời, rồi bè bạn đứng lên
Những ngọn cỏ xanh đã một lần đơm nụ
Đã tức tưởi miên trường, tức tưởi gãy ngang
Những ngọn cỏ xanh vùi rạn vào thân thể
Làm đá lót đường cho thế hệ thứ ba
Ôi ! chinh chiến đong đầy nước mắt

Phan Lạc Giang Đông


10.1.12

Về Ðà Nẵng Lần Cuối...


A20 Nguyễn Chí Thiệp

Sau hiệp định Paris 26 tháng 1, 1973, Hoa Kỳ hạn chế viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà. Sự sụp đỗ của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Tôi thường cọng tác ở các quân khu và các tỉnh nên thấy rõ điều này. Các cấp chỉ huy quân sự cao cấp thấy mình bị bó tay trong khi quân chính quy của Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập ào ạt qua đường Trường Sơn. Nhưng không ngờ được sự sụp đổ của miền Nam quá nhanh sau khi thất thủ Ban Mê Thuột và quyết định rút quân đoàn 2 ra khỏi Pleiku.

3.1.12

Bình-Tuy, Những ngày cuối cùng !




(Hồi ký chiến trường)




Ngày 02 tháng 04 năm 1975, Tiểu-khu Bình-Tuy được TK/ Bình-Thuận thông báo: Đoàn người di tản từ các tỉnh miền Trung (sau cuộc lui binh của vùng II chiến-thuật) đang hỗn loạn tràn vào thị xã Phan Thiết, lẫn lộn trong đó có một số tù nhân trốn thoát, thành phần bất-hảo và cũng có thể việt cộng giả dạng lính QL/VNCH bắn, cướp phá gây sợ hãi cho đồng bào tị nạn cũng như dân chúng tại địa-phương và tiếp tục đi về hướng Bình Tuy. TK/BT tức khắc xin QĐ III tăng phái một đại-đội Quân-cảnh, đơn vị QC này làm nút chặn tại ngã ba 46 (ngã 3 vào Bình-Tuy từ Quốc lộ I. .


19.12.11

TÔI ĐÃ GẶP Ở ĐÂY


Sau khi bị đánh đập, cùm kẹp đến liệt hai chân và rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được đường tiểu tiện và đại tiện, tôi nằm chờ chết trong xà lim. Nhờ sự can thiệp tận tình của hai bác sĩ tù Trần Quý Nhiếp và Trần Văn Lịch, cộng thêm đề nghị của một phái đoàn Thanh Tra Y Tế từ trung ương, tôi được chuyển vào một bệnh xá nhỏ ở Phân Trại B, nơi giam giữ tù hình sự. Tôi đã sống chung với đủ mọi loại tội phạm: giết người, trộm cướp, hiếp dâm, lừa đảo, xì ke ma tuý …v. v.


Tôi đến đây
trong một lần đi trốn
khi đang trong cuộc một trò chơi lớn
trò chơi đấu tranh
nhìn quanh
tôi thấy toàn thú dữ

CHIẾC KẸP TÓC

Bài thơ này viết về sự việc có thật tại trại A 20 Xuân Phước. Nhân vật chính trong bài thơ là một anh bạn trẻ, tù chính trị có án tại nhà 4. Tôi đem bài thơ đến len lén tặng anh. Mấy ngày sau anh gặp tôi và nói “Tụi nó đạp gẫy cây kẹp tóc ; tôi đã nhờ gởi bài thơ của anh về tặng em gái tôi để thế cho cây kẹp. Chắc nó hiểu lòng tôi

Chiếc kẹp tóc xinh xinh
anh dành tặng cô em gái
ngày anh đi tù còn nhỏ dại
giờ đã bước vào tuổi mộng mơ
chiếc kẹp tóc đơn sơ
nhưng ấp ủ
biết bao tình thương
của nguời anh tha hương

16.12.11

TRIỆT THOÁI




A20 Lê Phi Ô

(Những cứ điểm mà việt cộng cần phải triệt-hạ trước khi tiến đánh Xuân-Lộc, Long-Khánh)

I/ Tháng 12/1974 Việt cộng mở chiến dịch "Tánh-Linh & Hoài-Đức" với mục đích đánh chiếm hai quận Tánh-Linh và Hoài-Đức thuộc tỉnh Bình-Tuy. Nếu thành công chúng sẽ cắt đứt được Quân-khu II và Quân-khu III tại cây số 125 thuộc Quốc lộ 20 đường đi Đà-Lạt và chúng cũng sẽ kiểm soát được ngã ba Ông Đồn nằm trên Quốc lộ I đây là con đường huyết mạch đi các tỉnh miền Trung, đồng thời bao vây và cô lập trước khi đánh chiếm thị xã Xuân-Lộc cửa ngỏ vào Saigon.

13.12.11

TRẬN CHIẾN CÔ ĐƠN !


(Những ngày cuối cùng của chi-khu Hoài-Đức/Bình-Tuy)

Cuối năm 1974, việt cộng mở chiến dịch "Tánh Linh - Hoài Đức" hòng đánh chiếm hai quận Tánh-Linh và Hoài-Đức thuộc tỉnh Bình-Tuy, nếu thành công chúng sẽ kiểm soát được một vùng lãnh thổ rộng lớn của 3 tỉnh Long-Khánh, Lâm-Đồng, Bình-Tuy và Quốc-lộ 20 đường đi Đà-Lạt tại cây số 125 thuộc xã Phương-Lâm, quận Định-Quán, tỉnh Long-Khánh (theo tài liệu của Dr. Nguyễn Đức Phương - London, tác giả "Chiến tranh VN toàn tập”).

16.10.11

PHỎNG VẤN 20 NGUYỄN VĂN MƯỜI


A20 NGUYỄN VĂN MƯỜI ĐÃ ĐÀO THOÁT
KHỎI NHÀ TÙ LỚN VIỆT NAM




Nguyễn Văn Mười (Mười rụng)


Kính thưa quý vị, chúng tôi được tin A20 Nguyễn Văn Mười, một cựu Thủy Quân Lục Chiến, một cựu lính trấn đảo Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa cho đến ngày miền nam gãy súng, đã trải qua hơn 21 năm trong lao tù cộng sản, vừa đào thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam, đến tìm tự do tại Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Từ San Jose, phóng viên Kim Anh của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước đã liên lạc được với A20 Nguyễn Văn Mười và thực hiện cuộc phỏng vấn sau đây:
Phóng Viên PTPNVNHĐN: Chào anh Mười, Thưa anh tôi là Phóng viên Kim Anh, của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước từ San Jose, xin chúc mừng anh đã đào thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam. Thưa anh xin anh giới thiệu với độc giả của PTPNVNHĐCN sơ lược về nhân thân, về những hoạt động của anh rồi những năm tháng lao tù và hành trình đi tìm tự do của anh được không, thưa anh?
A20 Nguyễn Văn Mười: Dạ thưa chị, tôi là Nguyễn Văn Mười, những người bạn tù thường gọi tôi là Mười Rụng, bởi khi bị bắt, trong thời gian điều tra, cùng với nhiều nhục hình khác, công an điều tra của CS đã đánh tôi một báng súng AK vào miệng, lấy đi của tôi 3 chiếc răng cửa.

9.10.11

Tình Buồn

Từ giã thư sinh đi làm lính trận
Lang bạt giang hồ gối đất nằm sương
Nhớ mái trường xưa với hàng hoa Phượng
Sắc đỏ rụng rơi phủ kín sân trường

Từ đạo quê hương ngập tràn khói lửa
Súng đạn quân thù xé nát làng quê
Thầy cũ, bạn xưa lên đường lánh nạn
Chinh chiến bao năm tôi vẫn chưa về

Rồi một hôm quân hành qua phố thị
Một màu tang phủ lấp mái trường xưa
Phượng xác xơ, tường vôi loang vết đạn
Bóng dáng bạn, thầy khuất nẻo mờ xa

Tôi quay bước hồn xót xa nhỏ lệ
Giữa quê nhà như lạc chốn xa xôi
Thôi từ đây lìa xa nơi chốn cũ
Ngửa mặt nhìn trời thầm gọi... Phượng ơi !

A20 Lê-Phi-Ô
25/04/2011




Lui binh



A20 Lê Phi Ô

I. Mở đầu:

Trận đánh tại Chi Khu Hoài Ðức (Võ Ðắt) và Chi Khu Tánh Linh tháng 12, 1974, Quân Khu 7 Việt Cộng đã sử dụng lực lượng khoảng 2 sư đoàn gồm có: Trung Ðoàn 33 Quyết Thắng, Trung Ðoàn 812 Sông Mao, Trung Ðoàn 4 thuộc Sư Ðoàn 6 VC tân lập. 

Ngoài ra, chúng còn có Trung Ðoàn E.211, 2 trung đoàn địa phương thuộc Lâm Ðồng và Bình Tuy, 2 trung đoàn Pháo & Phòng Không và một Tiểu Ðoàn D200 Ðặc Công.
- Tại Hoài Ðức (Võ Ðắt): Việt Cộng tấn công Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân với gần một sư đoàn Bộ Binh và một trung đoàn Pháo tại khu vực Gia Huynh, ấp Chính Tâm 2 và ấp Chính Tâm 1 nằm phía Nam Chi Khu Hoài Ðức từ 10 đến 12 cây số đường chim bay… Mục đích của Việt Cộng là muốn tiêu diệt LÐ7/ BÐQ tại đây để không cứu viện được CK Hoài Ðức. Vị trí pháo binh 105 ly của Pháo Ðội Trưởng Nguyễn Hữu Nhân phải dời vị trí nhiều lần vì VC pháo khá chính xác. Những chiến sĩ dũng cảm Biệt Ðộng Quân đã đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch, bẻ gãy ý định ngông cuồng của chúng, gây tổn thất nặng nề và làm giảm khả năng chiến đấu của Cộng quân (theo tin tức ghi nhận sau trận chiến).

30.9.11

Địa danh của tôi



Ý Cơ ( A20 Vũ Trọng Khải phu nhân )


Khi còn ở lứa tuổi học trò, trong giờ học môn địa lý, ngồi nắn nót vẽ bản đồ quê hương, hay được thầy chỉ cho xem, vị trí các quốc gia trên qủa địa cầu nho nhỏ, vào lúc đó, mình ao ước, sẽ có ngày được du lịch đến một quốc gia nào khác.

Nhưng bây giờ, vào lứa tuổi không còn trẻ, nghĩ lại, không nơi nào đẹp hơn quê hương mình.

Cuộc đời mỗi người, từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, ai trong chúng ta có hai tờ giấy quan trọng. Để chứng minh cho sự hiện hữu của ta trong cuộc đời này, là giấy khai sinh, trên đó ghi rõ địa danh nơi ta chào đời, và tờ giấy thứ hai, giấy khai tử, trên đó cũng ghi rõ địa danh lúc lìa trần.


12.9.11

Tiễn biệt đồng môn Lại Tình Xuyên


Cánh Bằng Đã Gặp Bóng Mây

Đỗ Tiến Đức

Đám già chúng tôi lại vừa mất thêm một người bạn thân quí. Tin báo về Lại Tình Xuyên đã qua đời khiến bạn bè ai cũng bàng hoàng gọi điện thoại hỏi thăm nhau mà không ai biết gì hơn vì điện thoại của nhà Lại Tình Xuyên không ai nghe. Nhưng không ai dám nghĩ cái bản tin ngắn ngủi từ một đồng môn ở Seattle gởi đi là tin thất thiệt. Thế rồi điện thoại reo, tôi bắt lên, chưa kịp “alô” thì đã nghe tiếng òa khóc của chị Xuyên như tiếng vỡ của chiếc độc bình cổ từ tầng cao rớt xuống: “Anh Đức ơi, anh Xuyên mất rồi. Anh Xuyên bỏ chúng ta mà đi rồi”...

6.9.11

TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC


Hồi Ký 26 năm lưu đày

Thích Thiện Minh
CHƯƠNG 6
TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC:
NƠI RỪNG THIÊNG NƯỚC ĐỘC…
“THUNG LŨNG CỦA TỬ THẦN !”
1. NGƯỜI NỮ ANH HÙNG: THÁI THỊ KIM VÂN
Sau vụ đào tường trốn trại bất thành. Tôi bị cùm quyện suốt ngày đêm, bị cúp thăm nuôi, không được nhận quà gia đình đã hơn một năm, đôi chân teo nhỏ lại và gần như bại liệt, đôi mắt trở nên mờ, thân thể ốm dần. Bất ngờ một hôm có một sĩ quan an ninh đến tại cửa phòng và thông báo tôi phải chuẩn bị đồ đạc cá nhân di chuyển gấp, chưa đầy năm phút sau, họ đến mở cửa, anh em các phòng bên cạnh đến kè tôi ra xe … một chuyến đi xa chưa biết sẽ về đâu?.
Chúng tôi tất cả gồm 21 người, 20 người nam và 1 nữ như sau :
1. Ông Huỳnh Quang Tiên, nguyên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh tỉnh Bạc Liêu.
2. Ông Danh Hồng, nguyên Hạ sĩ quan Ban Quân nhạc Sư đoàn 21
3. Ông Trương Hồng Phến, nguyên Hạ sĩ quan Tiếp liệu Quân đoàn 4.
4. Quách Văn Hoạch, nguyên Hạ sĩ quan Tiếp liệu Địa Phương quân tỉnh Bạc Liêu.
5. Huỳnh Hữu, nguyên Sĩ quan Đà Lạt.
6. Nguyễn Hồng Phúc, nguyên Sĩ quan Thủ Đức.
7. Nguyễn Long Hội.
8. Thái Kim Lái.
9. Trương Văn Nam
10. Đặng Văn Hai
11. Trịnh Thanh Sơn
12. Lê Văn Tài
13. Võ Anh Dũng
14. Lâm Văn Hoàng
15. Nguyễn Văn Mạnh
16. Nguyễn Thanh Xuân
17. Nguyễn Thanh phong
18. Huỳnh Văn Ba
19. Lâm Hồng Sương
20. Lý Son
21. Chị Thái Thị Kim Vân, nguyên sĩ quan huấn luyện viên trường Nữ quân nhân.

5.9.11

Xuân Trong Mắt Nàng




Bài của A20 Phạm Ngọc Cửu


Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn
Cho đến chừng này tuổi đầu - cái tuổi mà nhiều người nói rằng: gần đất xa trời, tuy cuộc đời đã trải qua trăm cay nghìn đắng, córất nhiều điều muốn nhớ mà không có cách gì để moi ra thì vẫn có những dấu ấn tuổi thơ không bao giờ phai mờ, nó vẫn ngọt ngào, vẫn thanh tao thanh khiết. Nó hiện đến vào cái lúc cô đơn, bốn bề là bóng tối vây bọc, là rét lạnh tê cứng xương da, là cơn nóng ập xuống ngột ngạt, là cái nhức nhối của cái móng cùm cứa vào ống chân, là mùi tanh tửi của phân, nước tiểu... nhờ có nó mà mùa Đông đi qua, muà Hè xuất hiện, tôi đã vượt qua được, sống được để khi cánh cửa sắt nặng nề rít lên với sức lực của tay tù hình sự trẻ tuổi ỳ ạch mở ra, tôi phải nhắm mắt vì ánh nắng đã làm nhức nhối không sao chịu được. Người tù hình sự đã dìu tôi đứng lên để nghe đọc lệnh tha ra khỏi xà lim, sau đó mở cùm và tiếp tục dìu tôi vượt qua khoảng sân rộng của trại giam để về đến chỗ của đội... Anh em đồng cảnh với nhiều cánh tay đón tôi vào chỗ nằm, tôi lả đi, mê mệt, bên tai là âm thanh của tiếng nói quen thuộc mà đã gần cả năm tôi không có dịp nghe...

28.8.11

Gửi người cô phụ


(cảm tác theo TÌNH NGƯỜI CÔ PHỤ thơ của văn hữu Uyên Thúy Lâm)



Em yêu dấu ! nước non mình khói lửa
Nợ núi sông anh khoác áo chinh nhân
Từ giã nhau, sân ga buồn lặng lẽ
Chân bước đi lòng cứ mãi ngập ngừng

Thôi em nhé từ đây mình xa cách
Đời chiến chinh đâu biết được ngày về
Hẹn ngày mai khi tàn cơn binh biến
Anh sẽ về với sông nước, tình quê

Từ thuở ấy anh đi vào sương gió
Chiến y xưa thấm máu bạn, máu thù
Có những lúc dừng quân nơi lũng thấp
Tiễn bạn mình vào giấc ngủ thiên thu

Rồi từng buổi lăn mình trong lửa đạn
Vẫn còn mơ - em… áo trắng sân trường
Anh cầu nguyện lần nào mình gặp lại
Một đóa hoa rừng trên tóc em thương

Mà em ơi ! quê mình còn khói lửa
Giặc thù còn bom đạn ngập làng quê
Đất nước tang thương, tình mình - đành hứa
Hãy để anh đi mai mốt anh về

Ôi ! tháng tư nào trong cơn biến động ?
Em lạc quê người - anh tận rừng sâu
Mình mất nhau tình yêu còn đâu nữa
Anh cúi đầu... gánh hết những thương đau !


A20 Lê Phi Ô
5/2011